31 thg 5, 2009

Trịnh Công Sơn & Tham Vọng Chính Trị

Trịnh Cung
Đã 8 năm kể từ ngày mất của Trịnh Công Sơn, 01-4-2001. Đã có rất nhiều bài và sách viết về người nhạc sĩ tài hoa xuất chúng này. Tất cả đều chỉ nói về 2 mặt: tình yêu (con người, quê hương) và nghệ thuật ngôn từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, tuyệt nhiên không thấy ai đề cập đến vấn đề Trịnh Công Sơn có hay không tham vọng chính trị.
Phải chăng như Hoàng Tá Thích, ông em rể của người nhạc sĩ “phản chiến” huyền thoại này đã minh định trong bài tựa cuốn sách Như Những Dòng Sông của mình nói về âm nhạc và tình người của ông anh rể Trịnh Công Sơn, do nhà Xuất Bản Văn Nghệ và Công Ty Văn Hoá Phương Nam ấn hành năm 2007: “…Anh không bao giờ đề cập đến chính trị, đơn giản vì anh không quan tâm đến chính trị”? Hay như nhận định của một người bạn không chỉ rất thân mà còn là một “đồng chí” (trong ý nghĩa cùng một tâm thức về chiến tranh VN) của Trịnh Công Sơn, hoạ sĩ Bửu Chỉ (đã mất) đã viết: “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, TCS đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả” (Trích bài viết: “Về Trịnh Công Sơn và Những Ca Khúc Phản Chiến Của Anh”, in trong Trịnh Công Sơn, Cuộc Đời, Âm Nhạc, Thơ, Hội Hoạ & Suy Tưởng do Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn ấn hành năm 2005)?

Sự thực có đúng như câu khẳng định chắc nịch ở trên của ông Hoàng Tá Thích và hoạ sĩ quá cố Bửu Chỉ? Chắc chắn là sai 100% rồi nếu như Trịnh Công Sơn không là tác giả của 3 tập nhạc phản chiến (Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời), và cũng chưa từng tham gia vào Phong trào Đấu tranh Đô thị của Thanh niên Sinh viên Học sinh để chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn mà chính cuốn sách của Hoàng Tá Thích và bài viết của Bửu Chỉ vừa nhắc đến ở trên đã có nhiều tiết lộ. Mặt khác, trong bài viết “Có Nghe Ra Điều Gì” Trịnh Công Sơn gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973 có đoạn như sau: “…Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ tự đề nghị với mình một trách nhiệm quá lớn, nhưng khi đã lỡ nhận chịu những cảm tình nồng hậu từ đám đông, thì những tình cảm kia phải được đền bồi…”. Và trong thư TCS gửi cho Ngô Kha - người bạn cùng chí hướng chính trị và cũng là người em rể, đồng thời là lãnh tụ của Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức này đã bị Công An Huế bắt (1972-1974) - chúng ta sẽ dễ nhận ra ý thức làm chính trị chống chế độ Sài Gòn của Trịnh Công Sơn. Nhất là trong đoạn Lê Khắc Cầm nói về mối quan hệ giữa TCS và tổ chức cơ sở thành uỷ Huế do Lê Khắc Cầm bí mật phụ trách trước 1975 như thế nào, thì không thể nói là TCS không có toan tính chính trị như nhận định của hoạ sĩ Bửu Chỉ (Xin xem thêm Thư TCS gửi Ngô Kha và đoạn trao đổi về lá thư này giữa Nguyễn Đắc Xuân và Lê Khắc Cầm trong phần tư liệu đính kèm bài).

Trinh cong son

Thủ bút Trịnh Công Sơn trong bài “Có Nghe Ra Điều Gì” gửi cho bác sĩ Thân Trọng Minh tức nhà văn Lữ Kiều năm 1973.

Trước khi nêu thêm những dẫn cứ quan trọng hơn để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về thái độ chính trị của TCS thời chiến tranh VN, và cũng nhằm cung cấp thêm tư liệu để làm rõ các mối quan hệ có tính dính líu vào hoạt động chính trị phản chiến thân Cộng của TCS, tác giả xin kể một kỷ niệm với Ngô Kha và vì sao Ngô Kha lấy tên cho lực lượng đấu tranh của mình là Chiến đoàn Nguyễn Đại Thức.

Vào năm 1971, tôi có mời Ngô Kha tới dự bữa cơm đầy năm Vương Hương, con đầu lòng của tôi tại nhà ở Phú Nhuận. Sau tàn tiệc, tôi đưa Ngô Kha ra về. Chúng tôi đi bô từ ngã tư Phú Nhuận về hướng cầu Kiệu, khi gần đến chân cầu, Ngô Kha nói với tôi: “Cậu vào chiến khu với mình đi, có người dẫn đường đang chờ”. Tôi không ngờ lại bị Ngô Kha đưa vào thế kẹt. Lúc này, tôi đang là Trung Úy biệt phái dạy tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, vừa bị Nha Mỹ Thuật Học Vụ trả về lại Bộ Quốc Phòng vì được Mỹ cấp học bổng tu nghiệp mỹ thuật tại Trung Tâm Đông và Tây, Hawaii, Hoa Kỳ (Sau 1975 tôi mới biết ông Nguyễn Văn Quyện, kiến trúc sư, Giám đốc Nha Mỹ Thuật Học Vụ, người ký quyết định không cho tôi đi Mỹ và trả tôi lại quân đội theo đề nghị của hoạ sĩ Vĩnh Phối - Hiệu trưởng Trường CĐMT Huế, cả 2 đều là Việt cộng nằm vùng), và Ngô Kha đang là em rể của Trịnh Công Sơn, cũng mang cấp bậc thiếu uý Quân lực VNCH có tư tưởng phản chiến, nhưng tôi không biết gì về hoạt động ly khai của anh cho tới lúc này. Thật bất ngờ và căng thẳng, làm sao tôi có thể đi về phía bên kia chiến tuyến? Tôi không hề tham gia vào phong trào phản chiến, tôi chơi với Trịnh Công Sơn, Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đinh Cường khi họ chưa là người chống lại chế độ Việt Nam Công Hoà. Ngay cả tại “túp lều cỏ” Tuyệt Tình Cốc ở Huế, nơi mà nhà văn Thế Uyên trong một bài viết của anh có tên “Cuộc Hành Trình Làm Người Việt Nam Qua Trịnh Công Sơn” đã tự bạch anh từng đến dự những cuộc họp bàn về đấu tranh chính trị do nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đứng ra tổ chức, tôi cũng chưa bao giờ đặt chân đến đó và thậm chí không hề biết có những việc như thế. Đơn giản vì tôi rời Huế vào sống ở Sài Gòn sau khi tốt nghiệp Mỹ thuật năm 1962, mối quan hệ giữa tôi và họ chỉ là một tình bạn văn nghệ thuần tuý. Để thối thác lời đề nghị ghê gớm này của Ngô Kha, tôi dừng lại trong bóng đêm bên này cầu Kiệu và nói với anh:”Ông thấy con mình vừa đầy năm, bà xã còn quá trẻ và yếu đuối, làm sao mình bỏ nhà đi vào căn cứ với bạn được. Hơn nữa mình không đồng ý cách giết người của họ ở Huế hôm Tết Mậu Thân… thôi chúc bạn lên đường may mắn!”. Thế nhưng, sự việc sau đó lại đưa Ngô Kha đến một hoàn cảnh khác. Anh không đi vào rừng mà về Huế rồi bị bắt và chịu một cái chết bi thảm.

Về Nguyễn Đại Thức là ai mà Ngô Kha dùng đặt tên cho lực lượng đấu tranh của mình?
Theo Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đại Thức nguyên là một hạ sĩ quan quân lực VNCH ly khai đã bắn hụt tướng Huỳnh Văn Cao khi ông dùng trực thăng kiểm soát tình hình Phật giáo xuống đường ở Đà Nẵng và Huế, và đã bị lính Mỹ bắn hạ. Hành động và cái chết của Nguyễn Đại Thức đã đưa Ngô Kha đến sự chọn lựa Nguyễn Đại Thức là tên và biểu tượng cho nhóm quân nhân ly khai đấu tranh chống Mỹ Nguỵ do anh tổ chức. Sau đây là đoạn viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Căn Nhà Của Những Gã LangThang: “…Theo tin tức quân báo của Kha nhận từ đoạn Đà Nẵng, thì lực lượng thuỷ quân lục chiến của Kỳ sẽ chĩa mũi nhọn vào những người của phong trào mà họ cho là nguy hiểm, ngay từ lúc họ đặt chân đến Huế để tránh hậu hoạ. Ngô Kha cùng đi với chiến đoàn ly khai của anh sẽ kéo dài cuộc cầm cự trên đèo Hải Vân, để tạo điều kiện cho tôi thoát…”. Đối với cá nhân tôi, nhờ tiết lộ kinh khủng này của Hoàng Phủ Ngọc Tường, những năm gần đây, tôi mới biết mình đã từng bị Ngô Kha dùng tình bạn để đưa vào cái gọi là Chiến đoàn ly khai Nguyễn Đại Thức mà không biết khi anh rủ tôi đi vào cứ như đã nói ở trên. May mà tôi đã từ chối.

Với bao nhiêu sự việc gắn kết với nhau, hoà quyện, ăn khớp, như thế mà chúng ta vẫn còn hoài nghi, vẫn biện bạch đây chỉ là một thứ tình cảm hồn nhiên hay hoa mỹ hơn, đấy là ý thức về thân phận dân tộc, tiếng nói đòi hoà bình đậm tính nhân bản cho quê hương của một người nghệ sĩ tài hoa như TCS, thì chi tiết sau đây đã được Nguyễn Đắc Xuân tiết lộ và đã xác nhận lại với tác giả bài viết này như sau: “Vào đêm ngày 29-5-1966, trên đường Trần Bình Trọng-Đà Lạt, Trần Trọng Thức (nhà báo), Nguyễn Ngọc Lan (linh mục, đã chết), Nguyễn Đắc Xuân và Trịnh Công Sơn đã cùng nhau bàn về một giải pháp chính trị cho trí thức yêu nước và người đưa ra sự chọn lựa rất quyết đoán và hợp ý với 3 bạn đồng hành với mình: “Không có con đường nào khác cho anh em mình ngoài Mặt trận Giải Phóng Miền Nam!”.

Vậy là đã quá rõ về khuynh hướng chính trị của Trịnh Công Sơn!

Từ Chính Trị Phong Trào đến Chính Trị Cầm Quyền?
Vỡ mộng chính trị cầm quyền
Những ngày trước 30-4-75, Sài Gòn rơi vào tình trạng hỗn loạn. Người thân cộng thì hí hửng, người quốc gia thì lo âu và tìm đường bỏ nước. Mọi thứ sinh hoạt đều tê liệt, tôi nằm trong số người chịu trận, bế tắc, no way out. Trong thời điểm tinh thần sa sút này, tôi thường ghé qua nhà TCS để tìm một thông tin tốt lành vì anh có nhiều mối quan hệ, nhưng cũng không được gì vì TCS từ chối ra đi và cho biết sắp nhận chức Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá trong chính phủ Dương Văn Minh lên thay Thiệu-Kỳ, em trai TCS là đại uý Trịnh Quang Hà sẽ được giao làm Cảnh sát Trưởng quận 2 (nay là quận 1). Thế là xong, TCS sẽ tham gia chính quyền được chuyển từ tay Nguyễn Văn Thiệu để thương lượng hoà bình với quân GP đang bao vây Sài Gòn và doạ sẽ tắm máu Sài Gòn nếu VNCH không buông súng.

Thế nhưng, TCS và người em không có tên trong thành phần chính phủ Dương Văn Minh khi các hệ thống thông tin quốc gia công bố ngày 27-4-75 và cũng không có tên kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đống trong vai đệ nhất Phó Thủ Tướng - người bạn chính trị không lộ diện của TCS từ trước sự kiện Tết Mậu Thân 1968, một cố vấn chính trị, một công trình sư cho sự nghiệp chính trị của TCS, đã vận động cho TCS vào chính phủ này như là đại diện của phe Phật giáo. Và với kết quả này, nhà hoạt đầu chính trị trẻ tuổi Nguyễn Hữu Đống đã phải rời khỏi nhà TCS ngay sau đó, sau khi đã ăn ở trong nhà TCS nhiều tháng trước như một người em rể.

Sau này, trong thời Lý Quí Chung còn sống, tôi có hỏi về sự việc này. Với tư cách là một Bộ trưởng Thông Tin và người rất thân cận với tướng Dương Văn Minh, Lý Quí Chung đã xác nhận: không hề có một đề cử nào cho TCS và Nguyễn Hữu Đống vào chính phủ Dương Văn Minh cả. TCS và gia đình đã bị Nguyễn Hữu Đống lừa rồi! Và từ đó TCS đã coi Nguyễn Hữu Đống là kẻ ghê tởm.

Một chút về Nguyễn Hữu Đống
Nguyễn Hữu Đống tốt nghiệp thủ khoa Trường Kiến Trúc Sài Gòn khoảng năm 1964 nhưng không hành nghề kiến trúc sư, bắt đầu chơi thân công khai với Trịnh Công Sơn vào khoảng 1970. Tôi không được biết gì nhiều về nhân vật này ngoài việc chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên trong nhà TCS những tháng trước 4/1975 với tư cách em rể TCS, giữa lúc Sài Gòn liên tiếp nhận những thông tin về các tỉnh Tây Nguyên thất thủ, và cũng được biết từ TCS vào những ngày cuối của tháng 4/1975 là: chính quyền mới sẽ vẫn giữ nguyên chiếc ghế Đệ nhất Phó Thủ Tướng của chính phủ đầu hàng Dương Văn Minh (tức ghế của Nguyễn Hữu Đống). Sau đó, Nguyễn Hữu Đống đã vượt biên và định cư ở Pháp.

Thế nhưng, vào khoảng năm 1992, Nguyễn Hữu Đống về Sài Gòn và tìm thăm tôi. Tôi tiếp anh tại nhà và cùng ăn trưa. Thật ra, giữa tôi và Nguyễn Hữu Đống không đủ thân để anh tìm thăm, chẳng qua là chỗ để anh trút hết những gì TCS và gia đình không tiếp khi anh tìm đến thăm họ sau hằng chục năm ly gián từ ngày ấy. Trong những thổ lộ của Nguyễn Hữu Đống có 2 chi tiết đáng chú ý: Một là: Ý tưởng và mô hình kiến trúc Ngôi Đền Tình Yêu có hình quả trứng (lấy từ truyền thuyết Âu Cơ đẻ ra 100 trứng) để TCS chủ trì như một giáo đường là của Nguyễn Hữu Đống; Hai là: để Ngôi Đền Tình Yêu này mang đậm sắc thái TCS, Nguyễn Hữu Đống lập ý cho TCS viết Kinh Việt Nam. Dự án này tôi đã được TCS cho biết trước năm 1975 và sẽ xây dựng trên ngọn đồi của Bác sĩ Bùi Kiện Tín ở Thủ Đức, nằm đối diện với nghĩa trang quân đội Sài Gòn cũ. Xét về mặt tài năng kiến trúc và con người đầy tham vọng làm chính trị của Nguyễn Hữu Đống cũng như mối quan hệ mang tính chính trị giữa anh và TCS thì thông tin này đáng tin hơn là gần đây có nghe dư luận từ Phạm Văn Hạng là dự án này của Phạm Văn Hạng và TCS được ông Võ Văn Kiệt ủng hộ?

(Để biết thêm mối quan hệ chặt chẽ giữa TCS và Nguyễn Hữu Đống, xin độc giả đọc thêm đoạn trích dẫn trong phần ghi chú cuối bài viết này, câu Lê Khắc Cầm trả lời phỏng vấn Nguyễn Đắc Xuân về TCS).

