29 thg 10, 2010

"Thằng đi mất biệt !"

Tiểu Tử
Sáng nào, nếu trời không mưa, bà Hai cũng vắt cái khăn rằn lên vai, chụp cái nón lá đã tưa vành lên đầu, xách giỏ trầu đi ra phía vàm rạch trèo lên mô đất cao, ngồi chồm hổm vừa nhai trầu vừa nhìn qua bên kia sông, nhìn miết.

Mô đất nầy, cách đây hơn ba mươi năm - hồi thời kháng chiến chống Tây – chính tay bà và đồng bào trong xóm đã đắp lên làm ụ súng cho du kích bắn tàu Tây chạy ngoài sông Cái. Hồi đó, mô đất cao lắm. Bây giờ nó đã mòn lần nhưng vẫn còn đủ cao để bà Hai, dầu ở vị trí ngồi, vẫn nhìn thấu tuốt qua bên kia sông. Bên kia sông là quận Gò Keo, ở đó có sở cao su của Năm Lượm, em út của bà. Bà còn nhớ rõ như in : « Hồi nẳm, thằng Lượm làm cặp-rằng trong sở cao su của thằng tây Mi-Sên. Kế đến tây rút đi –đâu hồi một ngàn chín trăm năm mấy gì đó- thằng Mi-Sên kêu bán rẻ lại cho thằng Lượm. Thằng hên ! Nó bán đi phần ruộng ông già để lại cho nó rồi chạy thêm mớ nợ, mua trọn gói sở cao su ! Vậy rồi nó giàu ngang, mới tức cười ! » Thường thì kể đến đây bà Hai hay ngừng lại để xỉa cục thuốc qua lại mấy lần rồi mới nói tiếp ; « Bây coi ! Hồi thời ông gì đó, chỉ có Út Lượm là sắm được chiếc ca-nô tổ chảng, chạy lên chạy xuống tỉnh hà rầm. Lâu lâu còn cho mấy ông lớn mượn đi bắn le le nữa ! Hồi ông nhà tao còn sống, nó hay lái ca-nô qua đây nhậu với ổng. Mẹ ! Mỗi lần ca-nô nó vô tới đầu vàm rạch là nó hú còi nghe điếc con ráy, còn làm nổi sóng cho nước phóng lên bờ, bà con trong xóm ai cũng hay là có ông Út qua ! » Bà thường ngừng ở đây để cười khịt khịt mà nghe sung sướng ở trong lòng, bởi vì trong ba thằng em trai, bà Hai thương thằng em út nầy nhứt. Bà hay nói : « Thằng Lượm tuy ít học hơn hai anh của nó nhưng bụng dạ nó tốt lắm. Ăn ở có nhơn nên dân thợ trong sở cao su ai cũng thương. Hồi giàu lên rồi, nó cũng không quên ai hết. Như anh Ba của nó đi tập kết đâu tuốt ngoài bắc viết thơ về gởi gắm hết người nầy tới người kia cho nó, vậy mà nó cũng lén nuôi đàng hoàng. Còn thằng anh Tư của nó theo bên vợ làm thầy giáo ở Cần Thơ muốn mở trường tư thục gì gì đó, nó cũng mang tiền xuống giúp. Thằng tốt ! »

Trong làng Bình Quới nầy ai cũng biết vụ bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất nhìn miết qua bên kia sông. Chuyện xảy ra sau ‘giải phóng’, từ ngày người con trai út của bà, tên Trực, ở Sài Gòn về thăm bà và để cho hay là vợ con của Trực đã theo tàu hải quân di tản rồi, còn Trực thì phải lo khai báo với chánh quyền mới để có giấy tờ hợp lệ bởi vì Trực là sĩ quan của chế đõ cũ. Trực nói : « Chừng có giấy tờ, con về đây ở với má. Chắc chừng vài ba bữa nửa tháng, hà ! » Nghe vậy, bà Hai rất vui, têm trầu ăn liền liền ! Bà nói : « Tao chỉ có hai thằng con, mà Trời thương, thằng nào cũng được hết. Thằng Cang -thằng lớn- đi lính quốc gia. Nghe nói nó đánh giặc gan lỳ. Vậy mà không bao giờ nó nói động tới thằng cậu Ba nó ở ngoài kia. Còn thằng Trực - thằng út – thì thông minh học giỏi, vậy mà sau khi anh hai nó chết trận ở Công-tum Công-tiết gì đó, nó đang học đại học cũng bỏ học đi lính nói để trả thù cho thằng anh ! » Bà hay ngừng một chút rồi mới nói tiếp, như để kết một câu chuyện : « Bây giờ thì hết giặc rồi. Vài bữa thằng Trực về đây, tao sẽ chỉ nó lo chăm sóc cây trái vườn tược thế cho con Tư để con nhỏ còn đi lấy chồng chớ ! » Nói như vậy bởi vì mấy năm gần đây, từ ngày ông Hai nằm xuống, bà Hai hay ngã bịnh bất thường nên người em bà con ở bên quận gởi đứa con gái là cô Tư – ba mươi tuổi, chưa chồng – qua ở với bà để lo cơm nước vườn tược v v… Cô Tư kêu bà bằng Dì.

Sau khi Trực trở về Sài Gòn, một hôm, đò ngang từ bên quận Gò Keo qua làng Bình Quới ngừng lại trước nhà bà Hai thả xuống một ông già lưng mang ba-lô, ốm nhom đen thui đầu bạc trắng. Người lái đò chỉ tay nói lớn : « Ông đi thẳng vô trong, cái nhà gạch nền đúc đó, đó ! » Nghe lao xao, cô Tư nói : « Dì Hai ! Dì Hai ! Có ai kìa ! » Bà Hai nheo mắt nhìn : má bên trái của ông già có một nút ruồi với một sợi râu lăng quăng. Bà rớt nước mắt : « Mầy còn sống hả Ba ? » Vậy là hai chị em gặp lại nhau, vẫn nhìn ra được nhau sau hơn hai mươi năm xa cách ! Út Lượm hay tin cũng xách ca-nô chạy qua thăm anh Ba, tủi tủi mừng mừng. Cô Tư dầu chưa biết ‘ Cậu Ba ‘ là ai nhưng trước cảnh gặp nhau đó, cô cũng nghe xúc động nước mắt chảy quanh….Sau đó, để hàn huyên cho đã, nên ông Ba dự trù ở lại chơi thêm năm bảy hôm.

Bữa nọ lối mười giờ sáng, có tiếng ca-nô chạy xộc vô rạch. Thằng Kiên, con Út Lượm, u vào nhà, vừa thở vừa nói : « Con qua rước bác Ba về can thiệp gắp vụ nầy : họ đang kiểm kê để tịch thâu sở cao su ở bển đó ! » Ông Ba cười : « Bây làm gì như Mỹ bỏ bom vậy ? » Rồi quay qua bà Hai : « Chị để em qua bển một chút. Em nói mấy tiếng rồi về, hà ! Biểu con Tư nó nấu cho em miếng cháo gà ăn chơi ! » Rồi ông xuống ca-nô qua quận. Bà Hai ở nhà đợi em. Càng lúc càng trưa, rồi đứng bóng, rồi xế bóng. Chừng đó mới thấy một chiếc xuồng nhỏ, với tiếng giầm khua nước lách chách, đâm đầu vào chân cầu thủy tạ trước nhà, ông Ba lò dò bước lên. Bà Hai và cô Tư chạy ra bươn bả : « Ủa ! Sao vậy cậu Ba ? Còn ca-nô đâu ? » Ông Ba lắc đầu : « Tụi nó kiểm kê luôn rồi ! » Bà Hai thở hắt ra : « Còn thằng Út ! » Ông Ba cười như mếu : « Nhờ nó có công nuôi cách mạng nên mấy đồng chí đó giữ nó lại làm trong tổ kế hoạch, làm tổ viên thôi nhưng cũng có lương. » Bà Hai phun cốt trầu nghe cái phẹt : « Hứ ! Đồng chí với đồng rận ! Lương với lậu ! » Bà ngừng ở đó, nhai miếng trầu trong miệng như
nhai cái tức ở trong lòng. Một lúc, bà mới nói : « Tao tưởng mầy đi theo tụi nó mấy chục năm để làm được cái giống gì, té ra mầy cũng trớt quơ cũng bạch tuộc như mấy thằng cô hồn trôi sông lạc chợ chớ có hơn gì đâu ? Hỏi chớ mầy đi theo tụi nó chi lâu vậy ? » Ông Ba đốt điếu thuốc rồi ngồi bập liên miên, làm như khói thuốc có thể che cho ông đỡ ê mặt ! Bà Hai xỉa cục thuốc qua lại, ấn mạnh vô răng như muốn kỳ cọ cho cái ‘lớp tức’ nó bong ra ! Một lúc sau, bà nói với cô Tư, giọng thật trầm tĩnh : « Tư ! Mầy đẩy xuồng trong xẽo ra đưa cậu Ba qua sông, đi ! » Cô Tư nhìn bà, ngạc nhiên. Nhưng người ngạc nhiên nhứt là ông Ba. Ông nuốt nước miếng rồi mới nói được : « Bộ chị đuổi em hả chị Hai ? » Bà Hai tằng hắng : « Tôi đâu có đuổi !Ai mà dám đuổi cách mạng ! Tôi… mời cậu ra khỏi nhà, chớ ở lại đây, thiên hạ cười tôi thúi mặt sao cậu ? » Ngần ngừ một chút như định nói gì, nhưng rồi ông Ba lẳng lặng xách ba-lô cuối đầu đi thẳng ra bờ rạch, bước xuống xuồng mà nghe như trời đất ngã nghiêng chao đảo….



Thằng em đi rồi, bà Hai như người mất hồn. Tối ngày làm thinh, ngồi bó gối trên bộ ván nhỏ kê ngoài hàng hiên, vừa ăn trầu liên miên vừa nhìn đăm đăm ra phía rạch như đợi như chờ cái gì. Thấy kỳ, cô Tư hỏi : « Bộ đợi ai sao dì Hai ? » Một lúc, bà mới trả lời : « Tao đợi thằng Trực ! Nó nói nó đi năm ba bữa gì đó là về. Vậy mà đã hơn con trăng rồi sao hổng thấy bóng dáng gì hết » Rồi bà lầm bầm : « Thằng ! Đi mất biệt ! » Cô Tư nói : « Con nghe nói… » Rồi ngừng ngang. Cô định nói là cô có nghe nói sĩ quan chế độ cũ đều bị đi cải tạo, chắc giống như đi ở tù… nhưng cô sợ dì Hai hết hồn nên cô bỏ lửng câu nói. Trong nhà, ngoài cô Tư ra, ông Út Lượm – lúc nầy lâu lâu chèo xuồng qua thăm chị Hai – cũng biết vụ ‘cải tạo’ nhưng ông không dám nói cho bà chị biết. Vì vậy, bà Hai cứ ngày ngày ngồi đợi thằng con. Và trách : « Thằng đi mất biệt ! »



Mới đầu, bà còn ngồi chờ trên bộ ván hàng hiên. Thời gian sau, khi trời nắng ráo, bà hay đi tuốt ra ngoài vàm rạch lên ngồi trên mô đất để có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, ‘ khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông mình cũng nhìn ra được nó liền hà !’. Vậy rồi ngày ngày bà ra ngồi trên mô đất, như một pho tượng. Thiên hạ trong làng đi ghe đi xuồng ngang qua, có hỏi thì bà trả lời, lúc nào cũng chỉ có một câu : « Ợ… Tao đợi thằng đi mất biệt ! » Không ai ngừng lại để hỏi tiếp coi ‘ Thằng đi mất biệt ’ là ai ? Riết rồi thành quen nên lâu lâu nghe có người chèo ngang qua hỏi cho lấy có : « Đợi thằng đi mất biệt hả bà Hai ? » Rồi đi tuốt….



Cái mô đất bà ngồi, bây giờ láng cón. Cỏ dại chỉ mọc cao ở dưới chân, bao quanh giống như một hàng rào. Người mẹ đợi con đó ngã bịnh rồi chết, hai năm sau. Bà nhắm mắt mà trong lòng chắc vẫn trách thằng con sao đi mất biệt. Lúc hấp hối, bà Hai còn rán thều thào : « Bây chôn tao ở đầu vàm cho tao thấy thằng Trực trở về…. »

‘ Thằng đi mất biệt ’ được thả về sáu năm sau, nhờ học tập tốt. Đi đón Trực ở bến xe đò quận Gò Keo là ông Ba và ông Út. Ông Út, vì rầu sự nghiệp nên già khú, vẫn là công nhân nhà máy cao su. Ông Ba về thọ tang bà Hai rồi ở lại luôn Bình Quới để giữ ‘đất đai ông bà’ kẻo ‘mấy thằng ác ôn nó quen thói côn đồ đớp hết của người ta’, ổng nói như vậy ! Bây giờ, ông Ba hay cười gằn, cầm cây rựa quơ quơ : « Tụi nó có muốn vô nhà nầy phải bước qua xác của tao, nè ! »

Hai ông đưa Trực ra đầu vàm thăm mả bà Hai nằm cách mô đất không xa. Sau khi thắp nhang vái lạy, ông Ba kể cho Trực nghe chuyện bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất để trông ‘ thằng đi mất biệt ’. Trực ngồi thụp xuống, úp mặt vào hai tay khóc ngất. Ông Ba chấp tay nói như nói trước mặt người chị : « Chị Hai ơi ! Thằng đi mất biệt của chị, nó về rồi nè ! » Bỗng, mặt ông nhăn nhúm lại, giọng ông cao lên : « Mà… thằng Trực đâu phải là thằng đi mất biệt đâu, chị Hai ! » Rồi ông nấc lên, vứa đấm vào ngực vừa la lớn : « Em mới là thằng đi mất biệt đây, chị Hai à ! » Ông quì xuống ôm lấy mộ bia, gục đầu lên đó, nức nở. Cái đầu tóc trắng lắc qua lắc lại, nói lên tâm tư của một người không tìm ra đáp số cho bài toán khó.



Ông Út khom xuống, đặt tay lên vai anh bóp nhẹ : « Anh Ba à ! Anh nói được như vậy là anh đã thấy con đường về rồi đó, anh Ba ! »

28 thg 10, 2010

CÓ PHẢI HOA THỊNH ĐỐN ĐÃ ĐƯA ÔNG DIỆM VỀ LÀM TỔNG THỐNG ĐỆ NHẤT VIỆT NAM?