Bài Học Lớn Cho Người Làm Chính Trị Tự Phát Trong Xã Hội CSVN
Những Gáo Nước Lạnh Ngày “anh em ta về”
Tuy nhiên, sau sự thất bại ấy, TCS lại đứng lên vui mừng vì Sài Gòn của anh trong ngày 30-4-75 đã xuất hiện: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay” và“anh em ta về mừng như bão cát quay cuồng…”. Từ sự kiện tại Đà Lạt mà Nguyễn Đắc Xuân đã nhắc đến ở trên cho đến ngày 30-4-75 không có một chỉ dấu nào cho thấy có mối liên lạc về mặt tổ chức giữa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Trịnh Công Sơn. Thậm chí khi anh được kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái đưa đến Đài Phát Thanh Sài Gòn để hát bài Nối Vòng Tay Lớn mừng chiến thắng lịch sử 30-4-75, TCS, tác giả của ca khúc có tính dự báo cho ngày huy hoàng này của quân Giải phóng và bi thảm cho phía VNCH, cũng bị Tôn Thất Lập, một nhạc sĩ chủ chốt trong phong trào Hát Cho Đồng Bào đã thoát ly đi theo MTGPMN, đuổi ra khỏi phòng thu: ”Mày có tư cách gì mà hát ở đây!”…

Bị bất ngờ với cú ra đòn khá tàn nhẫn này của người “anh em”, TCS thật sự choáng váng và sợ hãi, mọi niềm hân hoan trong anh về giấc mơ hoà bình cho đất nước của mình nay đã thành hiện thực bỗng chốc tan thành mây khói. Niềm vui tưng bừng reo ca “…Mặt đất bao la / anh em ta về / Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…” (Nối Vòng Tay Lớn) hôm ấy không thuộc về TCS, và thay vào đó là nỗi ám ảnh sắp bị thủ tiêu và phải làm thế nào chạy trốn khỏi “người anh em” càng sớm càng tốt.

Thật ra, tai nạn chính trị này đã có nguồn gốc từ quan điểm chính về tính hai mặt trong âm nhạc và con người TCS của Ban Văn Hoá Tư Tưởng-Trung Ương Cục Miền Nam do Ông Trần Bạch Đằng phụ trách. Chính nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong Cứ trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

Và Cuộc Chạy Trốn Khỏi Sài Gòn
Sự sợ hãi càng tăng cao khi TCS nhận được tin mình sẽ bị thanh toán. Chỉ vài ngày sau, TCS đã âm thầm cùng mẹ rời khỏi Sài Gòn bằng xe đò, trực chỉ ra Huế, nơi anh cũng đang có những ”người anh em” thân thiết cũ vừa chiến thắng trở về như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Thái Ngọc San,… hy vọng chắc được yên thân.

Viet gian

Trở lại sống trong căn hộ cũ 11 Nguyễn Trường Tộ - Huế, TCS quây quần với bạn bè cũ và mới không được bao lâu thì cả thành phố Huế lên cơn sốt đả đảo TCS và Phạm Duy. Các biểu ngữ được giăng ở các trường đại học và TCS phải lên Đài truyền hình Huế đọc bài tự kiểm điểm. Sự cố lần này cũng lại do một nhạc sĩ tổ chức, nhạc sĩ Trần Hoàn, Giám đốc Sở VH&TT tỉnh Bình Trị Thiên. Thế là TCS đã tránh được vỏ dưa SG nay lại găp vỏ dừa Huế! Sự bé cái lầm lần này, có lẽ do TCS đã kỳ vọng ở bạn mình quá nhiều nhưng thực tế vai trò trong lực lượng tiếp quản Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân rất khiêm tốn, chính họ cũng đang phải cố gắng phấn đấu để được kết nạp vào đảng thì làm sao bao che cho tác giả của 2 ca khúc từng bị người CSVN kết án (Ca khúc Gia Tài Của Mẹ với câu: “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã xúc phạm đến đại cuộc chống Mỹ cứu nước của người CSVN và ca khúc Cho Một Người Nằm Xuống để thương tiếc Lưu Kim Cương - đại tá không lực VNCH chết bởi đạn của quân GPMN - người bạn một thời đã từng dùng máy bay không quân đưa TCS lên Đà Lạt thăm Khánh Ly hoặc ngược lại, đón Khánh Ly về hát với TCS) tại Sài Gòn?

Lần này ở Huế, tính tẩy chay TCS nghiêm trọng và công khai hơn hẳn vụ ở Đài Phát Thanh SG vừa qua. Tình bạn cũ trong trái tim TCS sụp đổ đã đành mà giấc mơ “Khi đất nước tôi thanh bình/Tôi sẽ đi thăm…” tưởng dễ thực hiện của anh cũng bị dập tắt. Những tháng ngày tiếp theo ở Huế, TCS sống như một con tin trong Hội Văn Nghệ Bình Trị Thiên, thường xuyên được tổ chức bố trí đi lao động thực tế trên những cánh đồng vào mùa khô cũng như mùa lụt, không hơn gì một người phải chịu cải tạo.

Cuộc Chạy Trốn Lần Thứ 2
Tuy nhiên, đang kẹt trong cái thế “tiến thoái lưỡng nan” này ở tại chính quê nhà, nơi mình từng tham gia hoạt động đấu tranh chống Diệm rồi chống Mỹ-Thiệu trong Phong Trào Đô Thị Huế với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ng K, Nguyễn Đắc Xuân,… cũng không xong mà về lại Sài Gòn thì càng nguy hiểm thì một vị cứu tinh kịp xuất hiện, ông Võ Văn Kiệt - nhà lãnh đạo công sản cao cấp tiếp quản Sài Gòn lúc bấy giờ. Một cuộc vượt biên nội địa đưa TCS vào lại Sài Gòn sau khoảng 1 năm anh phải “đi thực tế” tại các vùng quê tỉnh Bình Trị Thiên được bí mật tổ chức do ông Kiệt uỷ thác cho nhà văn cộng sản Nguyễn Quang Sáng thực hiện thành công. Từ đây, dưới sự ưu ái của ông Kiệt và nhà văn Nguyễn Quang Sáng được uỷ nhiệm của thượng cấp chăm sóc TCS, cái hạn bị hăm doạ hay trù dập với người nhạc sĩ lãng mạn cách mạng này đã kết thúc.

Qua những “sự cố” như thế, có thể thấy TCS đã mắc những sai lầm với người CS như sau:

- Thiếu minh bạch trong suy nghĩ về chiến tranh VN và tính hai mặt trong quan hệ xã hội.

- Không ở trong một đường dây của tổ chức và chịu sự lãnh đạo của tổ chức đó.

- Không dám thoát ly đi theo MTGPMN.

Và những sai lầm của TCS với phía VNCH:

- Kêu gọi phản chiến nhưng chỉ nhằm vào phía VNCH.

- Thiên về phía người CSVN ngay cả sau khi bị họ giết hụt trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế.

- Chống lại phía đã tạo cho mình điều kiện học hành và tự do sáng tác, kể cả tự do tư tưởng dù có bị chế độ SG hạn chế và kiểm duyệt, nhưng không quyết liệt tiêu diệt như đã được thổi phồng (dùng giấy của Hoàng Đức Nhã cấp để đi đường do Phùng Thị Hạnh trung gian, nhiều sĩ quan VNCH che dấu,…) để có một nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tồn tại lừng lẫy như thế cho đến ngày 30-4-75. Dù ý thức chính trị ra sao, Trịnh Công Sơn vẫn là sản phẩm của chế độ VNCH đúng như Đặng Tiến đã nhận định trong một bài viết ở đâu đó mà tôi không còn nhớ tên.

Bước Ngoặt “Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui”
Sa Lầy vào Rượu và Xu Nịnh
Cuối tháng 5-1978, tôi ra khỏi trại cải tạo, gặp lại TCS. Lần nào đến nhà anh ở 47c Phạm Ngọc Thạch-Sài Gòn, sáng hay chiều, cũng thấy TCS ngồi nhậu rượu Ararat, một loại cô-nhắc Nga (sau “đổi mới” chuyển qua rượu chát đỏ của Pháp, và sau cùng là Whisky Chivas) với Nguyễn Quang Sáng và một số bạn “mới”. Tôi cảm thấy có một điều gì đó không ổn, hình như tôi, một thằng sĩ quan Nguỵ đi tù về, không còn được TCS và gia đình coi là người thân như ngày xưa. Thái độ khó chịu của tôi mỗi lần ngồi trước mặt những người bạn “mới” này của Sơn đã khiến tôi bị TCS và gia đình tẩy chay ngầm.

Thực ra, tôi đã bị TCS và nhóm bạn Huế cũ loại ra từ những năm tháng tôi đi lính VNCH mà tôi không hề biết. Sau này, hoạ sĩ Tôn Thất Văn (đã chết) đã kể lại cho tôi rằng có những cuộc họp ở Huế vào những năm 60-70, TCS và những người mà tôi đã coi là bạn thân tình đã đem tôi ra để phê phán, tẩy chay vì tôi đã không trốn lính và đứng về phía Quốc Gia. Rất tiếc, trong số này lại có cả Đinh Cường, người đã từng học cùng trường mỹ thuật, ở cùng nhà, và do tôi giới thiệu làm quen với TCS, do tôi kết nối với anh bạn Thọ giàu có ở Đà Lạt để có những tháng ngày cùng TCS rong chơi thơ mộng khi lưu lại căn phòng anh Thọ đã thuê cho tôi tại biệt thự số 9 đường Hoa Hồng hay ở trong căn nhà sàn gỗ thơ mộng bên một dòng suối róc rách trong một hóc núi của thị trấn Đơn Dương từ trước khi tôi rời Đà Lạt về Sài Gòn năm 1964 theo giấy gọi vào quân trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19. Và cả những tháng ngày nhàn nhã làm sinh viên sĩ quan tại đây vào năm 66 hay 67, lúc này tôi là sĩ quan huấn luyện CTCT và phụ trách một phần nguyệt san “Bộ Binh”. Sau ngày 30-4-75, với cấp bậc Trung uý ngành Công binh VNCH, Đinh Cường trở lại Trường Mỹ Thuật Huế và được miễn đi học tập cải tạo nhờ vào việc đã tham gia các hoạt động đấu tranh chống VNCH của nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, TCS,.., nhiều năm trước.

Có một kỷ niệm đặc biệt với Đinh Cường mà tôi cũng muốn nói ra luôn sau bao nhiêu năm cố giữ chặt trong lòng, để lòng mình thôi nặng trĩu và cũng minh chứng cho một tình bạn không hề có thật mà anh ấy đã dành cho tôi, mà tôi đã hằng chục năm cố nghĩ khác đi, cố không tin. Sự việc xảy ra như thế này: Ngày 1-5-75, 8g sáng tôi đến nhà Đinh Cường ở đường Nguyễn Đình Chiểu cũ, gần chợ Tân Định để xem tình hình như thế nào. Như thường lệ tôi vẫn đến đây dễ dàng như người trong nhà nên rất tự nhiên bước lên cầu thang dẫn lên căn gác của bạn mình. Thế nhưng chị TN, vợ Đinh Cường đã chặn tôi lại ở giữa cầu thang và nói Đinh Cường đi khỏi rồi. Tôi không tin và nói lớn là có hẹn trước, lúc đó Đinh Cường mới nói vọng xuống để tôi lên. Khi lên tới nơi thì đã có mặt của Bác sĩ Trương Thìn, Nhạc sĩ Miên Đức Thắng cùng ngồi đó. Tôi gượng gạo ngồi xuống và Đinh Cường nói với 2 vị khách kia như hỏi ý: “Mình cấp cho TC cái giấy chứng nhận thuộc Thành Phần Thứ 3 nhé!”. Lập tức tôi đứng lên và từ chối: “Không, hãy để tôi chịu trách nhiệm với họ, và Thành Phần Thứ 3, Thứ 4 gì họ cũng dẹp sạch thôi!”…

Với TCS, gia đình cùng các “đồng chí” rượu của anh, tôi lúc này là một kẻ xa lạ, một người lạc hướng, môt cái gai khó chịu, một con kỳ đà làm cho cuộc vui hoan lạc của họ không được hoàn hảo, tôi nên biến đi. Nhưng tôi lại là một gã ngoan cố, tự cho mình nhiệm vụ phải ngồi lại để làm Sơn tỉnh táo hơn, để những tiếng nói bớt đi những lời xu nịnh. Ý thức được rượu, phụ nữ và xu nịnh là một loại ma tuý tổng hợp đang nhấn chìm TCS được nguỵ danh dưới khẩu hiệu “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” nên tôi cố chiụ đựng sự khó chịu của họ và vẫn không tìm cách lấy lại chỗ đứng thân thiết vốn có với TCS thủa còn trai trẻ ở Huế bằng rượu chè, quà cáp đắt tiền và những tán tụng nuông chìu. Tôi vẫn đứng trên đôi chân liêm sỉ và theo đuổi một thứ nghệ thuật tri thức, đó là chỗ mà TCS, trong thâm sâu của tâm hồn anh, không thể loại bỏ tôi cho dù có khác nhau về quan điểm chính trị và cách sống. Đó cũng là điều mà TCS trong những lúc cô đơn nhất đã đến gõ cửa nhà tôi bất kể đêm khuya hay khi bình minh vừa ló dạng để hàn huyên hoặc khoe và hỏi ý kiến tôi về bức tranh mà anh vừa vẽ.

Điều Đáng Tiếc
Trong thời buổi sống như một kẻ bên lề của một Sài Gòn đã bị đổi tên và những người bạn thân một thời hồn nhiên như thế nay cũng đã cúi mình, ngoan ngoãn làm những con rối của chế độ mới, quay lưng lại với thân phận khốn đốn của đồng loại, tự huỷ tri thức, lương tâm, thứ một thời nhờ nó đã làm nên những ca khúc tranh đấu cho thân phận và tự do con người, nay chọn cho mình con đường sa lầy vào rượu, thuốc và phụ nữ, tôi thấy mình thật sự cô độc và bất lực trước sự sụp đổ từng ngày của một người bạn tài hoa nhất mà tôi từng yêu quí. Nhiều khi tôi muốn nói với bạn mình: “Tại sao cậu lại sa đà vào những cuộc chơi phù phiếm? Tại sao cậu không viết những ca khúc cho thân phận VN 2 đang bị một thứ xiềng xích vô hình nhưng vĩnh cửu, vì nó được khoá bởi chính người VN chứ không phải ngoại bang? Hay ít ra thì cậu nên sống yên lặng như một cái bóng, một hòn đá tảng vì cái giấc mơ hoà bình, thống nhất quê hương của cậu dù không phải nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ hoàn toàn nền Cộng Hoà trẻ tuổi MNVN, nhưng về mặt tâm lý cũng đã ít nhiều làm lợi cho phía bên kia, vô tình đồng loã với kẻ đã gây ra cái bi kịch thảm khốc cho hằng triệu người Việt từng ái mộ, tôn thờ cậu nay phải bỏ nước ra đi bằng giá của cái chết không được chôn cất, bằng sự tật nguyền tinh thần, nếu may mắn đến được bờ tự do thì bạn cũng đáng được cảm thông… Vì tôi biết chắc chắn một điều là tất cả những trí thức thiên tả VN như cậu cũng đều không chờ đợi một kết cuộc cho đất nước theo cách như đang diễn ra…”. Nhưng có lẽ trực giác của tôi đã mách bảo rằng điều ấy nằm ngoài khả năng của TCS, cứ để cuộc sống của anh phụ thuộc vào bản năng, đã tiêu vong rồi một TCS mạnh mẽ dấn thân, mạnh mẽ ca hát cho hoà bình đất nước, cho dân tộc ấm no, bình đẳng, tự do và hạnh phúc như ngày nào. Thời cuộc làm ra TCS đấy thôi, anh không phải là người làm ra thời cuộc, nên tôi đã nghẹn họng.

Ảo Tưởng Cuối Cùng
Dần dà rồi TCS cũng tìm lại cho mình một phần phong độ sáng tác nhờ hấp thụ những ngọn lửa nhỏ từ những nhan sắc phụ nữ và sự trân trọng (theo chủ trương) của những nhạc sĩ thuộc Hội Âm Nhạc TP HCM như Xuân Hồng, Hoàng Hiệp, Thanh Tùng, Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… và một nhóm nhạc do họ tổ chức có tên “Những Người Bạn” ra đời khoảng thập niên 90, và TCS được coi là đầu đàn. Anh trở thành nhân tố quan trọng nhất trong việc thu hút sự chú ý của công chúng mỗi khi anh có mặt trong các show diễn của nhóm. TCS cũng là một tiếng nói có trọng lượng nhất đối với nhiều tên tuổi hàng đầu của nhạc cách mạng VN như Văn Cao, Trọng Bằng, Hồng Đăng,… trừ ông nhạc sĩ Bộ Trưởng Bộ VH&TT Trần Hoàn (đã nghĩ hưu), người từng mở chiến dịch đả đảo anh một thời ở Huế, là vẫn tiếp tục nhìn TCS như một kẻ xấu.

Dù gì thì thế đứng chính trị của TCS cũng đã được tốt hơn trước rất nhiều, có phải vì thế mà anh đã chủ quan nghĩ mình là người đến lúc nên đứng vào hàng ngũ của đảng?