Không chuyên khoa sử, không giữ bất cứ một chức vụ nào suốt thời đại Việt Nam công hoà đệ nhất và đệ nhị, tôi không có tham vọng viết tài liệu để ghi vào Việt Nam quốc sử. Nhưng tôi phải cầm bút, vì tôi từng có dịp sống thân mật bên cạnh Tổng thống Ngô đình Diệm từ năm 1951 cho đến khi ông chết thảm vào năm 1963. Ông Ngô là một nhà ái quốc, tận tuỵ vì dân nước, mà bình sinh gặp rất nhiều hạng người thuộc hắc đạo đã không biết nhận xét chân tướng của ông, và công trình xây dựng của ông, lại còn vu khống cho ông đủ mọi thứ tội ác, sau cùng đã giết ông một cách dã man, sau khi ông vô tội mà đành giơ tay đầu hàng để tránh cho dân Việt nhất là quân đội dưới quyền ông khỏi cảnh chém giết lẫn nhau. Chết rồi người ta vẫn không để ông an nghỉ. Tại Việt Nam họ đào mồ ông lên đem hài cốt từ Nghĩa địa Mạc đĩnh Chi lên tận Lái thiêu. Tại hải ngoại cũng như ở quốc nội, các nhà văn ít người phán đoán công bình, kết cục là thư viện khắp nơi trên thế giới chứa đầy ắp những tài liệu hoàn toàn bất lợi cho ông.

Từ trước tới nay, tôi im hơi lặng tiếng vì biết mình tài mọn, đành phải chờ đợi một ngày trời xanh mây tạnh, những người cao kiến hơn tôi, nhiều kinh nghiệm hơn tôi, vị trí trong xã hội và trong làng văn cao cả hơn tôi…, sẽ ra tay bênh vực ông Ngô đình Diệm…Nhưng tiếc thay cho tới bây giờ chỉ thấy mấy tờ báo chí ở hải ngoại (trong số có tờ Văn nghệ tiền phong), và một nhóm khá nhỏ nhà chính trị, nhà văn, nhà giáo (trong đó có các ông Lâm lễ Trinh, Nguyễn văn Chức, Hoàng hải Thuỷ và Tôn thất Thiện) dám hiên ngang đứng lên mà nói thẳng ra sự thực: ông Ngô đình Diệm, tổng thống đệ nhất Việt Nam cộng hoà là một con người thành tâm yêu nước, tội ít mà công nhiều.

Núp sau trào lưu này, tôi bụng bảo dạ: Hay là chính mình cũng sẽ viết một cuốn hồi kí ghi lại những giai thoại mình biết về ông Ngô đình Diệm trải qua 12 năm kể từ năm 1951 cho tới năm 1963? Sách có thể đề là: “Tôi thương nhớ một ông bạn vong niên: Tổng thống Ngô đình Diệm”. Ở phần thứ hai hồi kí, tôi dự tính sẽ ghi lại những lưu niệm của một quan sát viên ở hậu trường, với tư cách là bằng hữu vong niên, khách quan theo rõi các hoạt động của Tổng thống Diệm sau năm 1954 . Trong phần này tôi có thể đưa ra nhiều chi tiết về sự thành công của chương trình dinh điền (Hố nai, Cái Sắn, Dốc Mơ); chương trình ấp chiến lược; các mối giao liên Cộng hoà Việt Nam với quốc tế; những cạm bẫy Cộng sản mượn diện tôn giáo mà buông kín xuống đầu ông Diệm qua Thượng toạ Thích trí Quang…Đặc biệt là cuộc hội kiến ngày 15 tháng 8 1963, có mặt Đúc Cha Ngô đình Thục và một chức sắc cao cấp Hoà Hảo mà tôi không nhớ tên (thiếu ông Nhu). Hôm đó chúng tôi thảo luận về chính sách Hoa kì và Vatican, lại nói về những âm mưu đen tối của Đại sứ Cabot Lodge…Nhưng thiết tưởng mấy chuyện đó hoặc là dễ nhận xét, ai ai cũng thấy được; hoặc là đượm nặng mùi chính trị đảng phái, một linh mục như tôi cần tránh xa. Kết cục tôi quyết định chỉ viết ra phần thứ nhất: kể sơ qua mấy hoạt động của Chí sĩ Ngô đình Diệm vào giai đoạn hơn hai năm ông lưu vong ở Hoa kì với hi vọng sẽ không chạm nọc ai, mà trái lại có thể trả lời câu hỏi: Có phải Mĩ đã đem Ông Ngô đình Diệm về Việt Nam thiết lập đệ nhất Cộng hoà hay không?
1 – Hai quỹ đạo (một ngôi sao sáng và một cục thiên thạch) gặp nhau
Danh tính ông Ngô đình Diệm vang lừng khắp sơn hà năm 1937, khi ông giũ bỏ áo mũ, từ chức Thượng thư Lại bộ vì bất mãn với chính phủ Bảo hộ nặng tay áp chế Nam triều. Tuy còn nhỏ tuổi (T.t. Diệm ra đời năm 1901, tôi năm 1920 ; niên canh hơn kém nhau gần hai con giáp theo tiểu chu kì - xem Giáp ở cuốn Từ điển Văn học Việt Nam TvKiệm sắp xuất bản) tôi cũng tò mò tìm hiểu thêm. Câu phong dao bình dân trên cửa miệng trẻ con xứ Huế lúc ấy đã vang xa tới tận Ninh bình, Thanh hoá nơi tôi sống lúc bấy giờ: “Phế vua không Khả, đào mả không Bài”; Ông Khả là ai vậy? Ông Bài là ai vậy? Dần dần tôi mới hay: lưỡng vị là hai bậc lương đống của Nam triều dưới triều vua Thành thái, cả hai theo Thiên Chúa giáo, và ông Nguyễn hữu Bài đã cực lực phản kháng mấy người Pháp manh tâm xúc phạm tới lăng mộ các vua Nguyễn để tìm vàng; và Ngô đình Khả đã dám lên tiếng bênh vực mấy vua nhà Nguyễn muốn đòi tự do. Té ra người theo Thiên Chúa giáo cũng giàu lòng yêu nước như ai, và cụ Khả là phụ thân ông Diệm!

Lớn lên, vào các năm 1945-1946, lúc đó tôi đang là sinh viện đã học hết các lớp thần học tại Thượng Kiệm, gần Phát Diệm, và sắp sửa làm linh mục, thì bất ngờ tôi có dịp giáp mặt Ông Bà Trần văn Chương và Ông Bà Ngô đình Nhu (bà Nhu là lệnh ái ông bà Chương). Cả hai gia đình từ đâu được Đức Giám mục Lê hữu Từ mời về “khu an toàn Phát diệm”, tức là một phần huyện Kim Sơn với Phát diệm là trung tâm. (Vào giai đoạn này Đức Cha Từ tuyên bố trung lập, không theo Pháp, không cần Việt Minh). Hai bà Chương và Nhu tá túc tại nhà dòng Mến Thánh giá ở Lưu phương, còn hai ông Chương và Nhu thì sống với chúng tôi ở trường Thần học Thượng kiệm. Cho tới nay trí nhớ của tôi còn ghi rõ hình ảnh ông Nhu, ăn vận như tất cả các sinh viên khác trong trường, một mình đứng trầm ngâm dưới bóng một cây nhãn, mắt coi cá bơi lượn dưới mương: cá lặng lẽ, người lặng lẽ…

Năm 1950, tôi là linh mục hiệu trưởng sáng lập trường Trung học Trần Lục tại Phát diệm. Qua trung gian một linh mục Bỉ (cố Jacques Houssa), tôi được Đức Hồng y Francis Cardinal Spellman, tổng Giám mục giáo phận Nữu ước, đồng thời là Tổng Tuyên uý toàn thể quân đội Hoa kì, cấp cho một học bổng tại trường Iona College, New Rochelle, N.Y. Tôi vội vã học tiếng Anh, căn cứ vào cuốn Anglais sans peine, Vì đã biết sẵn La-tinh và Pháp ngữ, chỉ trong vòng mấy tháng tôi đã đọc trơn tru sách báo Anh Mĩ. Nhưng than ôi, không có radio, không có máy ghi âm, thì làm thế nào nói và nghe nổi một ngoại ngữ?

Tìm hộ chiếu còn khó khăn hơn. Vào giai đoạn này, bốn năm trước Điện biên phủ, người Pháp đã bắt đầu muốn trao thêm quyền hành chính cho công chức người Việt. Khi tôi cần hộ chiếu lại đúng là lúc giao thời: các văn phòng ở Hà nội vắng hoe. Sốt ruột, tôi bay vào Sài gòn lại thấy một tình trạng tượng tự. May sao bay trở ra Hà nội, thì vào đúng lúc người Pháp trao quyền cấp chiếu khán cho ông Nguyễn văn Hướng, phụ thân tướng Hiếu sau này sẽ thay tướng Phú để liền sau đó ngộ nạn một cách bí mật (có lẽ vì ông tướng trẻ rắp tâm tiếp tục chiến đấu với Bắc Việt cả sau khi Sài gòn sẽ đầu hàng chăng?). Qua trung gian ông Nguyễn phẩm Phúc, tôi quen thân với ông Hiếu, do đó chưa mất một giờ, tôi đã có đầy đủ các giấy tờ cần thiết cho một sinh viên xuất ngoại. Ra khỏi văn phòng, tôi gặp ngay Cha Trần ngọc Thụ, từ văn phòng toà Khâm sứ Toà thánh Vatican ở Sài gòn, bước tới và đương lớ ngớ ôm một chồng chiếu khán chưa đóng dấu của một số khá đông linh mục, chủng sinh và tu nữ được học bổng đi Âu châu và Mĩ châu. Tôi liền tiến dẫn và ông Hướng vui vẻ đóng dấu liền. (Sau này linh nục Trần ngọc Thụ sẽ làm bí thơ riêng cho Đức Giáo hoàng Gio-an Phao đệ nhị nhiều năm). Xét ra, hôm đó tôi được chứng kiến một biến cố lịch sử: đây là lần đầu tiên người Việt có thể vượt biên giới đàng hoàng, mà không cần “xin phép” người Pháp.

Tháng sáu 1950, tôi lên máy bay Air France (một chiếc Dakota 4 cánh quạt) bay nhiều chặng vắn, qua Bombay, Karachi (bấy giờ còn là đất Ấn), Bahrein, Cairo, Roma, để ngừng hẳn tại Paris. Cuộc hành trình kéo dài hai ngày ba đêm! Tới kinh thành ánh sáng, chân tay tôi rã rời, tưởng chừng như tứ chi đã long ra khỏi khớp, và đầu thì cứ ù ù: rời bỏ phi trường cả giờ, mà vẫn như nghe cánh quạt kêu phành phạch bên tai. Air France chiều khách, cho tôi một buồng khách sạn sạch sẽ nghỉ chơi hai ngày, rồi mới lên đường đi tiếp sang Mĩ.

Ngày nay các hãng máy bay giàu tự tín, không hãng nào rỉ tai cho khách du lịch biết trước hành trình. Nhưng bấy giờ thì khác. Air France cho tôi hay: phi công dự trù vượt Đai tây dương, dọc đường đáp xuống đảo Azores, rồi bay thẳng tới phi trường Idlewild (nay là Kennedy) của Nữu ước. Nhưng vào phút chót, họ đổi ý, và quyết định bay từng chặng vắn hơn: qua Shanon (Ireland), Gander (New Foundland), Boston, rồi Nữu ước. Như vậy có lẽ tôi là sinh viên Việt Nam đầu tiên làm thủ tục nhập cảnh Hoa kì với chiếu khán Việt Nam tại phi trường Logan tại Boston. Trong lúc đó, chẳng hạn anh Đỗ trọng Chu, một sinh viên Việt tới Mĩ sau tôi không lâu, đã theo lộ trình thông thường hơn là đường thuỷ qua ngả Ellis Island, dưới bóng thần Tư do tại cảng Nữu ước.

Tới Nữu ước, tôi vội vàng xin yết kiến Đức Hồng y Francis Spellman tại toà Tổng giám mục đường Fifth Avenue, cách văn phòng Air France giăm ba block. Vì nói tiếng Anh mà không ai hiểu, tôi phải dùng một cuốn sổ để ghi bằng chữ viết bất cứ nhu cầu nào, rồi giơ lên cho người ta đọc… Không may cho tôi, gặp ngay một anh tài xế lưu manh biết ngay chàng sinh viên này lần đầu tiên tới Hoa kì: gã bèn nói li lô một hồi như đã hiểu biết, rồi lái xe vòng vòng qua không biết là bao nhiêu đường phố mới tới toà tổng giám mục. Ôi chao, văn phòng giáo phận Nữu ước sao mà rộng lớn làm vậy! Cô thư kí hẹn tôi hôm sau trở lại sẽ được diện kiến vị ân nhân của tôi. Ngài rất ân cần và nói nhiều câu mà tôi chẳng hiểu gì. Đáp lại, tôi nói gì ngài cũng chẳng hiểu nốt, nhưng vẫn thấy ngài gật gật cái đầu, lặp đi lặp lại:một câu nào đó, cố nhiên là không viết ra chữ. Mãi sau này tôi mới biết là ngài yên ủi tôi bằng một câu cửa miệng: “That is right! That is right!”

Tới giáo xứ Đức Hồng y gửi gắm, tôi làm “phó ba” tức là sau Msgr Francis Shea, trên tôi còn Cha James Wash và John Sullivan. Tất cả là công dân Mĩ gốc Ái nhĩ lan. Các vị hỏi tôi từ đâu mà lại, Tôi đáp: “Từ Shanon, Ireland”.

Mấy năm đầu tôi phục vụ như một linh mục vào ngày chủ nhật, và một ngày trong tuần; thời giờ còn lại, tôi đi học ráo riết, cả mùa hè cũng không nghỉ. Tối đến chúng tôi xem Tivi, một máy điện thị có ngân mạc (screen, monitor) bề cao chừng hai gang tay, bề ngang chừng hai gang rưỡi, như vậy máy thuộc loại khá lớn. Tôi phàn nàn hình đen trắng không có màu, thì để chiều ý tôi, mấy ông cha lắp một kính lúp khá lớn chụp kín ngân mạc, phần trên bôi màu thiên thanh, khúc giữa màu lục, và phần dưới là mầu nâu.

Tôi vào trường Iona nhận học món Hoá. Khuyết tật chỉ đọc và viết được nhưng không nghe không nói được Anh ngữ đã chẳng gây chướng ngại gì cho tôi theo kịp các bài học, vì khi dạy môn Hoá ông thày thường viết công thức Toán Hoá rõ ràng trên bảng xanh, cho nên dù lớn tuổi hơn đồng liêu cả một con giáp, dù đã chấm dứt đời sinh viên cũng cả chục năm, tôi vẫn theo kịp mọi người. Chỉ cần học thêm vài lớp tiếng Anh, mấy tháng sau tôi tôi đã chấm dứt được giai đoạn vừa câm vừa điếc.