Sơn đem ý định này nói với tôi, tôi liền can:“Không nên Sơn ơi, cậu đang là một nhân vật âm nhạc lớn, người ta nể trọng vì ảnh hưởng của cậu đối với công chúng rất lớn cũng như quốc tế. Nay cậu trở thành đảng viên mới tò te còn ai coi trọng nữa. Nếu ông Hoàng Hiệp chống lai là may cho cậu lắm đó!”. Tôi đã nói với TCS như thế và TCS im lặng. Tuy nhiên không phải nhờ sự phân tích ấy mà TCS không trở thành đảng viên Đảng CSVN, mà bởi sự ngăn cản của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, người giữ vai trò chính trị của Hội Âm Nhạc TP HCM và cũng là cán bộ có trách nhiệm quản lý TCS. Trong một lần bất bình vời Hoàng Hiệp về việc bị kiểm điểm, TCS đã chửi thẳng vào mặt Hoàng Hiệp ngay tại trụ sở Hội Âm Nhạc TP HCM:”Mày là thằng mặt ***!”.

Đã không những không được vào đảng, TCS còn được cho về hưu để vĩnh viễn kết thúc giấc mơ - ảo tưởng cuối cùng của anh.

Cái Chết - Vinh Quang Đích Thực
Nếu con đường chính trị đối với TCS là một con đường dẫn anh xuống vực thẳm thì cái chết là một kết thúc hoàn hảo. Hay nói một cách khác, nó đã giải cứu và trả lại vinh quang đích thực cho anh - vinh quang dành cho di sản ca khúc TCS.

Không chỉ niềm vinh quang này bừng sáng huy hoàng bởi hàng chục ngàn người yêu âm nhạc của anh ở trong nước tiễn đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, mà người Việt trên khắp thế giới cũng nhỏ lệ tiếc thương, nhất là người Việt ở Mỹ, nơi mà Trịnh Công Sơn lúc sinh tiền không dám đặt chân đến dù không ít lời mời. Một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội trường báo Người Việt với sự tham dự đông đảo của nhiều giới khác nhau trong cộng đồng ở cả Nam và Bắc California ngay trong đêm 1-4-2001, điều mà trước đó không ai dám nói công khai về tình cảm của mình với TCS ở chỗ đông người tại Mỹ.

Lời Kết
Sau 8 năm Trịnh Công Sơn ra đi, mọi cảm xúc thương tiếc sau cái chết của anh trong mỗi chúng ta cũng đã phần nào chìm lắng, hôm nay, tôi quyết định và chọn lựa thời điểm này để viết về một góc khác, một phương diện khác của Trịnh Công Sơn mà chưa ai viết hoặc viết một cách có hệ thống.

Bài viết này chắc chắn sẽ gây ra sự mất mát tình cảm, sự đổ vỡ các mối quan hệ vốn có của tôi, vì một số những nhân vật được đề cập nay đang còn hiện diện trong cuộc đời. Sự thật bao giờ cũng gây mất lòng, tôi đã tự hỏi mình nhiều lần trong nhiều năm qua: có nên viết nó ra, giải thoát cho nó khỏi ngục tù trong tôi suốt hơn 30 năm qua? Sự quằn quại của nó trong cái nhà tù ký ức cũng làm tôi đau buồn đến không chịu nổi. Giải phóng cho nó là giải phóng cho chính tôi, dù có phải bị trả giá.

Đó là về phần cá nhân tôi, còn đối với TCS, bài viết này tôi muốn bổ sung thêm những điều mà trong các cuộc nói chuyện về TCS ở Mỹ tôi đã không thể nói hết được. Một nửa sự thật cũng chưa phải là sự thật. Tôi tin vào điều tốt đẹp của sự thật. Nó có thể sẽ làm tan đi hình ảnh một TCS được tô vẽ bởi những huyền thoại và ảo ảnh lấp lánh trong lòng ai đó, nhưng sẽ trả lại một TCS thiên tài đích thực của âm nhạc như nó vốn có, để mọi người nếu đến với nhạc Sơn thì sẽ có được cơ may yêu mến trọn vẹn một con người có thực, chứ không phải một thứ tượng đài được nhào nặn, tô vẽ và dựng lên vì một mục đích riêng. Đã đến lúc sự thật đó cần được trả lại cho những người Việt đã, đang và sẽ mãi còn coi nhạc Trịnh là lẽ sống của mình, mang nó theo mình như một thứ tài sản vô giá dù đi đến bất kỳ đâu, dù ở chiến tuyến nào.

Tất nhiên, những lập luận và lời kể trong bài viết này dựa vào những gì tôi đã trải qua, những tư liệu riêng và những tư liệu của những người bạn cũ của TCS mà họ đã công khai phổ biến trên các phương tiện truyền thông, và vì thế chắc chắn còn thiếu sót tất yếu, vì tôi biết còn nhiều sự thật đang được cất dấu bởi những người có quan hệ cận kề với TCS trong từng giai đoạn của lịch sử VN từ 1954 đến hôm trước khi TCS qua đời mà họ vì những lý do nào đó chưa tiện nói ra. Tôi xin cám ơn những ai sẽ đóng góp thêm những gì giúp cho bài viết này được hoàn hảo hơn, kể cả những phản biện.

Sau cùng, mỗi con người Việt Nam đã trải qua và sống sót sau cuộc chiến tranh khốc liệt vừa qua đều giữ trong mình những sự thật riêng, một gốc nhân chứng riêng, xin quí vị hãy trả lại nó cho lịch sử, nếu được như thế thì tấm gương lịch sử VN mới trong sáng được. Cũng vì điều này, cho tôi xin lỗi những gì mà bài viết có làm tổn thương đến một ai đó cũng là vì không còn sự lựa chọn nào khác.

Sài Gòn 29/3/2009
TRỊNH CUNG

Tư liệu tham khảo:
1. Như Những Dòng Sông, Hoàng Tá Thích, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ 2007.
2. Trịnh Công Sơn, Cuộc đời, Âm nhạc, Thơ , Hội hoạ & Suy tưởng, Nhà Xuất Bản Văn Hoá Sài Gòn, 2005.
3. Thư TCS gửi Ngô Kha, nguồn: http://www.gio-o.com
4. Sự thực Thư Gửi Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, phần phỏng vấn Lê Khắc Cầm, nguồn: http://www.gio-o.com
5. Có nghe ra điều gì, Thủ bút của TCS nói về trách nhiệm của mình với đám đông (Tư liệu của Bác sĩ, nhà văn Thân Trọng Minh - Lữ Kiều).

TRỊNH CÔNG SƠN - QUỐC GIA hay CỘNG SẢN ?


TRỊNH CÔNG SƠN VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG NẰM VÙNG
Liên Thành

5/27/2009 10:22:42 PM
Trong mấy tuần qua, tôi có đọc 2 bài viết của Trịnh Cung, tức Nguyễn Văn Liễu, và bài của anh Bằng Phong Đặng Văn Âu, viết về nhạc sĩ TCS
Trịnh Cung viết: “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị.”
Bằng Phong Đặng Văn Âu viết:“Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn. Một thiên tài đồng lõa với tội ác”

Hai tác giả với hai bài viết nói về TCS, nội dung khác nhau, nhưng hầu như cả hai đều đưa ra chỉ một vài dữ kiện, hoặc khách quan, hoặc chủ quan, qua tình bạn của họ đối với nhạc sĩ TCS. Để rồi, Trịnh Cung và Bằng Phong Đặng Văn Âu đều không kết luận được, hoặc là không muốn kết luận, một điều quan trọng nhất: Trịnh Công Sơn bên nào? Bên này ? Bên kia? Hay nói trắng ra là: Trịnh công Sơn là ai? Quốc gia hay cộng sản?

Đã bao năm qua, kể từ sau 1975, và mãi đến những ngày gần đây, tôi vẫn giữ thái độ im lặng. Nhưng sau khi đọc xong bài của Trịnh Cung, cũng như của Bằng Phong Đặng văn Âu, tôi quyết định lên tiếng về những gì, mà vì lý do nghề nghiệp, tôi đã phải nắm rất tường tận về TCS. Lý do thì cũng đơn giản, quý vị có thể hiểu được khi đọc xong bài này.

Cuối cùng thì giờ đã điểm. Qua bao nhiêu ca ngợi, bao nhiêu tranh cãi, lý luận, có lẽ, đã đến lúc TCS nên trở lại với những gì của TCS. Đó là SỰ THẬT VỀ CON NGƯỜI TCS. Trong một bối cảnh mà đất nước đang nghiêng ngả tang thương bởi nhiều vấn nạn, cộng với một thảm họa tày trời: SỰ XÂM LĂNG CỦA TOÀN BỘ LỰC LƯỢNG CS QUỐC TẾ, ĐẶC BIỆT LÀ TRUNG CỘNG, QUA BÀN TAY CS HÀ NỘI, Trịnh Công Sơn đã cống hiến gì cho quốc gia?

Giữ nhiệm vụ trưởng cơ quan an ninh tình báo Thừa Thiên-Huế từ 1966 đến đầu 1975, tôi có bổn phận phải chịu trách nhiệm chính về vấn đề gìn giữ an ninh trật tự, bảo vệ sinh mạng và tài sản cho đồng bào trong tỉnh. Và trên hết mọi chuyện, là đối phó với cục Tình Báo chiến lược Bắc Việt, lồng vào đó là một mạng lưới tinh vi và dày đặc CS nằm vùng tại Huế. Thật không sai khi nói Huế là một ổ nằm vùng. Do vậy, có lẽ chúng tôi là người “may mắn”(?!) PHẢI có bổn phận “BIẾT” rất “kỹ” về TCS và toàn bộ những phần tử hoạt động CS khác của Huế. Tôi biết TCS và nhóm người nối giáo cho giặc này, dưới tất cả các khía cạnh khác nhau.Từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ thói quen đến phẩm hạnh, đến tiểu sử, đến gia đình, thậm chí, nếu cần, thì cả gia phả vv, tôi đều có bổn phận phải biết. Và tôi sẽ lên tiếng một cách thẳng thắn, về những sự việc, thông tin, dữ kiện mà chúng tôi có được về đương sự trong bài viết này. Hy vọng, sẽ cung cấp cho lịch sử, và cho những ai quan tâm đến vấn đề TCS, cũng như các hoạt động chung của đương sự với các phần tử nằm vùng khác tại Huế, mà dù yêu, dù ghét, dù hận thù, dù ngưỡng mộ
tôn sùng, dù căm phẫn.... những thông tin chính xác và cần thiết, để quý vị có thể tự mình thẩm định, lại một cách đúng đắn, về con người TCS. Bởi vì, mỗi con người chúng ta, dù thế nào đi nữa, không ai muốn bị BỊP cả!

Trịnh Công Sơn bên nào: Bên này ? hay bên kia ? Quốc Gia?, Cộng Sản?

Trước khi xác nhận cũng như công bố nhiều chuyện liên quan đến TCS, xin được phác họa lại tình hình an ninh và nội chính của Thừa Thiên-Huế, sau ngày 1/11/ 1963:
Sau đảo chánh, ảnh hưởng và thế lực chính trị của PG Ấn Quang, và đặc biệt Trí Quang, Đôn Hậu đối với chính quyền trung ương cũng như địa phương, và trong hàng ngũ tín đồ Phật giáo tại miền trung, nhất là tại Huế, QUÁ MẠNH!
Chùa Từ Đàm trở thành Dinh Độc Lập II, đó là trung tâm quyền lực thật sự cho cả Miền Nam VN. Tại miền trung, chùa Từ Đàm là tàn cây cổ thụ đầy bóng mát, che chở cho mọi hoạt động của các cơ quan dân vận, tôn giáo vận, trí thức vận, tổ chức học sinh, sinh viên “Giải Phóng” thành phố thuộc Đại Học Huế và các trường Trung học. Tất cả đều nằm dưới sự điều động của tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế và Thành Ủy Việt cộng.
Hầu như không có một cơ quan an ninh nào của chính phủ VNCH dám sờ vào các ổ nằm vùng gần như công khai này. Họ chỉ lấy vải thưa để che mắt thánh, nhưng thật tình không ai dám đụng đến họ cả. Nếu đụng đến họ, sẽ bị lu loa là “tàn dư Mật Vụ Nhu Diệm”, là “đàn áp Phật Giáo”, là TÀN ĐỜI! Mọi tổ chức, mọi cơ sở nội thành của Việt Cộng được phát triển hết năng xuất. Tất cả là nhờ tài điều binh khiển tướng của Trung Tá điệp Viên Hoàng Kim Loan, thuộc Cục Tình báo Chiến lược Bắc Việt. Trung gian liên lạc là bí thư thân tín của Thích Trí Quang: Nguyễn Khắc Từ. Sau 1975, Nguyễn Khắc Từ lộ diện là viên đại tá Việt Cộng. Hổ trợ tận tình cho Hoàng Kim Loan là Trí Quang, Đôn Hậu.
Có thể nói từ 1963, sau đảo chánh, đến 1966, là thời gian nổi loạn Miền Trung của Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu. Ba năm oan nghiệt này là thời đại mạt vận của tất cả các cơ quan tình báo dân sự cũng như quân sự của chính phủ VNCH. Trí Quang, Đôn Hậu và hệ thống rất lớn các “thầy tranh đấu” của họ, đã xóa sổ các cơ quan tình báo xuất sắc của chính phủ, tại nhiều nơi. Đặc biệt thảm hại nhất là tại Thừa Thiên- Huế. Hủy diệt các cơ quan tình báo có nghĩa là mở đường cho CS tự do ra vào, có nghĩa là sinh mạng Miền Nam đang hấp hối!

Trước 1963, Đoàn Công Tác Đặc Nhiệm Miền Trung là do ông Dương Văn Hiếu làm trưởng đoàn. Nhưng, người chỉ huy thật sự bên trong lại là ông Ngô Đình Cẩn. Ông là một người có năng khiếu thiên phú về tình báo, dù chưa hề qua một trường lớp đào tạo chính quy nào. Có thể nói đây là một năng khiếu bẩm sinh kỳ lạ của ông, đặc biệt là năng khiếu chống du kích chiến và chống dấy loạn trong thành phố. Cơ quan tình báo tinh nhuệ này đã phá vỡ và bắt giữ hầu như toàn bộ các cán bộ tình báo cao cấp của Bắc Việt gởi vào miền Nam. ĐCTĐNMT đã bẽ gãy mọi mưu toan của Hà Nội về chính trị cũng như quân sự, nhất là mục đích phá rối chính trị để làm suy sụp Miền Nam. Xin dẫn chứng tài năng và công lao rất lớn của ông Ngô đình Cẩn, qua lời nói của đối thủ: đại tướng CS Văn Tiến Dũng: “ Dưới thời Diệm, ta đã gởi vào Miền Nam 60 ngàn cán bộ, cuối cùng chỉ còn 5 ngàn, như vậy là thiệt hại đến 90%”. Sau khi ông anh là TT Diệm bị đảo chánh, bị đám tướng lãnh phản loạn bất chấp luật pháp, bất chấp kỷ cương phép nước, bất chấp đạo lý, bất chấp tình người, giết, thì ông em út cũng bị cùng chung số phận! Tòa án gì đây? Luật pháp gì đây? Luật của Trí Quang? Luật của Đôn Hậu? Luật của cái gọi là“ Phật Giáo đấu tranh”?? Tội gì thưa quý vị? Tội bắt nhiều CS! Ông Dương văn Hiếu, nhờ có ông Cẩn thế mạng rồi, nên quý thầy hơi khó làm áp lực giết thêm nữa. Sau đó, nhờ “đế quốc Mỹ xâm lược” can thiệp, nên chỉ bị tù.
Một cơ quan tình báo tinh nhuệ, đặc biệt, và bí mật khác, do ông Phan Quang Đông chỉ huy cũng bị xóa sổ. Cơ quan này hoàn toàn chỉ liên quan đến những điệp vụ quan trọng ngoài bắc mà thôi. Họ không hề dính dáng gì đến chuyện đàn áp Phật Giáo cả, cũng bị Thích Trí Quang vu vạ rồi giết. Theo lệnh Hà Nội, Trí Quang áp lực, yêu cầu chính phủ đương nhiệm, qua trung gian Nguyễn Chánh Thi, tử hình Phan Quang Đông, một viên chức chỉ huy tình báo tài ba xuất sắc, với tội “ Mật vụ Nhu Diệm”!
Cơ quan tình báo thứ 3 hoạt đông rất hữu hiệu tại Huế, là Ty Công An Thừa Thiên của chính phủ VNCH. Số phận cơ quan này cũng bi thảm không kém. Ông Lê Văn Dư Trưởng ty bị bắt giữ.
Hầu hết nhân viên phụ trách tình báo của 3 cơ quan này, hoặc bị sa thãi, hoặc bị bắt, hoặc bị thuyên chuyển khỏi các chức vụ trọng yếu. Tất cả cũng với tội danh tương tự: “ Mật vụ Nhu-Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy v,v…”

Sau khi loại trừ sạch các thành phần “Mật vụ Nhu Diệm ác ôn”, các thầy liền thay vào cái bình cũ là cơ quan tình báo của VNCH, loại rượu mới do quý thầy bào chế ra, đó là “rượu nằm vùng”!!