Sang năm 1951, tôi nhận được điện tín từ Âu châu báo tin có Đức Cha Ngô đình Thục với bào đệ là Ông Ngô đình Diệm đến sân bay Idlewild, cần tôi ra đón. Tôi vội vàng tune up chiếc xe Plymouth, đã cũ mà còn sạch sẽ của tôi, rồi vận bộ đẹp nhất vào người…Bộ này tôi đã mua trước đó ít lâu để thay thế cho bộ complet may tại Hà nội, mặc vào mà thấy mình chẳng giống ai ở Hoa kì. Bữa đó, tôi vẫn chưa trút bỏ được dáng dấp anh chàng nhà quê lên tỉnh, mặc dầu trên đầu đội mũ dạ đen, trước ngực mang cổ cồn trắng, và nếp quần cứng như dao cạo. Nên nhớ rằng: hồi đó kĩ nghệ dệt chưa sản xuất các thứ sợi nhân tạo, có thể ủi bằng bàn là nóng làm ra những nếp rất bền. Áo vét tông không kể, quần chúng tôi bấy giờ thường may bằng vải len màu đen, cứ một hoặc hai tuần phải đem tới Chinese laundry giặt khan rồi ép bằng máy hấp. Mặc dầu sức ép của máy khá lớn, nhưng nếp quần thường chỉ cầm cự được một hai tuần là cùng, rồi phải mang đi ép nếp lại…Tại sao cầu kì đến thế? Vì giáo sĩ thời đó ra đường không được hút thuốc, không được uống rượu, áo quần phải tề chỉnh hết sức: mũ “phớt” đen đội vào mùa đông, loại Panama trắng đội vào mùa hè. Noblesse oblige mà! Vào thập niên 1950, được đặc biệt kính trọng là “1/ Công chức, trên hết là Tổng thống Henry Truman, 2/ Giáo sĩ; 3/ Cảnh sát và thợ chữa lửa. Trẻ con đứa nào cũng mơ lớn lên sẽ làm cảnh sát hoặc thợ chữa lửa!…Ôi thời bốn phương thanh bình, dân tình đôn hậu nay còn đâu.

Trở lại chuyện mua bộ complet mới. Bữa đó tôi gạt ra một bên hãng Bond (bình dân quá!), mà lượn đi lượn lại dọc Fifth Avenus, Manhattan mấy vòng, rồi đầu thẳng ngực ưỡn, trịnh trọng bước vào hãng Roger Pitts. Cho là khách xộp (thử hỏi: khách bước vào Roger Pitts ai mà không phải là khách xộp?). nhân viên hãng xúm xít ra đón; mời thử hết bộ này sang bộ khác. Kết cục họ giới thiệu một bộ hai hàng cúc, vải len mịn, với giá cắt cổ. Gã thanh niên Việt Nam nào có biết gì, nghe họ nói hàng bán theo giá đặc biệt dành cho giáo sĩ, nhất là người ngoại quốc (?), bèn vui vẻ móc tiền ra trả. Về nhà mấy ông linh mục bạn nghe kể ai cũng lăn ra cười ra nước mắt, thương thay kẻ ngây thơ bị cá mập làm thịt. Ở lâu hơn, tôi mới nhận ra áo hai hàng cúc chỉ thích hợp với người to con, và hàng may sẵn không bao là toàn mĩ, nhất là loại may theo kích thước người da trắng da đen thì làm sao làm nổi bật được các nét đầy dương tính trên thân thể một hán tử da vàng?

Phải, bữa đó tôi phập phòng ra đón ông Diệm, với ý thức: Đức Cha Thục từng là bạn đồng song với Đức Hồng y Mĩ tại Roma ngày nào, thì chắc chắn ông Diệm sẽ được Đức Hồng y ân cần đón tiếp. Mà quả như thế. Hơn nữa vì tôi và ông Diệm cùng chung một người bảo trợ là Đức Hồng y, cho nên hai chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội sống bên nhau. Một lần nữa, tôi đoán trúng: Tuy nơi ông Diệm lưu trú là nhà dòng các linh mục Maryknoll gồm hai cơ sở: một ở Ossining N.Y.(thuộc tiểu bang Nữu ước), một ở Lakewood N.J. (thuộc tiểu bang New Jersey), nhưng mỗi lần ông tới Manhattan tiếp chính khách tại khách sạn, thì ông thường cậy tôi đưa đón. Có khi tôi còn tình nguyện bỏ tiền riêng thuê khách sạn, vì biết ông cụ rất thanh bạch. Dần dần không có vườn đào để đọc lời thề kết nghĩa, mà hai “Việt kiều” niên canh cách nhau hai con giáp, đã trở nên bằng hữu vong niên chí thiết. Bỏ Hoa trung vượt Trường thành mà chợt gặp được người đồng hương thì bất diệc lạc hồ? Tới đây tôi hồi tưởng tới anh Nguyễn xuân Điền, con ông Nguyễn phẩm Phúc. Tôi quen biết gia đình này từ 1948; năm mà họ kéo nhau từ khu tư (Thanh hoá) ra Phát diệm (Ninh bình: khu ba), nhằm lúc tôi mới thành lập trường trung học Trần Lục. Do đó tôi tìm dịp tiến cử Anh Điền. Bữa đó, tôi thuê cho ông cụ một phòng cao ráo tại khách sạn Tudor, lại thuê cho Điền một phòng bên cạnh. Một nhân vật lịch sử giáp mặt một thanh niên mới lớn. Hai bên đàm đạo một hồi. Sau đó tôi hỏi Điền nghĩ sao về ông Cụ thì Điền trả lời ngay: không ngờ một nhân vật lẫy lừng từ lâu, mà còn trẻ như vậy, nhưng dáng đi chữ bát, lại đoản tướng thì làm sao có thể hấp dẫn anh, làm sao có thể làm lãnh đạo nhân dân cả nước? Cảm giác đầu tiên là như thế nhưng về sau Điền đã nhiều năm làm việc ở toà đại sứ Việt nam tại Washington, dưới quyền đại sứ Trần văn Chương.

2 - Nhiều người muốn biết:
Hơn hai năm sống chung với các linh mục Maryknoll, ông Diệm đã làm những gì?
Không đi học, không đi tu thì ông làm gì?

Mục tiêu số một ông nhằm là tìm nhân tài trong số các sinh viên du học tại Mĩ và Canada: Huỳnh văn Lang, Đỗ vạng Lí, Bùi công Văn nhân viên Voice of America, Bùi kiến Thành, Nguyễn Thái, Nguyễn ngọc Linh, bác sĩ Thơ với chị Minh, và Nguyễn đình Hoà vân vân….Riêng Nguyễn đình Hoà có phụ thân quen biết ông Diệm. Khi Nguyễn đinh Hoà làm đám cưới, ông Cụ đòi tôi đưa đi mua quà tặng đôi tân hôn.

Mục tiêu số hai là ông nghiên cứu tại chỗ chính thể và chính trường Hoa kì. Trong số các chính khách Mĩ ông gặp gỡ nhiều lần, có các ông Senator Manfield, Justice Douglas, và…J.F. Kennedy lúc ấy mới bước chân vào thượng nghị viện. Có lần ông Cụ dặn tôi phải thuê phòng khá sang, để cụ gặp gỡ Thủ tướng Pháp.

Về phía chính khách Việt Nam, ông Diệm nhiều lần tiếp hai giáo sư Bửu Hội, và Nguyễn văn Thoại. Nhà hoá học lừng danh Bửu Hội thì tôi quen tên rồi, vì nhiều lần đã đọc các bài ông nghiên cứu về Hoá, nhưng Nguyễn văn Thoại? Được hỏi thì Cụ trả lời: “Ông Thoại là một giáo sư ở Collège de France”. Tôi ngạc nhiên: “Chà! chắc ổng phải xuất sắc lắm, thế mà tại sao tôi chưa từng nghe đến tên.”