1. Nguyên Quận Trưởng Cảnh Sát Nguyễn Văn Cán, một cơ sở tình báo rất quan trọng của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan, được phong làm truởng ty CSQG Thị xã Huế. Ngoài ra, Nguyễn Văn Cán còn là cơ sở nuôi dưỡng tên Phan Nam, Thành ủy viên thành ủy Việt Cộng Huế, đặc trách an ninh của cơ quan thành ủy VC, trú ngụ thường xuyên trong nhà của Nguyễn văn Cán. Sau 1975 Phan Nam làm Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế.

2. Trần Văn Cư, đệ tử thân tín của Ông Đôn Hậu, được phong làm trưởng ty Công An Thừa Thiên. Trần văn Cư chính là người thẩm vấn thụ lý nội vụ ông Phan Quang Đông. Thừa lệnh CS Hà Nội, Đôn Hậu, và Trí Quang ngầm ra lệnh cho chính quyền, xử bắn Phan Quang Đông tại Sân Vận Đông Tự Do, thuộc quận III thị Xã Huế, với tội danh : ” Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo thủ tiêu quí thầy,v.v…”
Đau đớn và cười ra nước mắt, là từ 1966 đến 1968, hai ty Cảnh Sát lại giao cho hai tay nội tuyến Việt Cộng: Ty CSQG tỉnh Quảng Trị thì Trưởng ty lại là Đại Úy Lê Cảnh Thâm, làm việc cho cơ quan Quân Báo của VC. Ty CSQG Thừa Thiên-Huế thì Trưởng ty là Đoàn Công Lập, nhân viên thuộc cấp của Trung tá điệp viên CS Hoàng Kim Loan.
Khoảng thời gian dài này là thời hoàng kim tuyệt đỉnh của các hoạt động CS nằm vùng. Chỉ cần dán nhãn hiệu “ Mật vụ Nhu Diệm đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy” cho kẻ thù, là mọi việc xong ngay! Cả Miền Nam hoang mang, lo sợ, điêu đứng, biết bao thân phận bị vùi dập, cũng vì cái khẩu hiệu này.

Sau khi 3 cơ quan tình báo trọng yếu và vô cùng hữu hiệu này bị “các thầy” xóa sổ, các tổ chức cơ sở Việt Cộng trong thành phố Huế sinh sôi nẩy nở, phát triển tự do như rạ, như nấm . Chính quyền tuy biết, nhưng không dám đụng đến, vì sợ đụng chạm đến Phật Giáo. Sợ đến kinh hoàng mấy chữ “ Mật thám Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo”. Quý thầy đã thật sự thành công trong việc tự tôn, tự đồng hóa “CÁC THẦY LÀ PHẬT GIÁO”. Nói đến đây tôi không khỏi không bật cười, nhớ đến chuyện cũng tương tự như vậy. Đó là chuyện trên 30 năm nay, đảng CSHN cũng đã tự đồng hóa mình là tổ quốc! Và CS cũng đã thành công! Quý thầy cũng thành công!
Đại đa số các tổ chức CS như thế và hầu hết những kẻ tham gia trong các tổ chức đó, đều đã được Trí Quang, Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan bọc cho cái vỏ tôn giáo. Tỷ dụ như Liên Đoàn Học sinh, Sinh viên Phật tử, công chức Phật Tử, Quân nhân Phật tử, Cảnh sát Phật tử, Tiểu thương Phật Tử chợ Đông Ba v..v...
Thành phố mọc lên như rạ những địa điểm hội họp, tiếp xúc, của nhiều trí thức, giáo sư , sinh viên, học sinh, hoạt động cho các tổ chức trí thức vận, tôn giáo vận của Thành ủy Huế. Những địa điểm nầy trong danh từ chuyên môn chúng tối gọi là những “căn cứ lõm” của địch, tỷ như:

1- Quán Café “Bạn Tôi.”
Ở đường Đào Duy Từ , tại vùng Đập Đá thuộc quận III thị xã Huế.
Thành lập bởi Lê Văn Sâm, SV luật khoa, chủ quán. Có Ngô Kha, vợ chồng Giáo sư Đỗ Long Vân ở Pháp về, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Hữu Ngô, nhà văn Túy Hồng, Phan Duy Nhân, Trần Quang Long.

2- Lực lượng giáo chức tranh đấu tại Huế:
Chủ tịch kiêm chủ bút diễn đàn báo Dân là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phó chủ tịch là Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm.
Ngoài ra còn có tờ Sinh Viên Huế của tổng hội SV Huế, và tờ Lập Trường của nhóm trí thức đại học Huế, do giáo sư Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm. Chủ trương: Chống lại cái gọi là “Chế độ Diệm mà không Diệm”.
Quý vị độc giả, ai là người uyên thâm, xin hãy diễn giải và dẫn chứng rành rẽ, cụ thể, chứng minh dùm tôi, cụm từ “ Diệm mà không Diệm” này! Tôi chịu thua. Những lộng ngôn này là do ai làm ra? Ai sáng tác? Ai nghe theo? Mục đích là gì? Phá nát tất cả các chính quyền Miền Nam? Bất kể là ai lãnh đạo?
Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị họ gián tiếp giết, phong cho danh hiệu mang đầy tính tội ác, rùng rợn, răn đe: “Mỹ Diệm”, “Mật vụ Nhu Diệm, đàn áp Phật Giáo, thủ tiêu quý thầy”. Đất nước sau đó tang thuơng đổ vỡ, chính trị rối loạn, nhưng vẫn chưa vừa lòng. Thừa thắng xông tới, họ răn đe các chính quyền kế tiếp khác bằng khẩu hiệu mang tính bình mới rượu cũ: “ Diệm mà không Diệm”. Chỉ đơn giản vậy, nhưng buồn cười thay, một loạt các chính quyền sau đó đều xếp re, không dám hó hé với nhóm “ Phật Giáo Đấu Tranh” này

3- Tuyệt Tình Cốc.
Nằm tại hẻm Âm Hồn thuộc quận I thị xã Huế. Nguyên là ngôi nhà của cha mẹ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan. Sau khi hai ông bà dời nhà ra gần cửa Đông Ba, anh em Tường, Phan biến nơi nầy thành trung tâm hội họp hoạt động của đám sinh viên, trí thức cơ sở thành ủy VC Huế.
Tuyệt Tình Cốc là một ngôi nhà tranh, trong một khu vườn nhỏ có cây Ngọc Lan. Đến mùa hoa nở, hương thơm ngát.
Nhóm Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Ngọc Phan đã đặt tên cho cây ngọc lan này là “Cây hoa tình”, và ngôi nhà kia là “Tuyệt Tình Cốc, vay mượn trong tác phẩm kiếm hiệp Thần Điêu Đại Hiệp của tác giả Kim Dung
Tuyệt Tình Cốc thường xuyên do anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì sau nầy còn có họa sĩ Đinh Cường.
Trịnh Công Sơn, nữ văn sĩ Túy Hồng, Ngô Kha, Trần vàng Sao, Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Xuân Kiêm, chủ tịch tổng hội sinh viên Huế, cũng đã xuất hiện nhiều lần tại đây. Hầu hết đám này là cơ sở sinh viên và trí thức vận của thành ủy Huế
Tuyệt Tình Cốc cũng là nơi xuất bản tờ báo Việt Nam Việt Nam của nhóm trên, trong khoảng thời gian phong trào tranh đấu Miền Trung của Thích Trí Quang, giai đoạn cao điểm vào đầu hè 1966.

4-Căn phòng của Lê Văn Hảo, Giáo Sư nhân chủng học, Đại Học Huế cũng là nơi mà Hoàng phủ Ngọc Tường và đám sinh viên hoạt động cho Thành ủy VC dùng làm nơi viết và xuất bản báo chí.
Vô số những trí thức, học sinh, sinh viên hoạt động cho VC tại thành phố Huế. Họ tham gia sách động, trong vai trò lực lượng quần chúng: Cách Mạng đấu tranh của biến cố 1963, rồi cuộc tranh đấu bạo động 1966. Hãy nhìn, để phải giật mình tự hỏi: “Huế không mất vào tay CS trước Mậu Thân 1968 thì quả thật là một phép lạ”.

Hãy nhìn danh sách một ổ việt cộng nằm vùng dưới đây:
- Nguyễn Thiết: Sinh viên Luật Khoa phụ trách Thanh niên Thành Ủy Huế, thoát ly lên mật khu 1965
- Trần Quang Long: SV Việt Hán Đại Học sư phạm, thoát ly năm 1968.
- Lê Minh Trường: Sinh Viên Mỹ Thuật: Vượt ngục lên mật khu, sau đó xâm nhập tái hoạt đông bị lực lượng CSĐB phục kích bắn chết tại làng Hải Cát Hạ, quận Nam Hòa.
- Vĩnh Kha. SV Văn Khoa: Chủ Tịch Tổng Hội SV , Đoàn trưởng đoàn SV Phật Tử.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường: Giáo Sư.
- Hoàng Phủ Ngọc Phan: SV Y Khoa.
- Nguyễn Đính: SV Văn Khoa, bút hiệu Trần Vàng Sao.
- Phạm thị xuân Quế: Bác sĩ. Chủ Tịch Hội Phụ Nữ Thành Phố Huế.
- Thái Thị Ngọc Dư, sau này đậu Tiến sĩ Địa lý Học tại Pháp
- Trần Anh Tuấn: Tiến Sĩ Luật Khoa tại Mỹ
- Hoàng Văn Giàu: Phụ khảo đại học Văn Khoa Huế. Đoàn Trưởng đoàn SV Phật Tử Huế. Hiện ở Úc Châu
- Thái Thị Kim Lan: Sinh viên Văn Khoa , sau du học đậu Tiến Sĩ triết học tại Đức
- Nguyễn Đắc Xuân: SV Việt Hán, đại học Sư Phạm.
- Hùynh Sơn Trà: SV Y Khoa, thoát ly 1968
- Nguyễn Văn Sở: Đại học Sư Phạm Anh Văn. Thoát ly 1968
- Lê Thanh Xuân: Thoát ly 1968.
- Ngô Yên Thi: SV Văn Khoa. Thoát ly 1968.
- Nguyễn Hữu Ngô: SV Mỹ thuật
- Trần Hoài: SV Việt Hán: Đại học Sư Phạm. Thoát ly 1972
- Nguyễn Đức Thuận: SV đại học Sư phạm Anh Văn. Thoát ly 1968
- Trần Bá Chữ: SV đại học Sư Phạm Toán. Thoát ly 1968
- Nguyễn Thị Đoan Trinh, SV Dược Khoa Đại Học Sài gòn, sát thủ Mậu Thân 1968. Y thị trực diện đeo băng đỏ, nổ súng, hạ sát rất nhiều người. Thoát ly ngay sau CS bại trận Mậu Thân
- Lê Văn Tài: SV Mỹ Thuật, thoát ly 1968. Hiện ở Úc Châu.
- Nguyễn Văn Mễ: Học sinh lớp 12 Quốc Học. Thóat ly 1968
- Lê Phước Thúy: SV đại học Sư Phạm. Thoát ly 1968
- Lê Công Cơ: SV đại học khoa học. Thoát ly 1968
- Lê Khắc Cầm: SV, em giáo sư Lê Khắc Phò
- Lê Văn Hảo: Giáo sư nhân chủng học Đại Học Huế.
- Bà Đào Thị Yến, tức Bà Tuần Chi, nguyên Hiệu trưởng trường nữ trung học Đồng Khánh và cũng là tình nhân của Thích Đôn Hậu. Thoát ly ra bắc cùng với Thích Đôn Hậu, sau Mậu Thân, cùng với Giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm. Giáo sư Lê văn Hảo v…v…
- Bửu Chỉ: SV Mỹ thuật.
- Phan Duy Nhân: SV.
Và còn rất nhiều nữa….

Những cơ sở này, hiệp lực cùng với Thích Trí Quang, Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Chánh Trực, bí thư thân tín của Thích Trí Quang là Đại Tá tình báo cộng sản Nguyễn Khắc Từ, Hoàng Kim Loan, Trung tá điệp viên cục tình báo chiến lược Hà Nội, như thế đủ để phá nát Huế chưa? Thưa, Quá đủ!……..
Vì thế, miền Trung, đặc biệt Huế, đang bị nhuộm đỏ cách mạng, vừa hồng vừa chuyên. Miền Trung đang sôi sục lửa đấu tranh căm thù giai cấp! Đang là địa ngục của một mạng lưới CS nằm vùng khổng lồ, bán mình cho quỷ.

Ngày 23-1-1965 Thích Trí Quang cho lệnh học sinh sinh viên, đồng bào biều tình kéo đến đốt tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại số 4 đường Đống Đa. Sau đó đoàn biểu tình kéo đến đốt phòng Thông Tin Văn Hóa Hoa Kỳ (USIS) tại số 8 đường Lý Thường Kiệt, thuộc quân III thị xã Huế.
Ngày 27-2-1965 đám này họp báo ra mắt “Phong Trào Tranh Đấu Bảo Vệ Hòa Bình và Hạnh Phúc Dân Tộc” và “Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết”.
Chủ tịch là Thượng Tọa Thích Quảng Liên. Các thành viên: Bác sĩ Thú y Phạm Văn Huyến, thân sinh bà Phạm Thị Thanh Vân, tức bà Ngô Bá Thành. Nhà báo Phi Bằng, tức Cao Minh Chiếm, Luật sư Trịnh Đình Thảo. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ. Bác sĩ Lê Khắc Quyến khoa trưởng Đại Học Y Khoa Huế cũng bí mật nằm trong tổ chức nầy.
Về Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết, chủ tịch là luật sư Nguyễn Long. Các đoàn viên chủ chốt là kỹ sư Hồ Văn Bửu, kỹ sư Tô Văn Cang.

Hai tổ chức nầy đều đòi hỏi:
* Quân đội Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam.
* Vấn đề thống nhất của Việt Nam phải để cho người Việt Nam tự quyết.

Ngày 1-3-1965, Thủ Tướng Chính Phủ VNCH, bác sĩ Phan Huy Quát, ra lệnh cách chức
gần 50 công chức và khoảng 30 người bị bắt giữ. Trong đó có Cao Minh Chiếm, giáo
sư Tôn thất Dương Kỵ và thú y sĩ Phạm Văn Huyến.

Ba nhân vật nầy được giải ra Huế. Tướng Nguyễn Chánh Thi muốn thả dù nhóm này qua bên kia vỹ tuyến 17. Thủ Tướng Phan Huy Quát phản đối vì sợ báo chí và dư luận quốc tế xuyên tạc.
Ngày 19-3-1965, tướng Nguyễn Chánh Thi chủ tọa một buổi lễ ngay tại bên này cầu Hiền Lương, sau bài diễn văn, Cao Minh Chiếm, Tôn Thất Dương Kỵ và bác sĩ thú y Phạm Văn Huyến được dẫn từ phía bên nầy cầu, thuộc vùng chính phủ VNCH, sang đến giữa cầu, giao cho Cộng Sản Hà Nội. Cả ba lặng lẽ đi qua phía bên kia cầu phân chia biên giới Nam-Bắc.

Tình hình Huế mỗi ngày mỗi trầm trọng. Ngày 6-6-1966 lúc 12 giờ trưa, trên đài phát thanh tranh đấu tại Huế, Thích Trí Quang, tên cờ gian bạc lận, buôn thần bán thánh này, rút con bài cuối cùng: “Bàn thờ Phật”. Trí Quang chơi xã láng canh bạc cháy túi, không kể gì đạo đức tối thiểu: Đưa bàn thờ Phật xuống đường! Phật nào đồng ý cho hành động này?... Ngược lại, Phật đã độ trì người con trung nghĩa xứ Huế: Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan và lực luợng Đặc Nhiệm dẹp loạn miền Trung

Chỉ sau hai tuần lễ kể từ ngày 9-6-1966 toàn bộ lực lượng tranh đấu của Thích Trí Quang đã bị dẹp tan. Thích Trí Quang và đồng bọn, tướng Nguyễn Chánh Thi Tư Lệnh QĐI. Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận Tư Lệnh Sư Đòan I. Tất cả bị Đại tá Nguyễn Ngọc Loan bắt giữ.