Một bữa nọ có Cha Cao văn Luận tới ra mắt. Trong cuốn hồi kí: “Bên giòng lịch sử” linh mục viết về sau này, Cha tường thuật khá dài những lần mình gặp vua Bảo đại, Chủ tịch Hồ chí Minh, và ông Ngô đình Diệm. …Viết về cuộc hội kiến giữa ngài và ông Ngô lần ấy, Cha có biên vài dòng về Linh mục Trần văn Kiệm người địa phương đã dẫn cha tham quan Nữu ước. Thú thật tôi cũng có dịp gặp vua Bảo đại về thăm Đức Cha Lê hữ Từ, và dự lễ Mi-sa tại nhà thờ Phát diệm. Nhưng hối ấy tôi chỉ là thành viện ca đoàn trường thần học Thượng kiệm, nhìn lên chỉ thấy nhà vua ngự xa xa trong khuôn viên đặc biệt gần bàn thờ. Khi cử hành thánh lễ, chúng tôi đã hát những bài plain chant du dương, và nhạc đa âm (4 dòng nhạc đuổi nhau) của Palestrina, Victoria... Không phải là tự kiêu, nhưng dám khoe rằng chúng tôi hát rất hay, và lễ tất đã được chính hoàng thượng ban khen. Tôi cũng có dịp gặp Chủ tịch Hồ chí Minh khi ông về Phát diệm, tôn vinh giám mục Lê hữu Từ làm cố vấn chính phủ. Cả tại công đường Đức Giám mục (nhà chung Phát diệm), cả tại nhà hội quán Đức Cha Tòng, tôi đứng cách ông Hồ không quá bốn năm bước; tôi được nghe ổng tươi cười nói với dân Phát Diệm: “Khi nhà xây còn dang dở, người ta thường bỏ mặc gạch vữa nằm ngổn ngang, nhưng nhà xây xong rồi người ta sẽ dọn dẹp đâu vào đấy!!!” Nghe câu sau cùng, tôi nổi gai ốc khắp mình, từ đỉnh đầu xuống tới gan bàn chân.

Lúc này (năm 1947) tôi là một linh mục trẻ phụ trách xứ Hướng đạo. Trên đường tìm về Phát diệm, ông Hồ đi qua Hướng đạo trong một chiếc xe Peugeot. Xe đương chạy chầm chập ngang nhà thờ Hướng đạo, chợt có một em bé trai băng qua đường bị xe đụng nhẹ. Ông Hồ vội truyền cho tài xế dừng lại, bước ra đỡ thằng bé đứng lên. Ông lấy tay phủi áo nạn nhân, miệng hỏi: “Em có đau không?” Trời ơi, nhân vật vô thần này mà quét dọn giang sơn, thì đạo Thiên Chúa cùng với các tôn giáo khác sẽ khốn đốn to, tôi thầm nghĩ như vậy. Sau này tại Nữu ước khi đã hiểu biết ông cụ nhiều rồi, có lần tôi dám đem ông Ngô đình Diệm, so sánh với ông Hồ chí Minh. Tôi than thở: “Ước chi Cụ có tài biểu lộ lòng thương dân (hay là mị dân?) như ông Hồ khi ổng đi qua nhà thờ Hướng đạo của tôi! Ước chi Cụ biết tươi cười như ông Hồ khi ổng diễn thuyết ở nhà Hội quán Đức Cha Tòng tại Phát diệm!” Tương lai đã chứng minh: tôi khiếp sợ ông Hồ và đảng Cộng sản, lại lo ngại cho ông Diệm là rất đúng. Nhưng khi giáp kiến với giám mục Lê hữu Từ năm ấy, ông Hồ đã thân mật tuyên bố, “Sau này nếu tôi muốn cải đạo, tôi sẽ xin Đức Giám mục Cố vấn rửa tội cho tôi.” Tài giả hình tới mức này, thì nhất định tôi không mong ông Ngô theo kịp ông Hồ!

Xem đó, càng ngày tôi càng bạo dạn , cả những tư tưởng giấu kín trong đầu tôi cũng đem ra ra thảo luận với ông Diệm. Phần ông, ông cũng làm như thế đối với người bạn vong niên là tôi. Thuộc giáo xứ Blessed Sacrament ở New Rochelle, nơi tôi trụ trì, có một tín đồ Thiên Chúa giáo người Trung hoa. Tôi đem người này giới thiệu với ông Diệm. Biết thân thế ông Diệm rồi, sau đó không lâu, người bạn Trung hoa của tôi đã gửi thư mời hai chúng tôi tới ăn cơm Tầu tại nhà. Thư viết bằng Hán tự, hẹn chủ sẽ đón khách vào cuối tuần, trúng “đệ lục nhật”. Mức hiểu biết Hán tự của tôi lúc đó còn hạn hẹp. Đọc thư, tôi ngạc nhiên: “Ủa, sao người Công giáo lại mời khách Công giáo tới nhà ăn trúng vào ngày thứ sáu phải kiêng thịt?” Ông Diệm không ngại nói cho tôi hay: “Đệ lục nhật của Trung hoa là ngày thứ bảy của ta”.

Ông còn thân mật hơn đối với tôi trong giai thoại sau. Cả khi có ông Cụ hiện diện, mỗi lần nghe người ta hỏi nguyên quán, tôi thường trả lời mình là người Phát diệm. Bữa đó, ông Cụ nhè nhẹ thích khuỷu tay vào hông tôi mà trả lời thay: “Cha Kiệm là người Phát diễm đó”. Bây giờ tôi mới vỡ lẽ: ông Cụ dặn tôi tránh tên húy vì theo phép giao tế Việt Nam nên tránh gọi tên cúng cơm người có mặt. Không may cho tôi, vì quá Tây phương hoá, tôi sửa luôn “Diễm” thành Diệm” trước mặt mọi người, mà không nhớ rằng Hán tự một chữ có cả hai âm là Diệm và Diễm.

Ngày xưa một nhóm thợ nề xây nhà thờ cho một họ đạo, có linh mục nhiệm sở mang quý danh là Hồ. Suốt thời gian xây cất, người ta đã tránh tên “Hồ” mà khi cần bắt mạch gạch đá, ai ai cũng gọi :”Cháo đây”.

Vì muốn ông Diệm thay đổi bầu khí cuối tuần, một hôm tôi mời ông lại thăm tôi. Vốn sống chung một nhà với các linh mục Mĩ, thiếu tiện nghi tiếp khách, tôi chợt nảy ra ý kiến. “Hay là mình mượn các tu nữ ở College of New Rochelle giúp?” Số là không xa nhà các linh mục, có một trường cao học chuyên dạy các cô chiêu con gái nhà giầu, phòng ốc rất đẹp, do các tu nữ dòng Ursuline điều khiển. Nhóm nữ lưu này có học lực rất cao, lại giàu lòng từ bi bác ái: mong họ sẽ giúp tôi, một linh mục sở tại. Đồng thời, tôi lại e dè không muốn cho họ biết ông Diệm là ai, vì sợ mang tiếng linh mục mà làm chính trị. Như vậy chưa chắc họ sẽ chấp nhận lời tôi yêu cầu mà thay tôi tiếp khách? Ai ngờ: chỉ vì nể lời một linh mục bản sở, họ đã không ngần ngại dành riêng cho khách một căn phòng rộng rãi trong khuôn viên ngôi trường của họ, mời khách ăn ngủ suốt hai ngày thứ bảy và chủ nhật. Bữa cơm chỉ có hai chúng tôi ngồi ăn, trước mắt ân cần một vị giáo sư đại học vô danh, người da trắng, hồng hào trong bộ trang phục tu nữ. Nàng tận tình bưng cơm rót nước phục thị hai người Việt chúng tôi suốt hai ngày. Hỏi về đêm ngủ có ngon không, ông Diệm trả lời,: “Bầu khí rất thanh tĩnh, giường ngủ rất êm ái thơm tho, nhưng họ cần gì mà phải thay chăn đệm mỗi tối, và khăn lau trong buồng tắm một ngày ba lần?” Ôi! Tinh thần tu nữ dòng Ursula vào thập niên 1950 sao mà cao vời vợi làm vậy!

Trở về cuộc cụ Hồ tới thăm Đức Giám mục Lê hữu Từ. Cũng hôm đó, ông Hồ sau khi tham quan khuôn viên thánh đường đã tản bộ ra tận bờ hồ. Đi ngang qua nhà ông giáo Huệ (trước kia là nhà ông phó Bá phụ thân ông giáo Huệ, và trong một thời gian từ 1885 đến 1890, cũng là nơi Cụ đồ Giản, theo lời mời của Cha Trần Lục, đã mở trường dạy Hán tự. (Xem tiến sĩ Nguyễn tư Giản trong cuốn Tự điển văn học L.m. Trần văn Kiệm sắp phát hành), ông Hồ buông ra một câu cho tới nay tôi vẫn cho là khó hiểu: “Cảnh vật y như xưa không có gì là khác” (???)

Có lần chính khách Mĩ phàn nàn với tôi: linh mục đề cao tư cách lãnh đạo của ông Diệm, và cả Đức Cha Thục cũng làm như thế, nhưng chúng tôi cần thêm chứng nhân, vì Đức Cha Thục là anh đề cao em thì có chi là lạ. Ông Diệm bèn mời Đức Cha Nguyễn ngọc Chi quá bộ sang Hoa kì, thấy Đức Cha Chi gặp khó khăn khi phát biểu ý kiến bằng Anh ngữ, ổng mời thêm Đức Cha Hoàng văn Đoàn sang Hoa kì. Đức Cha họ Hoàng to con, lại có một bộ râu quai nón vĩ đại. Hơn nữa ngài lại là một học giả bằng cấp cùng mình. Ngài nói thông thạo Anh ngữ, lại biết đọc Thánh Kinh bằng tiếng Hi bá lai, cổ ngữ Do thái. Một hôm, ngài cùng chúng tôi đi xe điện ngầm tại Manhattan Nữu ước…Rất ít linh mục, phương chi là giám mục đi xe điện ngầm, cho nên vừa thấy đoàn chúng tôi ba người (gồm cả Cụ Ngô) bước lên xe, ai cũng ngạc nhiên. Làm thế nào mà một ông có bộ râu Quan Công, mặc áo overcoat khi trời chưa lạnh lắm, dáng dấp y hệt một đạo sư (Rabbi) Do thái, lại đi bên hai người Á đông, một người mang y phục linh mục La mã? Nữu ước có rất đông công dân Mĩ gốc Do thái, và cố nhiện họ ngồi đầy toa xe điện: ai ai cũng ngạc nhiên vô cùng. Tới khi ông “rabbi” rút sách Hi bá lai ra đọc, thì thiên hạ không còn hồ nghi gì nữa. Họ ùa nhau tới hỏi ngài bằng tiếng yiddish xem có đúng ngài là một ông rabbi không? Lúc này Đức Cha Đoàn mới mở áo ngoài cho họ xem cây thập giá đeo trước ngực mà xác định mình là Giám mục Thiên Chúa giáo, thông thạo cổ ngữ Hi bá lai mà không biết tiếng yiddish. Ai ai cũng bò cười, đàn ông đàn bà xúm lại ôm hôn ông Quan công có bộ râu như các tín đồ Do thái chính thống.

Trước khi trở về nước, Đức Cha Đoàn, vốn thuộc hội dòng Đa minh (Dominicans) có nhờ cha Fahey trụ trì tại một tu viện Đa minh ở Nữu ước thu lượm “tiền xin lễ” từ giáo dân Hoa kì, rồi gửi vể Bắc ninh cho ngài. Cha Fahey gọi tôi tham gia, và công việc đương tiến triển tốt đẹp được ít lâu thì một buổi tối khuya, đồng đồ đã điểm 11 giờ, Cha Fahey gọi điện báo tin động trời: Toà thánh Vatican được toà Khâm mạng tại Việt Nam báo tin: Đức Cha Đoàn nghiêng theo Cộng sản!! Phải lập tức chấm dứt cuộc lạc quyên bảo trợ Giám mục Đoàn ngay”. Hai chúng tôi tin rằng Đức Cha bị vu oan, nhưng chỉ biết ôm đầu khóc thầm. Về sau chúng tôi biết thêm: Đức Cha Đoàn bị biếm sang nhà dòng Đa minh tại Hương cảng. Nhưng mối oan khuất của ngài từ từ hiện ra càng ngày càng rõ, vì chính ngài trước khi rời Việt Nam, đã bị Cộng sản đả thương, và như vậy tất cả nội vụ đều do đảng Cộng sản dàn dựng.

Thời gian trôi qua lặng lẽ. Vì tiếp tục học tập luôn cả mùa hè, và bỏ ra khá nhiều giờ hì hục tại phòng Lab lại được trường tặng luôn cho một số credit vì mảnh bằng Baccalauréat Pháp do đại học Hà nội cấp hai năm 1940 và1941, tôi lãnh bằng BS Hoá rất sớm, để sau đó theo học khoa Lí tại trường Fordham, thụ nghiệp với Dr Hess, vị giáo sư gốc Đức từng dựt giải Nobel vì đã có công khán phá ra tia vũ trụ (cosmic ray). Đồng thời cuối tuần tôi vẫn liên lạc với ông Diệm. Thấy ông có phần sốt ruột trước tình trạng chính trị trì trệ, tôi mách cho cụ nên có một hobby. Tôi vốn say mê chụp hình ngay từ khi mới sang Hoa kì, nào là Rolleyflex, nào là Leica, lại cả một chiếc Graphic lớn cỡ. Chụp đen trắng rồi lại chụp mầu, và để rửa ảnh ra giấy, tôi được tự do sử dụng buồng tối ở nhà trường tư thục của giáo xứ. Ảnh màu Kodak tôi phải đưa ra tiệm, nhưng ảnh màu Ansco thì tôi rửa ngay tại nhà. Tới hồi tôi theo học trường Forham, tôi càng mê máy ảnh hơn, vì tại đây trong phòng thí nghiệm khi muốn phân tích thành phần các thể chất, các giáo sư dạy tôi phương pháp dùng điện thế rất cao mà chụp quang phổ (spectrum). Cuối cùng hai chúng tôi ghé vào tiệm Peerless gần nhà ga trung ương ở phố 42, và tôi đã giúp ông cụ lựa chọn một chiếc máy ảnh, lại mua thêm cuốn dạy chụp và rửa hình. Tôi không ngờ khi đem ông Cụ vào nghề chơi thanh lịch này tôi sẽ giúp kẻ xấu bụng bôi lọ thanh danh của Tổng thống Ngô đình Diệm: Sau khi hạ sát ông xong, bọn chúng vào buồng ông lục lọi kiếm tiền. Tiền không nhiều, nhưng họ lượm về một đệp tạp chí dạy cách chụp và chơi hình. Cố nhiên đối tượng máy chụp là phong cảnh và người mẫu. Chúng bèn phao lên là Tổng thống Diệm chơi hình khoả thân. Báo Photography đâu có thuộc loại Playboy?