Tôi liên tục mở các cuộc hành quân cảnh sát, bắt giữ toàn bộ đám cơ sở việt cộng nằm vùng cài trong Phật giáo, trong các tổ chức giáo chức, học sinh , sinh viên thuộc lực lượng tranh đấu của Thích Trí Quang. Một số lớn bọn chúng bị bắt giữ ngay, nhưng cũng có một số ít đã được trung tá điệp viên Hoàng Kim Loan gởi giao liên và đưa lên mật khu. Điển hình hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân.

Chuyện khám phá ra TCS hoạt động nằm vùng, là do chúng tôi theo dõi anh em họ Phan. Cuộc đào thoát của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan đã may mắn làm bộc lộ chân tướng của Trịnh Công Sơn.
Người đứng ra thi hành là giáo sư Tôn Thất Dương Tiềm, và Lê Cảnh Đạm, lúc đó là Tổng Thư Ký Đại Học Y Khoa Huế. Tôn Thất Dương Tiềm và Lê Cảnh Đạm là cán bộ trí thức vận của cơ quan thanh ủy VC Huế.
Và tôi đã vô cùng bàng hoàng, buồn bả ngẩn người, khi thấy Trịnh Công Sơn dính trong vụ này.

Lực lượng CSĐB đã bám sát theo dõi hai mục tiêu Tường và Phan từ lúc bọn này ẩn trốn tại nhà sách Khánh Quỳnh tại ngã tư Anh Danh, thuộc Quận I thành phố Huế. Tiệm sách nầy là của gia đình Tôn Thất Dương Kỵ một cán bộ cộng sản gộc tại Huế.
Sau đó, bọn chúng di chuyển qua trốn tại số 66 đường Phan Chu Trinh, quận III thị xã Huế. Đây là nhà an toàn của cơ quan Thành ủy VC Huế. Chủ nhân cũng là cơ sở nội thành, tên là Nguyễn Chính. Số 66 Phan Chu Trinh nằm ngay ngã tư Phan Chu Trinh-Nguyễn Trường Tộ, ngay đầu cầu Phủ Cam. Bên này cầu Phủ Cam là nhà tên Chính, và bên kia cầu Phủ Cam là nhà Trịnh Công Sơn, nằm trên đường Nguyễn Trường Tộ, đối diện với tòa Tổng Giám Mục Huế.
Đó là một dãy chung cư. Căn của Trịnh Công Sơn và gia đình trú ngụ là: 11/3 Đường Nguyễn Trường Tộ, quận III, thành phố Huế.
Tôi nhớ không lầm thì đó là ngày 11/6/1966. Trời nhá nhem tối, tôi chỉ huy điệp vụ, đứng hơi xa hiện trường. Hai anh em Hoàng phủ Ngọc Tường từ nhà Chính, bên này cầu Phủ Cam, đi rất nhanh sang nhà Trịnh Công Sơn, bên kia cầu Phủ Cam. Trịnh Công Sơn đã có kế hoạch chuẩn bị trước cho hai tên này ăn cơm tối tại nhà. Sau đó, một chiếc xe hơi màu trắng đến đón Tường và Phan đi ngay.
Tài xế là Lê Cảnh Đạm. Hộ tống là giáo sư Tôn thất Dương Tiềm. Họ lên chùa Thiên Mụ, và sau đó đi bộ vượt Long Hồ, Ngọc Hồ, vượt nguồn tả sông Huơng đến mật khu sau núi Kim Phụng.
Chiếc xe hơi trắng đó là của bà Tuần Chi, tức Đào Thị Yến. Mậu Thân 1968, bà giữ chức vụ Phó Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Huế. Vài ngày sau, đã cùng một phái đoàn đông đảo trí thức miền Nam và Thượng Tọa Thích Đôn Hậu, mà theo sự theo dõi ghi nhận của CSQG Thừa Thiên-Huế, cũng là người tình của bà, thoát ly ra Bắc.
Đó là lần đầu tiên mà lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế phát hiện hành động tiếp tay cộng sản của Trịnh Công Sơn.

Tôi sẽ không như Trịnh Cung hoặc anh Đặng Văn Âu chỉ nói thoáng qua về TCS. Vì “ méo mó nghề nghiệp”, tôi sẽ đi từng chi tiết một. Từ đời tư, gia đình, tình ái, sức khỏe, cá tính, tham vọng, đến những công tác tình báo mà TCS cộng tác với chúng tôi, những công việc mà TCS cộng tác với Cộng Sản, những công việc mà TCS cộng tác với Tình báo Ngoại Quốc. Kết quả và ảnh hưởng của những hành động của đương sự, đã gây tác hại như thế nào cho Miền Nam VN.
Đương nhiên sẽ đụng chạm và gây sóng gió. Và sóng gió không chỉ giới hạn riêng nhân vật TCS. Nhưng chỉ là sóng gió cho những ai trót đem lòng ngưỡng mộ tôn thờ nhân vật này một cách nhẹ dạ mù quáng. Còn những ai có chút bình tâm suy xét, biết yêu lấy quê hương khốn khổ này, thì những thông tin mà tôi đưa ra, sẽ chỉ là những xác tín. Nó rành rành như 2+2 là 4.

Với tất cả lương tâm và trách nhiệm của tôi đối với người dân Miền Nam VNCH và với lịch sử. Những gì tôi viết, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tôi sẵn sàng đối chất với bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào về vấn đề TCS. Và đặc biệt tôi càng rất muốn đối chất với những ai cho rằng những thông tin mà tôi đưa ra là sai trái về TCS và bất cứ nhân vật nào hoạt động CS có tên trong bài này

Ngay sau đó, tôi cho lệnh mở hồ sơ TCS, điều tra lý lịch chi tiết, bám sát theo dõi đương sự. Công việc nầy được giao cho toán xâm nhập E-16, mà trưởng toán là anh Nguyễn Bá Sơn.
Một thời gian sau, nhiều phát hiện cho thấy, TCS từ lâu đã có quan hệ chặt chẽ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Phan Duy Nhân, và đặc biệt với một cán bộ quan trọng của cơ quan Thành ủy VC. Cán bộ đó là Lê Khắc Cầm, em ruột của giáo sư Lê Khắc Phò. Y sống hợp pháp trong thành phố Huế, Trịnh Công Sơn rất thường xuyên liên lạc với y.
Ngoài ra, toán theo dõi cũng phát hiện được một số các cơ sở trong tổ chức trí vận thuộc tổ chức Học sinh-Sinh viên Giải Phóng thành phố Huế cũng có liên lạc chặt chẽ với TCS như:
Huỳnh Sơn Trà, SV Y Khoa. Đặng Văn Sở, Đại Học Sư Phạm. Lê Thanh Xuân SV Luật Khoa. Trần Hoài, Đại Học Sư Phạm Việt Hán. Giáo sư Ngô Kha, Đinh Cường, Trần quang Long, Trần Vàng Sao, Bửu Chỉ, và nhiều nữa….
Với những dữ kiện, tin tức, của trưởng toán xâm nhập Nguyễn Bá Sơn trình lên, tôi quyết định móc nối, ép TCS làm tình báo viên xâm nhập trong tổ chức trí vận và tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng của cơ quan Thành Ủy VC Huế.
Công việc nầy không khó. Vì đã nắm rất vững vàng và có đầy đủ bằng cớ là TCS hoạt động CS, nên khi tôi bí mật tiếp xúc với TCS tại nhà an toàn của cơ quan tình báo Thừa Thiên-Huế, trong khoảng thời gian gần 4 tiếng đồng hồ, TCS, không còn cách nào khác, buộc phải cộng tác.

Và tôi có tin TCS không? Theo bản tính nghề nghiệp, dĩ nhiên, tôi phải nói chữ không. Ngay sau đó, tôi cài thêm một nhân viên tình báo xâm nhập tiếp cận vói TCS và những bạn bè cơ sở nội thành VC của TCS để có thể theo dõi và phối kiểm một số tin tức mà TCS cung cấp cho chúng tôi, cho đến tận ngày 29 tháng tư 1975.
Nhân viên này chính là một nhân chứng sống, để có thể xác nhận cho những ai còn thắc mắc rằng có phải TCS là nhân viên tình báo xâm nhập của lực lượng CSĐB thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế, gài trong tổ chức cơ quan trí vận của thành ủy VC Huế hay không. Chính anh ta là người mà tôi đã giao cho ba giấy chứng nhận để đưa tận tay cho ba người: TCS và 2 người khác, xin tạm giấu tên

Đó là ba “sự vụ lệnh công tác đặc biệt’ do tôi, với tư cách là Chỉ Huy Trưởng BCH/CSQG/Thừa Thiên-Huế và là Tổng Thư Ký điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế, “yêu cầu mọi cơ quan Quân, Dân Chính, giúp đỡ người cầm giấy này đang thi hành phận sự”.
Sự Vụ Lệnh đặc biệt mà tôi cấp cho Trịnh Công Sơn là một lá bùa hộ mạng cực mạnh, bao bọc cho anh ta trong suốt nhiều năm. Nó đã giúp anh ta trốn quân dịch, khỏi bị bắt trong các cuộc ca hát phản chiến, hoặc biểu tình chống chiến tranh, chống chính phủ VNCH.
Vậy mà trong nhiều năm qua tại hải ngoại có một vài bài viết nói rằng trong thời gian chiến tranh, TCS phải trốn tránh cực khổ, nhọc nhằn để khỏi bị bắt đi quân dịch. Rõ là họ chỉ viết theo trí tưởng tượng, những hiểu biết mù mờ, hoặc theo lời kể vu vơ mơ hồ đâu đó.

Nhân viên giao sự vụ lệnh đặc biệt của tôi cho Trịnh Công Sơn hiện đang định cư tại vùng ngoại ô Washington D.C. Hoa Kỳ. Anh ta là một nhân chứng sống về vụ nầy.

1- Lý lịch TCS ghi nhận tại cơ quan CSQG Huế
Sinh ngày 28/2/1939
Học lực: Tú tài I, tức lớp 11. Chương trình Pháp.
Tốt nghiệp trường sư phạm Quy Nhơn.
Giáo viên Tiểu học.
Nghiện rượu và thuốc lá nặng.
Sức khỏe trung bình.
Bị bệnh xuất tinh sớm, sau đó đến 1974 hoàn toàn bất lực.
Bản chất: Trầm lặng, kín đáo, khôn ngoan, giỏi che đậy ý nghĩ của mình.
Xem trọng tiền bạc, có tính phản bội, trọng phú khinh bần, sẵn sàng quay lưng với bạn bè hay ân nhân của mình trước kia, nếu như họ sa cơ lỡ vận
Gia đình:
Phụ thân của TCS là một quân nhân phục vụ trong quân đội Pháp, nghành tình báo, phòng 2. Ông bị tử nạn xe hơi do xe của quân đội Pháp gây ra.
TCS có một người cậu ruột tên là Lê Văn Tông, một thương gia giàu có tại đường Phan Bội Châu, Huế. Ông nầy có vợ lai Pháp hiện định cư tại Pháp. Ông ta là võ sư Nhu Đạo Judo Club Huế. Thật ra TCS không học nhu đạo ngày nào cả. Có lẽ Trịnh Cung không biết, nên đã viết TCS có tập nhu đạo. Trịnh Công Hà, em TCS mới học nhu đạo. Hà là người từng gây chấn thương cho Trịnh Công Sơn khi Trịnh Công Hà dùng một thế võ khóa chặt TCS giữa sàn nhà, trong lúc hai anh em giỡn chơi với nhau.

TCS là anh đầu trong một gia đình đông con.
Các em trai là:
1- Trịnh Công Hà.
Sĩ Quan Quân Lực VNCH
Cấp bậc cuối cùng: Đại úy
2- Trịnh Xuân Tịnh
Trốn quân dịch.
Các em gái:
1- Trịnh Vĩnh Thúy
Chồng là giáo sư Ngô Kha.
2- Trịnh Vĩnh Tâm.
Chồng là Đại úy QLVNCH Hoàng Tá Thích. Hoàng Tá Thích có anh ruột là Hoàng Xuân Tùy cấp bậc Đại Tá, Chính ủy Sư Đoàn Điện Biên Việt Cộng. Sau 1975 làm Thứ Trưởng Bộ Đại Học.
3- Trịnh Thị Hồng Diệu. Không có gì đặt biệt.
4- Trịnh Thị Vĩnh Ngân. Không có gì đặc biệt.
5- Trinh Vĩnh Trinh, em út. Theo ghi nhận, Trịnh Vĩnh Trinh cùng mẹ khác cha với những người trên.

Đã có quá nhiều tranh cãi về TCS, quá nhiều câu hỏi được đặt ra: ‘Trịnh Công Sơn
bên mô? Bên Ni? Bên tê”.

Trong chức vụ và trách nhiệm của một Phó Trưởng Ty CSĐB và sau đó là Chỉ Huy Truởng BCH/CSQG/Tỉnh Thừa Thiên và thị xã Huế trong 9 năm, từ tháng 6/1966 đến đầu năm 1975, và là người đích thân áp lực, móc nối và sau đó điều khiển TCS trong chiến dịch xâm nhập vào các bộ phận trí thức vận, tôn giáo vận, học sinh sinh viên Giải Phóng Thành Phố Huế, qua những phong trào quần chúng đấu tranh tại đô thị của cộng sản, tôi có thể xác nhận rõ ràng và minh bạch về con người của Trịnh Công Sơn:

- Trịnh Công Sơn: Bên ni. Quốc Gia
- Trịnh Công Sơn cũng là: Bên tê. Cộng Sản Hà Nội
- Trinh Công Sơn còn có khả năng là : Bên nớ. Tình báo ngoại quốc
Hay nói một cách thẳng thắn, theo danh từ chuyên môn của ngành tình báo, thì
Trịnh Công Sơn là điệp viên hai mang 100% và có khả năng mang thứ ba là làm cho cơ quan tình báo ngọai quốc. Nhưng vấn đề đuợc đặt ra là, mang nào là mang chính ?

I- Trịnh Công Sơn: Bên ni.

Có phần đúng, TCS bên ni. Chính tôi đã tổ chức TCS làm tình báo viên cho ngành Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên và Thị Xã Huế. Mặc dầu trong khoảng thời gian từ 1966 đến ngày 28 tháng 4 năm 1975 cũng có lúc gián đoạn tạm thời vì anh ta không ở Huế. Nhưng chung chung thì anh ta đã hợp tác với chúng tôi trong khoảng thời gian không phải là ngắn.
Có người sẽ đặt câu hỏi, cái gì đã làm cho Trịnh Công Sơn hợp tác với Liên Thành, hay nói thẳng ra là chấp nhận làm tình báo viên cho CSĐB/ thuộc BCH/CSQG/Thừa Thiên- Huế:

1- Vì có máu phiêu lưu ưa mạo hiểm nuốn thành điệp viên?
Câu Trả lời: Không phải.
2- Vì tình cảm cá nhân giữa Liên Thành và Trịnh Công Sơn? Vì hai người quen biết với nhau từ lâu?
Câu trả lời: Cũng không phải.
3- Vì tinh thần ái quốc, tinh thần trách nhiệm của người quốc gia, tinh thần trách nhiệm của một người trẻ đối với hiện tình đất nước vào thời điểm đó?
Cậu trả lời: Lại càng không phải.
4- Vì quyền lợi bản thân, vì an ninh bản thân?
Câu trả lời: Đúng. Hoàn toàn đúng!

Khi tổ chức TCS, tôi đã dùng chiến thuật “Cây gậy và Củ rà rốt”:
Tôi đã đưa ra những bằng chứng rành rành hành động tiếp tay của TCS trong việc đào thoát của hai anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, do cơ quan B5 và thành ủy Huế trực tiếp tổ chức. Rồi việc một số cơ sở nội thành VC trong giới trí thức, sinh viên tiếp xúc thường xuyên với TCS, và nhất hạng là việc cán bộ Thành Ủy Việt Cộng Huế Lê Khắc Cầm, đã nhiều lần tiếp xúc vói TCS.

Tôi đã nói với TCS: “Với chừng đó sự việc đủ cho tôi có thể ký lệnh bắt giữ anh, cho thẩm vấn, thiết lập hồ sơ, không đưa ra tòa, mà trong quyền hạn và chức vụ của tôi, ngoài Chỉ huy Trưởng CSQG, Tổng Thư Ký điều hành Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh, tôi còn giữ chức vụ là Tổng Thư Ký Hội Đồng An Ninh Tỉnh, tôi có thể đề nghị vì tình hình an ninh, giữ anh hai năm tại Phú Quốc và sau hai năm lại tái xét. Cứ như vậy mỗi đợt 2 năm. Có bao nhiều lần hai năm tại đảo Phú Quốc trong đời người, Anh có chịu nổi không? “
Đó là cây gậy mà tôi dùng làm áp lực với TCS.

Vậy còn củ cà rốt?
Ngoài những giúp đỡ, phe lờ những việc không tiện nói ra, để gia đình TCS có thể kiếm sống, củ cà rốt rất ngọt là một Sự Vụ Lệnh đặc biệt đại khái:
“ Họ và tên…….
Người mang giấy nầy là Viên Chức Đặc Biệt thuộc BCH/CSQG Thừa Thiên-Huế. Yêu cầu các cơ quan Quân, Dân, Chính giúp đỡ, trong khi thừa hành phận sự.
Huế , ngày….
Chỉ Huy Truởng CSQG TT-Huế
Kiêm Tổng Thư Ký Ủy Ban Phượng Hoàng Tỉnh.
Thiếu Tá Liên Thành. “

Bề mặt và bề trái của tấm giấy này chỉ để bảo vệ cho TCS trốn lính.
Để đổi lại, TCS cung cấp những tin tức địch mà chúng tôi cần. Tỷ như: Danh tánh tổ chức, cá nhân các cơ sở nội thành VC trong các tổ chức trí vận, dân vận, tôn giáo vận của Thành Ủy VC. Các đường dây các trạm liên lạc nội thành của bọn chúng, kế hoạch hành động của bọn chúng v…v…Tóm lại những gì mà TCS biết được.
Nhưng những gì áp lực, những gì gượng ép, bắt buộc, thường kết quả không như mình mong muốn. Những gì TCS cung cấp cho chúng tôi chỉ là 1/10 những sự việc mà TSC biết được. Có nhiều việc rất quan trọng mà TCS đã tham gia, biết rõ ràng, tường tận, nhưng y vẫn giữ im lặng, không hề báo cáo. Trong khi đó, thì một đường dây nội tuyến khác của chúng tôi đã phúc trình sự việc lại cho chúng tôi. Xin đơn cử một vài trường hợp sau đây:

1-Tại bờ sông Hương thuộc vùng Gia Hội, đoạn đối diện với rạp Ciné Châu Tinh có một bến đò, thường xuyên có một chiếc đò neo tại đó, của một cặp vợ chồng nghèo, bán chè cháo độ nhật trên sông Hương về đêm. Người chồng là cơ sở nội thành của VC, nhưng thật ra lại là người của chúng tôi. Chiếc đò đó chúng tôi đã bỏ tiền ra mua và giao cho cơ sở sử dụng làm trạm liên lạc gặp mặt của cán bộ nội thành VC. Rất nhiều cán bộ, cở sở việt cộng trong tổ chức học sinh, sinh viên giải phóng thành phố Huế đến đó để hội họp, như: Bửu Chỉ, Ngô Kha, Trần Hoài, HoàngThị Thọ, Phạm Thị Xuân Quế… và ngay cả đương sự là TCS cũng đã đến đó hội họp một đôi lần. Nhưng tuyệt đối không bao giờ TCS cho chúng tôi biết trạm liên lạc này.
2-Cũng như vậy, trạm thứ hai là một quán café gần nhà Thượng Nghị Sĩ Trần Điền. Đây cũng là trạm liên lạc hội họp nội thành của bọn chúng. Chính TCS đã đi cùng Ngô Kha đến đây nhiều lần, nhưng đương sự vẫn tuyệt đối không báo cáo lên.
Chúng tôi cũng phát hiện rất nhiều thư từ, tài liệu VC từ nội thành Huế chuyển vào Saigon do TCS giao cho Nguyễn Hữu Đống chuyển đi. Lợi dụng những chuyến bay quân sự của một số bạn bè Không Quân, nên không bị ai soát hỏi.

II- Trịnh Công Sơn: Bên tê?

Những ai đã nghĩ rằng TCS là người Cộng Sản, hoạt động cho Cộng Sản điều đó đúng, đúng 100%. Tôi khẳng định như vậy .
Câu hỏi Trịnh Công Sơn: Bên tê?
Câu trả lời của tôi: Trịnh Công Sơn bên tê. Y hoạt động cho Cộng Sản.
Cán bộ điều khiển và chỉ đạo trực tiếp đương sự là: Lê Khắc Cầm.

Như đã biết trong một buổi họp mặt tại Tuyệt Tình Cốc của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vào thời điểm cao trào tranh đấu Miền trung đang lên cao 1965-1966, trước sự hiện diện của Hoàng Phủ Ngọc Tường, HP Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Đinh Cường, nữ văn sĩ Túy Hồng, Trần Vàng Sao, Trần Quang Long, những tay sinh viên tranh đấu gộc và cũng là đám cơ sở của Thành Ủy Huế, Trịnh Công Sơn đã hát một ca khúc
mới. Bài này chỉ nói lên nỗi bất hạnh của tuổi trẻ bị cuốn vào cơn bảo của cuộc chiến, nhưng hoàn toàn không nói gì đến nguyên nhân của cuộc chiến, di hại của nó, cũng như cách giải quyết vấn đề, như là nhạc của các nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, Anh Bằng, Phạm Duy vv. Bài hát đó là bài “Vết lăn trầm”: “Bài ca dao trên cồn cát, trên ngai vàng quê nhà một thời ngủ yên tuổi xanh….rồi một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình…”
Đó là bài nhạc phản chiến đầu tiên của Trịnh Công Sơn. Tác phẩm này được thai nghén trong một cái lò cộng sản nằm vùng, theo ý muốn của cộng sản HN, thì dĩ nhiên nó là con đẻ của CS. Trong khi bao nhiêu thanh niên cùng trang lứa với TCS đang cầm súng chiến đấu tất bật, thì TCS không làm gì cả. Chỉ ăn xổi ở thì, đến nỗi chợt thấy hoang vu quanh mình, nên đi làm cộng sản
Sau nầy TCS viết nhạc nói về cuộc chiến theo nhu cầu đấu tranh tại đô thị của đám SV, trí thức, hoạt động nằm vùng. Nhu cầu đó là làm tê liệt tinh thần bất khuất truyền thống của người VN, không muốn chiến đấu, bi quan nhu nhược, ỷ lại cầu an. Nhiệm vụ của TCS là chế ra những loại thuốc độc như thế!
Cũng đã có một vài phúc trình nói rằng, có một vài bài nhạc phản chiến của TCS, nhạc của TCS nhưng lời của Phan Duy Nhân. Phan Duy Nhân là một sinh viên, cán bộ cộng sản. Tôi nhớ không lầm thì y đã bị bắt và giam tại Côn Sơn từ sau Mậu Thân 1968

III- Trịnh Công Sơn: Bên nớ ? Tức cơ quan tình báo ngọai quốc

Tôi không muốn trả lời là YES, hay NO.
Không thể trả lời Yes vì chưa có thể công bố lúc này
Nhưng cũng không thể nói NO vì:
1- Có một số tin tức khá chính xác, cho rằng một số bài nhạc gọi là “Phản Chiến”, TCS đã viết theo đơn đặt hàng của tình báo ngọai quốc. Loại nhạc này được tung ra để tạo thêm chứng cớ là dân Miền Nam VNCH không muốn chiến tranh, muốn đầu hàng CS?. Bối cảnh phản chiến như thế, rất thích hợp và xác đáng cho việc “ Đồng minh tháo chạy”.
2- Như Trịnh Cung đã viết: “ Ngày 30 tháng 4 thì Sơn ở lại. Tôi nhớ buổi chiều đó Đỗ Ngọc Yến đến đón Sơn với một nhà báo Mỹ, đề nghị Sơn là đã có máy bay đưa gia đình Sơn đi Hoa Kỳ”.
Đỗ Ngọc Yến là ai?
Ông Đỗ Ngọc Yến là nhân viên tình báo xuất sắc của chính phủ VNCH. Nhiệm sở phục vụ là Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình báo.
Tình báo ngoại quốc đã phát hiện được những hoạt động của ông Đỗ Ngọc Yến trong sinh viên hoặc báo chí tại Sài Gòn, như là một cán bộ nội thành VC. Họ đã không biết rằng Đỗ Ngọc Yến là nhân viên của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, được gài vào nằm vùng trong tổ chức địch, nên đã móc nối ông Đỗ Ngọc Yến. Là một người trung thành với đất nước, ông Yến trình sự việc nầy lên thượng cấp để xin chỉ thị. Ông đã được Phủ Đặc Ủy Trung Ương chấp thuận để ông làm việc cho tình báo ngoại quốc.
Tôi bạch hóa trường hợp của ông ĐNY, bởi lẽ, chính thể VNCH không còn, và ông ĐNY cũng đã yên nghĩ. Nhưng ông còn để lại một nỗi oan sai trên cõi đời phiền muộn này. Và những điều tôi nói ra không còn vi phạm an ninh cá nhân của ông nữa, cho nên tôi phải nói. Mục đích của tôi là chỉ muốn minh oan, hay đúng hơn là trả lại danh dự cho một nhà báo tài ba, yêu nước. Khi tấm hình ông Yến ngồi chung với tên Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ Cộng Sản Việt Nam được tung ra, thì dư luận liền cho ông Yến là Cộng Sản. Mục đích của việc làm này chắc ai cũng hiểu.
Tấm hình đó, hơi giống truờng hợp tấm hình của nhiếp ảnh gia Mỹ Adam chụp Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công Cộng Sản Bảy Lốp, trong Mậu Thân 1968 tại Sàigon. Tấm hình đó chỉ có thể nói lên được một nửa những gì mà Adam muốn nói. Còn một nửa kia thì cần phải phân tích thật kỹ càng, rồi hãy kết luận về Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, cũng chưa muộn .
Cũng vậy, Đỗ Ngọc Yến ngồi chung với Nguyễn Tấn Dũng có thể vì nghiệp dĩ tình báo và mối dây vương vấn của ông ta chưa dứt. Bởi vì ngày xưa ông đã phải vì nhiệm vụ, tuân lệnh thượng cấp, là Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH, họat động cho tình báo ngọai quốc. Và con tằm lại phải tiếp tục nhả tơ. Đó cũng là chuyện bình thường của một người làm tình báo chuyên nghiệp như ông mà thôi. Còn trái tim ông vẫn để lại VNCH
Xin trả lại công bằng, công lý và danh dự cho ông Đỗ Ngọc Yến, một chiến sĩ tình báo xuất sắc của Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo VNCH
Vậy thì, chuyện Đỗ Ngọc Yến đi cùng nhà báo Mỹ đến, đề nghị đón Sơn và gia đình đi Mỹ vào ngày 30/4/1975 theo lệnh của ai?
- Phủ Đặc Ủy Trung uơng tình báo VNCH? Điều này không có
- Tình báo Việt Cộng?
- Tình báo Ngoại Quốc?
Chắc quí vị đã biết câu trả lời, là ai đã phái Đỗ Ngọc Yến và nhà báo Mỹ đến đưa TCS và gia đinh đi Mỹ, không cần tôi phải nói ra.

Những phân tích của CSQG Thừa Thiên Huế và suy nghĩ, ý kiến của tôi về Trịnh Công Sơn
Là một cán bộ điều khiển TCS trong chiến dịch xâm nhập vào hàng ngũ các tổ chức Cộng Sản tại Huế, trong một thời gian khá dài, BCH CSQG Thừa Thiên-Huế và tôi có những nhận xét sau đây.
1- Mặc dầu hợp tác với cơ quan tình báo quốc gia nhưng trái tim của TCS đã dành cho cộng sản.
2-Những xáo trộn chính trị, những cuộc biểu tình, đình công bãi thị, những ngày tuyệt thực, những đêm không ngủ, những màn văn nghệ đấu tranh phản chiến, đòi hòa bình (như đòi kẹo? nghe thật là dễ! thật là ngây thơ!), đòi người Mỹ rút quân, của đám trí vận nội thành, diễn ra triền miên tại Đại Học Huế, trên khắp ngỏ đường của cố đô. Công khai , hoặc bí mật, TCS đều góp tay vào.
3- Nỗi sợ lớn nhất trong đời TCS là sợ đi lính. Vì thế, bằng mọi giá, chấp nhận mọi điều kiện, để y được bao che trốn lính. Ngoài ra, để chắc ăn, TCS còn quyết tâm ve vãn các giới chức cao cấp của chính quyền VNCH thích nhạc của y, để cho y dễ dàng trốn lính. TCS đã trở thành con người hèn hạ thiếu tư cách

Trịnh Cung nói: “TCS sai lầm với người Cộng Sản như sau: Không ở trong đường dây của một tổ chức và chịu sự lãnh đạo của một tổ chức đó.”
Phát biểu của Trịnh Cung hoàn toàn dựa trên cảm tính, không dựa trên sự kiện. Phát biểu này hoàn toàn sai sự thật.
Ông Trịnh Cung, theo ghi nhận của CSQG, đã đổi tên từ Nguyễn Văn Liễu ra thành Trịnh Cung, không chỉ bởi tình bạn với TCS, mà còn bởi quan hệ tình cảm với cô em gái TCS là Trịnh Vĩnh Thúy. Có thể vì mối ràng buộc tình cảm nhiều mặt đã che mờ sự sáng suốt, nên Trịnh Cung đã không biết rằng ông anh rể hụt đang hoạt động cho cộng sản.
Tôi xin xác định: Trịnh Công Sơn nằm trong tổ chức trí vận của cơ quan Thành Ủy Việt Cộng Huế hẳn hoi. Và cán bộ lãnh đạo chỉ huy TCS là Lê Khắc Cầm
TCS đã nằm trong tổ chức nằm vùng tại Huế. Từng nhúng tay phối hợp giải thoát Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, theo chỉ thị của B5 và Thành Ủy. Sau này, những tên đại ác đó trở thành đao phủ thủ Tết Mậu Thân. TCS nghĩ gì khi viết và hát: “Chiều đi qua bãi dâu, hát trên những xác người, tôi đã thấy, những hố hầm, đã chôn vùi thân xác anh em…”
Xin hỏi vong hồn TCS, ai chôn xác anh em? Ai đã đập đầu anh em? Và ai đã giúp giải cứu những đại đồ tể này, để trở về giết dân lành Huế? TCS có trách nhiệm trong chuyện này hay không? Xin hỏi vong hồn ông?

Biết rất rõ ai gây ra chuyện thảm sát rùng rợn tại quê hương của chính mình, nhưng TCS sau đó vẫn tiếp tục hoạt động nằm vùng. TCS còn có trái tim không? Có tình nguời không? Rồi TCS vẫn viết nhạc phản chiến, mục đích phản đối chiến tranh một chiều. Có nghĩa là TCS chỉ phản đối cuộc chiến đấu của người đang phải tự vệ. Còn thì TCS ủng hộ và tiếp tay cho sự xâm lăng bằng vũ khí của CS đối với người dân Miền Nam. Như vậy, thử hỏi TCS có lương thiện không? Những lời lẽ mang tính triết lý về thân phận con người, trong nhạc TCS có thật sự từ trái tim anh ta? Nó có chút tình người nào không? Hay chỉ là những giai điệu vay mượn dối trá, phục vụ cho ác quỷ?
Trịnh Công Sơn phối hợp thường xuyên với lực lượng Sinh Viên Giải Phóng Thành Phố Huế của Trường Đại Học Huế, nhằm thi hành công tác dân vận, trí vận, qua những hội thảo, ca nhạc phản chiến. Tên tuổi đám CS nằm vùng có liên hệ chặt chẽ với y tôi đã viết ở phần trên.

Theo Trịnh Cung, Trịnh Công Sơn: “Không dám thoát ly theo MTGPMN”. Điều này hoàn toàn không đúng, bởi lẽ:
Vai trò và trách nhiện của TCS rất quan trọng trong việc gây suy sụp tinh thần yêu nước của nhiều tầng lớp thanh niên Miền Nam Việt Nam. Qua những bản nhạc phản chiến, TCS đã tạo được một tình trạng tâm lý ươn hèn chủ bại cho một số người Miền Nam. Một số khác phản ứng chống chính quyền, gây bất lợi về mặt chính trị cho quốc gia. Như vậy, TCS đã và đang thực hiện được sứ mạng mà CS rất cần thời bấy giờ
Nếu TCS thoát ly, thì nhạc TCS sẽ bị chính quyền cấm. Và như thế thì làm sao có những buổi hội thảo chống chiến tranh? Làm sao TCS có thể đích thân tham dự, phổ biến nhạc phản chiến? Làm sao trở thành thần tượng, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham dự tại các trường Đại Học Huế, Saigòn, Đà Lạt?
Về phương diện nầy, ta thấy ngay, MTGP đã khôn ngoan để TCS ở lại hậu phương địch, có lợi nhiều hơn là rút TCS ra mật khu.
Hơn nữa nếu TCS thoát ly ra mật khu, thì không phải tự ý y quyết định được, mà
do Thành Ủy Huế. Y không gặp nguy hiểm như Tường và Phan, thì tại sao phải điều y ra mật khu? Trong khi nhu cầu hiện diện của y tại các đô thị, để hổ trợ cho các tầng lớp quần chúng đấu tranh, rõ ràng có lợi cho MTGP nhiều hơn.

Có một vài sự việc liên quan đến TCS tôi vẫn thuờng nghe trên một số báo chí, diễn đàn tranh cãi bàn luận:
1- Trịnh Cung và một vài người đã nói trong Mậu Thân 1968 Trịnh Công Sơn bị cộng sản giết hụt.
Ai giết hụt TCS? Hoàng Phủ Ngọc Tường? Hoàng Phủ Ngọc Phan? Nguyễn Đắc Xuân?
Ba tên ác quỷ này khi đó đang ở cánh Bắc của trận đánh Huế. Tức vùng chiến trận Quận I và Quận II. Cả ba đang say sưa lấy máu tươi, giết đồng bào vô tội, làm gì có thì giờ để mà sang quận III, nơi TCS trú ngụ? Mà nếu có qua được Quận III chăng nữa, thì cũng chỉ để ôm nhau vui mừng, cùng hát bài: “Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Vì TCS với bọn này “vừa là đồng chí, vừa là anh em mà”
Tôi khi đó là Phó Trưởng Ty CSĐB, và là Quận Trưởng quận III, vùng TCS trú ngụ. Vì vậy tôi biết rõ chuyện nầy lắm, xin đừng bịa đặt.

2- Ngày 30/4/1975 TCS cùng gia đình đã vào phi trường Tân Sơn Nhất để đi cùng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, nhưng TCS và gia đình đã bị ông Kỳ bỏ rơi. Lại một chuyện bịa đặt nữa.
Ngày 28 tháng 4/ 1975 tôi gặp TCS tại một địa điểm đã hẹn trước, tại thành phố Saigon. Tôi nói với TCS:
- “Tôi là người sẽ đưa anh đi. Đã có phương tiện cho anh và gia đình. Mỗi người chỉ mang một xách tay nhỏ mà thôi”.
TCS đã trả lời tôi:
- “Cám ơn Liên Thành, nhưng mình quyết định ở lại. Người cần đi là Liên Thành, nên đi gấp đi”.
Tôi chia tay TCS khoảng 11 giờ trưa ngày 28 tháng 4 năm 1975.

Sáng 30 tháng 4 năm 1975 khi tôi đang ở trên tàu ngoài vùng biển Vũng Tàu, thì TCS hát bài “Nối Vòng Tay Lớn” trên đài phát thanh Saigòn. TCS đón những người anh em đồng chí của TCS vào thành phố, để nối vòng tay lớn của quỷ, của lạc hậu, nghèo đói, cơ cực. Người chở TCS đến đài phát thanh Saigon sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngoài Nguyễn Hữu Đống còn có Nguyễn Hữu Thái. Nguyễn Hữu Thái là tên đặc công thuộc Thành Ủy Saigòn, thủ phạm tung lựu đạn giết chết Giáo sư Nguyễn Văn Bông, Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành chánh

Cuộc chiến đã chấm dứt hơn 34 năm qua, nhưng vòng tay của quỷ mà TCS đã mơ uớc để “Nối Vòng Tay Lớn” vẫn còn siết chặt vận mệnh dân tộc. Hẳn TCS dưới suối vàng vẫn còn vui lắm, vì có nhiều người vẫn còn ngưỡng mộ bài hát “Nối Vòng Tay Lớn” này!
Cái phi lý của hồi kết thúc của cuộc chiến này, mà một người thuộc thế hệ một rưỡi như Bác sĩ Châu An Huy Thành, trong một bài viết, đã phải ngậm ngùi:
“ Kể từ ngày 30/4/1975 đến nay, trong tâm khảm của tất cả người Việt Nam đều không nguôi câu hỏi: Tại sao Miền Nam VNCH lại thua? Tại sao cái đúng lại thua cái sai? Tại sao cái ác lại thắng cái thiện? Câu hỏi này không những đối với người Việt ở Miền Nam VNCH mà còn là câu hỏi cho cả thế hệ thanh niên lớn lên
sau cuộc chiến tranh trong cả nuớc. Và mãi mãi sẽ là câu hỏi đau thuơng cho lịch sử việt Nam muôn đời sau”.
Tôi đã phải cúi mặt khi đọc câu hỏi này
Phải, đúng, thế hệ của chúng tôi đã có lỗi với quê hương, với đồng bào. Chúng tôi đã để cho “Cái đúng thua cái sai. Cái ác thắng cái thiện”.
Thế nhưng chúng tôi đã thua vì không còn súng đạn, để chống lại súng đạn của toàn bộ lực luợng CS quốc tế. Chúng tôi có lỗi, nhưng chúng tôi cũng đã tận lực.

Ai đã gây ra chuyện không còn súng đạn này? Truy nguyên câu hỏi, chúng ta phải nhận thấy rằng, cái đau của Miền Nam VNCH là đã có những kẻ thờ ma CS, nối giáo cho giặc. Đã giúp tạo ra những biến động chính trị tại Sài Gòn và tại Miền Trung. Lửa của những cuộc xuống đường, tự thiêu, đấu tranh bạo động, đã là nguyên nhân cho phong trào phản chiến quốc tế và tại Mỹ. Cuối cùng, một số kẻ phản chiến tại Mỹ trở thành những vị dân cữ, nghị sĩ.. thẳng tay cắt viện trợ cho Miền Nam, một xu cũng chẳng! CS đã đi bộ vào Miền Nam, ngồi xổm lên ngôi vị thống trị, gây bao tàn hại cho đất nước, bán đứng tiền đồ non sông cho Bắc Kinh.
Trong suốt chiều dài cuộc chiến, Quân Lực VNCH, lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia, đã chế ngự được cái sai, họ đã bóp nát được cái ác. Họ đã bảo vệ được bờ cõi, bảo vệ được sinh mạng và tài sản của đồng bào. Thế nhưng, bên cạnh đó, là những kẻ lãnh đạo quân sự cũng như hành chánh, các vị gọi là “ chính trị gia” đã ươn hèn xu nịnh, đã bợ đỡ những thế lực tôn giáo đen tối để được vinh thân. Họ nhắm mắt làm ngơ, mặc dầu biết rõ rằng, những kẻ lãnh đạo tôn giáo mà họ đang dựa vào, là những tên Việt Cộng nằm vùng. Như Trí Quang, Thiện Siêu, Đôn Hậu, Chánh Trực, Như Ý v..v… họ không dám cuỡng, dám chống lại bọn chúng. Vì chống lại, họ sẽ mất hết danh vong tiền tài chức tước. Họ thuần phục Trí Quang, Đôn Hậu, Thiện Siêu, Chánh Trực như thuần phục thần linh.

Ngoài những tên Cộng Sản đội lốt tu hành mà tôi vừa kể trên, còn có một đám trí thức khoa bảng, sinh viên, đã được ông bà cha mẹ của bọn chúng dùng tiền bạc, dùng lúa gạo, dùng thực phẩm, dùng tinh hoa lễ nghĩa, đạo đức của miền nam nuôi nấng dạy dỗ, đào tạo chúng nên người, để rồi, một sớm một chiều, chúng quay lại phản bội ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, đi theo Cộng Sản. Chúng đem AK về thành phố bắn phá, sát hại đồng bào. Bọn này là ai? Bọn chúng là đám VC nằm vùng, là đám thành phần thứ ba, là đám giáo sư và sinh viên tại Huế mà tôi đã nêu tên họ nhiều lần ở phần trên. Và tôi sẽ lập đi lập lại những cái tên này cho đến mãn đời tôi. Điển hình là: Lê Văn Hảo, Hoàng Phủ Ngọc Tuờng, Ngô Kha, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đắc Xuân, Phan Duy Nhân, Phạm Thị Xuân Quế. Và quá nhiều....
Từ sau 1963 đến 1972 đám VC đội lốt tu hành phối hợp với đám trí thức, SV cơ sở nội thành VC, đã phá nát miền Nam, đặt biệt là Huế. Hậu quả của những vụ tranh đấu của Trí Quang 1966, vụ tàn sát đồng bào Huế trong Mậu Thân 1968, vụ mưu toan tổng nỗi dậy tại Huế vào 5/1972 để chiếm Huế làm thủ đô cho MTGPMN, trước khi ký hòa đàm Paris 1973, tất cả chính là con đường dẫn tới hậu quả đau thương của ngày 30/4/1975.

Sau 30/4/1975, TCS đã không đuợc sử dụng. Tình trạng này là chung cho tất cả nhóm chính trị thuộc cái gọi là MTGPMN, chứ không riêng gì TCS. Cũng may cho TCS, sau này gặp bà Phan Lương Cầm, vợ thứ hai của Võ Văn Kiệt. Bà Phan Luơng Cầm là con nuôi của thiếu úy Phan Tử Lăng trong quân đội L H Pháp tại Huế. Sau này Phan Tử Lăng trở thành đại tá trong quân đội Nhân Dân của Võ Nguyên Giáp. Bà Cầm say mê nhạc Trịnh Công Sơn, và nhờ đó, Trịnh Công Sơn được Sáu Dân, tức Võ Văn Kiệt cứu vớt. Đời TCS bắt đầu sang một trang mới. Cất cánh giàu sang phú quí, quay lại hất hủi đám Trịnh Cung, Nguyễn Hữu Đống và đám bạn bè tranh đấu cũ tại Huế, mà đã một thời tận sức, tận lòng giúp đỡ TCS và gia đình y.

Giấc mộng cuối đời của TCS là mong muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đúng như như Trịnh Cung đã viết trong bài “TCS và tham vọng chính trị”. Khi giấc mộng vàng này bị Hoàng Hiệp, chính trị viên của Hội Âm Nhạc Thành Phố HCM, và cũng là cán bộ trách nhiệm quản lý TCS ngăn chận, bóp nát, thì TCS tức giận, phản ứng bắng những lời lẽ tục tĩu mà tôi không dám lập lại. Nhưng tôi không hề ngạc nhiên là TCS đã nói như vậy. Xin đọc bài của TC để biết TCS đã nói gì với Hoàng Hiệp TCS muốn trở thành đảng viên CS chẳng phải vì lý tưởng hoặc thiết tha gì với đảng CS Việt Nam lúc đó nữa, mà vì quyền lợi của một đảng viên được hưởng khi còn sống và ngay cả khi đã chết.
Những ngày bệnh họan, gần kề cái chết, mong ước của TCS là được an nghỉ trong nghĩa trang dành cho những đảng viên cộng sản.
Ngày 1/4/2001 TCS trút hơi thở cuối cùng. Gia đình TCS và nhất là Trịnh Xuân Tịnh, người em trai thứ hai của TCS đã vất vả chạy chọt, để cho TCS đuợc an nghỉ tại nghĩa trang dành cho đảng viên CS trong thành phố Sài Gòn, nhưng đã thất bại.
TCS bị chôn tại nghĩa trang Gò Dầu Hạ. Đó là nghĩa trang bình thuờng, không như uớc muốn. Nơi an nghỉ của những người mà bọn cộng Sản thường gọi là Ngụy Quân , Ngụy Quyền, Ngụy dân của chính quyền cũ.

Ba mươi bốn năm đã trôi qua, nhiều tranh luận về “thiên tài” TCS, hắn là ai? là Quốc gia hay Cộng sản?

Là người, vì lý do nghề nghiệp, cùng thế hệ, tuổi đời suýt soát nhau, TCS là bạn của anh tôi, thành phố Huế lại nhỏ, nên tôi biết rất rõ và sâu về TCS. Nhưng tôi vẫn im lặng. Không phải vì sợ khi phải đụng đến “Thiên tài” Trịnh Công Sơn của một số không nhỏ những người đã và đang hết lòng xuýt xoa ngưỡng mộ, mà thật tình vì trong lòng xem thường TCS.

Bất hạnh thay quê hương xứ Huế và đất nước Việt Nam lại có “thiên tài” kiểu này. Đã từ lâu rồi, ít khi tôi muốn nhắc đến tên TCS. Rất nhiều người hỏi tôi về TCS, vì họ biết là tôi biết tận kẻ răng chân tóc toàn bộ nhóm nằm vùng Huế. Họ muốn tôi xác nhận TCS là ai? Có hoạt động CS không? Tôi chỉ cười mà không nói. Thật ra thì cũng có phần muốn chờ xem có ai đó ngoài tôi ra, nói lên điều này. Bởi vì tôi tin rằng, tôi không phải là nguời duy nhất biết con người thật của TCS

Nhưng sau hai bài viết của Trịnh Cung, và anh Bằng Phong Đặng Văn Âu, gây tranh luận giữa hai phe chống và bênh TCS, tôi quyết định nói ra toàn bộ sự thật. Vì bản thân hai bài viết cũng như rất nhiều ý kiến về TCS đều thiếu sót, mù mờ. Cũng dễ hiểu, vì cả hai tác giả trên có lẽ đều không biết nhiều, biết sâu về TCS, thì làm sao độc giả có thể tìm cho mình một thái độ, một lý do nào đó để tiếp tục, hoặc yêu, hoặc hận. Vì thế tôi đã phải nói ra những gì mà tôi biết, rồi quý vị và lịch sử tùy nghi suy nghĩ. Yêu vẫn cứ yêu, ghét vẫn cứ ghét. Không sao cả!.

Hay là quý vị có thể bình tĩnh hơn, để đánh giá và chọn cho mình một thay đổi tình cảm nào đó?

Đương nhiên, những gì tôi vừa trình bày trên sẽ gây sóng gió đụng chạm. Con người bình thường ai cũng muốn sóng yên biển lặng, tôi cũng không khác. Nhưng vì là người mang bản chất đương đầu, thấy việc sai trái khó thể làm ngơ, thì giữa sự thật và sóng gió, tôi chọn sự thật.

Tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm những gì tôi nói về TCS . Tôi sẵn sàng tranh luận với bất kỳ cá nhân nào, tổ chức nào muốn cùng tôi tranh luận về TCS ở bất cứ nơi nào, ngày giờ nào, trên các diễn đàn công luận. Nhưng tôi sẽ không tranh luận với bất cứ ai chỉ dùng bút danh, bút hiệu mà không có tên tuổi lý lịch thật,
cũng như những ai không có những quan hệ ràng buộc tuơng đối với TCS, để có thể đưa ra những thông tin khả tín. Bởi vì nếu như thế, thì tôi xin trả lời như thế này: Tục ngữ VN mình có câu: “ Nói chuyện với cái đầu gối còn sướng hơn”.

Có một điều làm tôi áy náy. Đó là khi nghĩ đến người bạn, người đồng đội cũ, một người rất dễ thương, đại úy Trịnh Công Hà. Xin cho tôi gởi một lời xin lỗi độc nhất đến người bạn thân này

“Xin lỗi Trịnh Công Hà. Tôi không còn cách nào khác, tôi phải nói ra sự thật. Mất miền Nam VNCH là trách nhiệm của chúng ta. Tôi và bạn cùng chung lý tưởng và chiến tuyến. Nhưng bất hạnh thay, anh của bạn thì không. Anh của bạn đã nối giáo cho giặc, rồi thì giặc bán đứng giang sơn!. Tôi có còn chọn lựa nào không?, Trịnh Công Hà! Xin lỗi bạn".

Và có ai đó đặt câu hỏi cho tôi là sao không viết khi TCS còn sống? Sao không để TCS yên nghỉ. Thưa quý vị, tôi khó có thể viết khi TCS còn sống là bởi TCS có nhiều khả năng vẫn còn đang hoạt động cho tình báo ngoại quốc, có nhiều điều không thể bạch hóa. Còn câu hỏi sao không để TCS an nghỉ? Thưa quý vị, những tội lỗi với đất nuớc và dân tộc như thế, có chết ngàn năm cũng phải lôi ra….

Và lời cuối của tôi cho bài viết này, và cho TCS, đó là những nhận xét của Tố Hữu về những nhân vật nổi tiếng của miền nam, trong đó có TCS. Tố Hữu đã nhận xét về TCS như sau: “TCS là thành phần không đáng tin cậy. Lý lịch xấu. Cha và nhiều người trong gia đình thời trước đã tham gia quân đội Pháp, làm phòng nhì của quân đội Pháp tại Huế. Thằng này sống ngã theo chiều gió”.

“TCS đã bị Trần Hoàn trù yểm thì cũng chẳng có gì lạ”.

Tôi không biết khi còn sống, Trịnh Công Sơn có biết Cộng Sản đã nhìn TCS như vậy không? Chẳng lẽ tôi còn biết mà TCS lại không biết? Phủ phàng và nhục nhã quá! Thật uổng công nô bộc tận tụy với chính quyền Cách Mạng.

Tủi nhục thay cho bất cứ ai mãi tìm danh vọng trong địa ngục, như đám nằm vùng Trịnh Công Sơn.

Liên Thành
(Nguyên Trưởng Ban An Ninh Tình Báo Thừa Thiên-Huế).

28 thg 5, 2009

Thư gởi bạn


Duy Sam

Lời giới thiệu :

Đây là thư viết của một người tù cải tạo tại trại A.30 Tuy hòa, lén gởi cho một người bạn tại Hoa kỳ qua người chị đi thăm. Người bạn này năm 1975 di tản được, nhớ lại những người còn kẹt lại nên liên lạc gởi quà về cho bạn trong vòng tù tội.
Năm 1985 ra tù, sau một chuyến vượt biển thành công, qua người bạn bảo trợ, họ gặp nhau tại Mỹ. Đã 33 năm trôi qua, bạn bè cùng thời giờ đây đều trên 60 tuổi, gặp nhau ôn lại chuyện cũ, kẻ còn người mất...một chút ngậm ngùi.


Nha trang 11-08-1982
Bạn ơi,
Không bao giờ tôi nghĩ là có giây phút viết thư cho bạn. Hôm nay, người chị lên thăm và được biết nhiều về những người bạn từ lâu xa cách mà tôi ngỡ hay nghĩ là mãi mãi cách xa. Bây giờ ngồi đây viết cho bạn nghĩ cũng buồn cười hay buồn gì đây ???.
Bây giờ bạn cho tôi gởi lời thăm tới các anh chị và cô em gái của bạn. Cả gia đình bạn đã được nhiều ân sủng của Thượng đế mà kể cũng kỳ cái ông Thượng đế cao cả đó cứ giáng vào số phận dân tộc những đòn chí mạng và cứ tiếp tục đến hôm nay. Tôi chợt nhớ đến những khúc hát mà trước đây hay hát cho đỡ buồn “Dù đến dù đi tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn ai đã cho tôi hạnh phúc này... như cơn gió rồi bay”.

Phải chăng đó là hạnh phúc của mỗi người trong cuộc sống ở một khoảnh khắc thời gian nào đó. Hạnh phúc chỉ cần một chút thôi cũng đủ để gọi là hạnh phúc. Giờ đây sau những ngày tháng đủ gọi là mệt nhọc tôi chợt nhớ, đôi lúc rùng mình nghĩ lại và cảm thấy yêu đời hơn, vui hơn lúc nào hết vì đã qua đi, qua đi thực mau những ngày mà cho là khó chịu nhất trong đời một người.
Bây giờ trở về với thực tại một chút. Tôi đang ở trong tổ súc chặt cây, trên một ngọn đồi lộng gió. Mưa, nắng, gió đều lọt vào chòi tranh, quanh là núi với rừng. Hằng ngày mỗi buổi chiều tôi có một chút rảnh rang để có thể tán dóc với bạn bè, uống chút nước trà, hút vài điếu thuốc rê, và ngay lúc này đây: viết thư cho bạn. Lâu lắm rồi chẳng ai thăm hỏi, tôi muốn nói đến những người bạn học, những người bạn xa xưa, chợt nghe có người thăm hỏi tôi cảm thấy băn khoăn vì đã nhiều đêm nhiều ngày tự cho mình là Từ Thức nhưng chàng ta thì thuộc về cõi Tiên nào đó còn tôi thì trái lại. Mà có ai biết được cõi Tiên hay cõi Tục, sự thật thì chỉ có con người và cuộc sống trần gian, cõi người ta thì đầy đủ các vị mặn nhạt, chua cay, ngọt đắng. Tôi thì cũng tạm gọi là nếm đủ, cũng đủ để chẳng lãng quên đời sống này. Một mai nếu tôi có lê gót đi đâu thì có lẽ niềm vui cũng đủ để sống trọn vẹn, một cuộc sống chắc chắn sẽ đáng sống hơn, đúng nghĩa hơn.


Bạn ơi,
Những ngày tháng này tôi đang chặt cây rừng. Vai vác rìu,rựa đi từ sáng sớm lúc sao mai chưa mọc. Có những đêm trời tối đen như mực, đi như những kẻ mộng du qua những cánh đồng lúa, bắp, vượt qua những cánh rừng tối om, bước chân hụt hẫng nhưng rồi cũng đến nơi. Và cứ tiếp tục như thế, một ngày cũng như mọi ngày, coi như chẳng có gì bận tâm. Từ lâu lắm rồi, tôi chẳng còn bận tâm điều gì đến cuộc đời, tôi nghĩ là tôi đã bỏ cuộc. Bỏ cái cuộc đời đầy hệ lụy và quá nhiều nhọc nhằn, nhất là xa những người thân yêu xa những bầu trời thương nhớ mà một lúc nào đó tôi có thể đến và ngay sau đó lại ra đi .
Bạn ơi! tôi buồn … chưa bao giờ có thể nghĩ là mình gặp một cuộc sống như thế này, nhiều lúc chính mình phải tự tạo cho mình những giấc mơ, thế giới của niềm hy vọng khát khao, tất cả chỉ để mình có thể sống, hay đúng hơn như những chất dinh dưỡng cho cơ thể của mình. Và như thế là tôi đã sống, sống cho đến hôm nay. Và như bạn đã biết tôi cũng dễ dãi với cuộc sống và đó là lý do duy nhất mà sau khoảng thời gian khá lâu chúng ta lại liên lạc vói nhau dù bạn ở thực xa bên kia bờ Thái bình dương xa lạ …
Trời dạo này vào thu, ở đây chẳng có gió heo may, trái lại những cơn gió loạn cuồng như muốn ném bay mấy cái chòi tranh, những cây cổ thụ chỉ cần một hai ngày là trơ trụi lá . Rừng vẫn gào trong cơn gió như muôn ngàn âm binh trở về . Nơi này sáu năm trước là rừng núi bạt ngàn , lúc này là những đồi khoai mì ngút ngàn nối tiếp. Chẳng ai có thể ngờ được như thế, chỉ có những cái rựa, những cái cuốc và khổ sai, thế là núi rừng bị đẩy lùi thực xa cũng là một chiến thắng bạn nhỉ, nhưng mà mệt nhọc và chán nản lạ thường. Tôi lê chân mỗi ngày mà nhìn quanh thì đâu phải chỉ một mình mình, mọi người cũng vậy, cũng lê bước như thế thôi.
Giờ đây mỗi đứa một phương trời, tôi thì sống không có lối thoát vì đã được sống những ngày xa xưa và bây giờ đổi đời tôi có thể làm một việc mà chẳng bao giờ nghĩ là tôi có thể làm được là làm việc dưới bất kỳ điều kiện nào, nắng hay mưa cũng không có gì đổi khác, mệt hay không cũng chẳng có nghĩa lý gì. Cái việc đi làm thời nào cũng chẳng có gì đáng kể, bởi là con người thì phải làm. Viêt đến đây tôi chợt nghĩ là phải vấn một điếu thuốc hút, may ra thì

Khói thuốc khơi dòng theo lối xưa,
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ,
Thoáng hiện em về trong đáy cốc,
Nói cười như chuyện một đêm mơ.


Tôi nghĩ là sẽ viết cho bạn một lá thư dài với một khoảng cách bẩy mùa thu trôi qua, bên trong thì tình bạn cũng không có gì thay đổi nhiều nhưng bên ngoài thân thể già đi vì sự nhọc nhằn.
Bạn thì ra sao? vui buồn lẫn lộn, xoay sở thế nào trong mảnh đất xa lạ đó. Nhưng ít ra thì bạn đã là một trong những người có diễm phúc ở cuộc sống này. Quê hương chúng ta là đâu nhỉ ? nơi đây có một ông già họ Đào, ông ta luôn luôn có ý nghĩ là người ta ai cũng có thể đi, đến và sống trên vùng đất mình muốn và theo ông ta đó chính thực là quê hương. Ông ta có lý do, có suy nghĩ riêng của ông nên chẳng có gì để bàn cãi.
Nhưng tôi đang sống, đang bước đi trên quê hương này nhưng sao vẫn mang một cảm giác quê hương không còn nữa. Tất cả cuộc sống con người, mỗi người hình như nhận một định mệnh riêng. Nguyễn Du đã có lý khi viết “Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”.
Thôi, xin được tạm ngưng tại đây. Gởi lời thăm bạn và gia đình cũng như những người quen biết

Thân mến

TB. Xin cám ơn bạn về những món quà.
Duy Sam

Củ nghệ


Sức khỏe đàn ông
Củ nghệ với những điều bí ẩn!?

Theo Lương y Bàng Cẩm (SK&ĐS) (22/09/08)

Trước nay, củ nghệ (turmeric) thường được dùng về mặt điều vị, mùi vị thơm hắc của nó còn là món ăn chính của người Ấn Độ. Thật ra, củ nghệ cũng có rất nhiều tác dụng trong điều trị, người Ấn dùng một loại tinh chất từ nghệ để rửa mắt trong việc chữa viêm kết mạc. Có bằng chứng cho thấy, curcumin là thành phần hoạt chất chính trong nghệ, giúp tăng bài tiết dịch mật tiêu hóa chất béo, bảo vệ cho gan. Sau đây là một vài khám phá mới về hoạt chất thần kỳ curcumin trong nghệ.

Đặc tính kháng viêm vượt trội

Tiêu diệt gốc tự do xấu nhất: nghiên cứu của Đại học Dược khoa Ấn Độ cho biết, curcumin là thành phần của rễ củ nghệ nằm dưới đất, có hoạt tính kháng sinh rất mạnh, giới y học đang đi sâu thăm dò khả năng tẩy trừ gốc tự do mang oxy của nó trong quá trình phản ứng viêm. Do có hoạt tính kháng viêm vượt trội, nó cũng có thể tẩy trừ gốc tự do thuộc superoxide radicals hiệu quả.

Điều trị cơn đau: curcumin sẽ ức chế tạo thành prostaglandin, chất này trong cơ thể có liên quan đến cơn đau do viêm gây ra, chẳng hạn như cơn đau trong bệnh thống phong. Cơ chế làm giảm cơn đau của nó tương tự như aspirin, ibuprofen, nhưng không mạnh bằng. Tuy nhiên, khi dùng với liều cao, curcumin sẽ kích thích tuyến thượng thận bài tiết cortisone, mà cortisone có hiệu lực rất mạnh để ức chế phản ứng viêm.

Điều trị viêm kết mạc: trong một nghiên cứu về vi khuẩn học, thuốc nhỏ mắt Haridra làm từ nguyên liệu củ nghệ, có khả năng kháng khuẩn với trực khuẩn E.coli, staphylococcus aureus, klebsiella và pseudomonas… Nghiên cứu căn cứ theo kết quả thử nghiệm 50 ca bệnh viêm kết mạc trên lâm sàng, cho rằng loại thuốc nhỏ mắt này đạt hiệu quả điều trị viêm kết mạc.

Điều trị viêm khớp: nghiên cứu của Đại học Y Dược Gandhi, dùng curcumin dạng uống cùng với cortisone acetate dạng tiêm điều trị cho chuột bị viêm khớp. Những chú chuột được điều trị bằng những thuốc này sau 13 ngày thì tình trạng viêm sưng tại khớp đỡ hơn thấy rõ so với nhóm chuột đối chứng. Hiệu nghiệm của nghệ đến từ hoạt tính chống histamine. Hoạt tính chống viêm của curcumin không thua kém nhiều so với cortison, nó có thể giảm nhẹ phản ứng viêm trong cơ thể động vật, cũng có thể giảm nhẹ triệu chứng viêm của bệnh viêm đa khớp dạng thấp (ở người). Nghiên cứu báo cáo cho thấy, tác dụng của 1.200mg curcumin sẽ tương đương với một loại thuốc kháng viêm là phenylbutazone 300mg.

Điều trị tổn thương gan: theo kết quả nghiên cứu trên người và ngoài cơ thể thuộc Đại học Tohoku (Nhật Bản) thì tinh chất từ nghệ quả thật phòng ngừa được những tổn thương do carbon tetrachloride (CCl4) gây ra trên gan. Đây là một chất hóa học độc hại, có mùi hôi như clor, nó thường được dùng trong chất tan công nghiệp và chất đông lạnh.

Phát huy hoạt tính chống ung thư

Hoạt tính chống đột biến: nghiên cứu của Viện nghiên cứu dinh dưỡng quốc gia Ấn Độ, thử nghiệm củ nghệ cho 16 người hút thuốc lâu dài về hoạt tính chống đột biến của urcumin. Người được thử nghiệm trong 1 tháng, mỗi ngày dùng 1,5g củ nghệ, kết quả cho thấy củ nghệ đã làm giảm chất gây đột biến trong nước tiểu của họ. Nghiên cứu nói rằng, củ nghệ có hoạt tính chống đột biến, do vậy cũng có thể là phương pháp dự phòng chứng ung thư bằng hóa học rất tốt.

Hoạt tính tẩy trừ gốc tự do: nghiên cứu khám phá tinh dầu nghệ (turmeric oil) và nhựa cây nghệ (turmeric oleresin) trong ống nghiệm biểu hiện hoạt tính tẩy trừ gốc tự do rất tốt. Với đột biến bệnh niêm mạc dưới lớp xơ (chứng ung thư), dùng tinh dầu nghệ, tinh chất từ nghệ, cũng như nhựa cây nghệ đều có tác dụng ức chế. Nhựa cây nghệ cũng có chứa tinh dầu nghệ, curcumin, cũng như các hợp chất nhựa cây khác. Tinh dầu nghệ và tinh dầu nhựa cây nghệ trong việc chống lại đột biến của AND có tác dụng “chung sức” bảo vệ.

Đối kháng với ung thư dạ dày và ung thư da: Đại học Northwestern, Mỹ khám phá rằng, curcumin I có thể ức chế benzopyrene gây ung thư trên chuột cái Thụy Sĩ (Swiss mice), mà curcumin III cũng có thể ức chế dimethybenzathracene (DMBA) gây ung thư trên chuột trụi lông Thụy Sĩ. Hai chất này đều là hợp chất phenol màu vàng trong củ nghệ. Tương tự, curcumin I cũng có thể ức chế DMBA gây ung thư da trên chuột cái Thụy Sĩ.
Curcumin hầu như có thể thay đổi hoạt tính của tác dụng chuyển hóa gây ung thư, hoặc loại bỏ được các độc tính, từ đó phát huy được hoạt tính chống ung thư. Hai loại curcumin đều thử nghiệm được ở ngoài cơ thể, ức chế được sự hình thành tế bào độc tính của bệnh ung thư máu ở người. Curcumin ức chế sự sinh sôi và phát triển của tế bào khối u, do vậy phát huy tác dụng chống ung thư.

Bài thuốc thần kỳ chống bệnh AIDS?

Trong “Thông tin mới điều trị AIDS”, tác giả John S. James có một ghi nhận không chính thức rằng, tại Trinidad có 40% dân số người gốc Ấn, kế thừa thói quen của người Ấn Độ, trong ăn uống thường ngày có dùng cà ri. Bên cạnh đó, có 40% dân số người gốc Phi, rất ít dùng cà ri. Nghiên cứu đối chứng với AIDS tại Trinidad cho thấy, tỷ lệ người gốc Phi mắc AIDS cao hơn gấp 10 lần so với người gốc Ấn có ăn cà ri.
James còn phát biểu một báo cáo nghiên cứu không chính thức rằng, có một người bệnh AIDS bắt đầu dùng tinh chất củ nghệ, anh ta dùng tinh chất từ nghệ có nồng độ curcumin gấp 100 lần so với nghệ. Chế phẩm viên nang này có chứa 300mg tinh chất từ nghệ, trong đó chứa curcumin tiêu chuẩn hóa với nồng độ tối thiểu là 95%. Người bệnh uống 3 viên nang 300mg, ngày 3 lần, hay uống khoảng 2,5g curcumin. Một tuần sau khi bắt đầu điều trị, lấy máu người bệnh xét nghiệm, phát hiện kháng nguyên p24 – loại kháng nguyên có thể thông qua số lượng cho phương pháp làm chuẩn để đánh giá hoạt tính virus – giảm xuống thấy rõ.

Nghệ còn giúp chống lão hóa da, ngăn ngừa sự hình thành các nếp nhăn, vết nám, làm cho da mịn màng, tươi trẻ. Nghệ còn hỗ trợ chống viêm, loét do ức chế các chất trung gian gây viêm như cyclooxygenaza (COX - 2), lipooxy-genaza (LOX)… Hỗ trợ chống xơ vữa động mạch do cholesterol và tăng độ bền mao mạch ngoại vi.

12 THÁNG ANH ĐI