Vào giai đoạn này, thấy ông Diệm có thì giờ đàm đạo vu vơ với tôi, nhiều lần tôi hỏi cụ có ý kiến gì về Chủ tịch Hố chí Minh? Cái ngày Ông Bà Chương và ông bà Nhu tìm về Phát diệm, tôi thắc mắc không biết ông Ngô đình Diệm không về theo gia đình, thì lưu lạc đi phương nào? Nhiều người xì xào: nể lời Đức Cha Lê hữu Từ cố vấn chính phủ, ông Hồ đã mở cửa cho các ông bà Chương Nhu tìm về Phát diệm, nhưng vẫn giữ ông Diệm ở lại Hà nội. Tôi muốn biết mối giao tế giữa hai người tốt xấu như ra sao? Nhưng không môt lần nào, ông Diệm bình luận với tôi hay bất cứ ai về ông Hồ.

Về sau khá lâu, tôi nghe một nguồn tin nói rằng: Khi bị Hoa kì dồn ép tới đường cùng, ông Diệm có nhờ giáo sư Bửu Hội làm trung gian mở một vài cuộc hoà đàm bí mật với đại diện ông Hồ tại Tánh Linh, khiến cho một số chính khách Mĩ đã dựa vào đó mà gỡ tội cho ông Cabot Lodge, đại sứ Tổng Thống J.F.Kennedy…Nói tới Tánh Linh, tôi liên tưởng tới Đức Bà Tapao, pho tượng Đức Ma-ri-a chắp tay cầu nguyện cho nước Việt Nam, một công trình tôi đã nghe lệnh ông Diệm mà đặt nghệ sĩ Hải tại Phú nhuận đắp tượng bằng xi măng, lại chỉ huy công trình lập tượng đài trên ngọn đồi giữa rừng xanh, chỉ cách Tánh linh có dăm bảy cây số. Tượng đã hiển linh, và đã trở thành một địa điểm hành hương.

3- Vua Bảo đại mời ông Diệm về nước chấp chính lần thứ nhất
Mùa hè năm 1953, trung tuần tháng 6, ông Diệm gọi tôi mà nói: “ Hoàng đế Bảo đại mời tôi trở về nước chấp chính”. Tôi dựt mình. Theo tôi nhận xét thực trạng, thì các chính khách Mĩ rất lơ là; không ai chú ý gì tới Việt Nam cả. Nhiều người vẫn chưa biết ông Hồ chí Minh là ai. Thậm chí có người (đã học qua trung học) tò mò hỏi tôi: “Thưa Cha, tọc mạch thế này là không phải, nhưng con không nhớ Việt Nam đứng chỗ nào trên bản đồ, và không biết phụ nữ Việt Nam còn đi lại khoả thân, hay là họ đã biết mặc quần áo?!”

Mãi tới gần một tháng sau khi trận Điện Biên phủ nổ lớn ngày 13 tháng 3 năm 1954 (sẽ thất thủ ngày 26 tháng 6) và có lẽ cũng vì nghe lời Đức Hồng y Francis Spellman kêu gọi, ngày mùng 7 tháng tư năm 1954 tổng thống Eisenhower mới lên tiếng cảnh giác, khi ông xướng lên thuyết Domino: “Nếu Việt Nam sụp đổ trước sức tấn công Cộng sản quốc tế với Liên Xô và Trung hoa yểm trợ Hà nội, thì mấy nước ở Đông Nam Á sẽ khó mà đứng vững được”. Đó là tình hình cả một năm sau mới xảy ra. Thật vậy, vào giữa năm 1953, khắp lãnh thổ Hoa kì và nhất là trong Bạch Cung, gồm cả Tổng thống Eisenhower mới lên cầm quyền đầu năm 1953, không ai lưu ý tới Việt Nam cả. Tại sao hoàng đế Bảo đại kêu gọi chí sĩ Diệm sớm sủa như thế này? Được hỏi Cụ trả lời rất dứt khoát: “ Được Mĩ bật đèn xanh, không phản đối việc tôi quy cố hương là đủ. Chắc rằng về nước nhà rồi, tôi sẽ còn cần họ tiếp sức mới hãn ngữ được đường tiến của Mạc tư khoa, Bắc kinh và Hà nội. Như vậy là bõ công tôi sống hơn hai năm ở Hoa kì . Việc tôi trở về sẽ không do Hoa thịnh đốn quyết định, nhưng sẽ tuỳ thuộc công cuộc Hoàng đế Bảo đại dàn xếp với Champ Élizée có hanh thông hay chăng.” Tôi mù tịt không biết Cụ muốn nói gì. Với giọng thương hại, cụ yên ủi: “Sang Âu châu, gặp nhà vua rồi, nhìn thấy tiền đồ sáng tỏ hơn, tôi sẽ từ bên đó đánh điện tín cho Cha theo rõi, để cha thông báo cho các anh em chị em bên này yên lòng”.

Kế đó, ông Diệm rời bỏ nhà dòng Maryknoll. Lakewood, New Jersey về thẳng nhà anh chị Bùi công Văn toạ lạc không xa góc Đông bắc công viên Central Park, ở Manhattan. Một phái đoàn rất nhỏ gồm 5 người là anh chị Bùi công Văn, các anh Đỗ vạng Lí, Bùi kiến Thành và tôi lên hai chiếc xe tháp tùng ông Cụ ra phi trường Idlewild. Đương khi đợi máy bay, Chị Bùi công Vân la lên: “Kìa! Cụ về nước mà cổ trần không có cà vạt!” Nghe nói anh Bùi kiến Thành (con ông Bùi kiến Tín, một trong số rất ít người hiểu biết ông Diệm không làm ra tiền, cho nên thỉnh thoảng có góp lí tài giúp ông – tôi biết chi tiết này vì chính ông có lần nói nhỏ cho tôi nghe), đã tình nguyện bỏ tiền mua cà vạt cho ông Diệm.
Ngày kế tiếp, tôi được điện tín từ Paris: “ Tout va bien” rồi từ đó mất liên lạc…
Khá lâu sau ông cụ mới gửi cho tôi một bức thư kể vắn tắt rằng: công cuộc Hoàng đế Bảo đại điều đình với Pháp không xuôi xẻ, và trước tình thế mới, ông phải rời nhà ông Ngô đình Luyện - chỉ là nơi tạm trú – mà bỏ nước Pháp, tìm sống trong nhà dòng Saint André ở Bruges, nước Bỉ, mà nhẫn nại chờ đợi thêm. Tôi vội tìm tự điển khảo cứu ít nhiều về thành phố Bruges…

Đó là tất cả diễn tiến của đại cuộc “Mĩ đưa ông Diệm về làm Tống thống và thiết lập Công hoà Việt Nam với cờ vàng ba sọc đỏ.” Sự thực Bạch cung không trao cho ông Diệm một công văn gì, không uỷ cho ông Diệm một nhiệm vụ gì, không bố thí cho ông Diệm một đồng Mĩ kim nào. Nhờ có bà Bùi công Văn và anh Bùi kiến Thành ông cụ mới nhận ra bộ cánh của mình còn thiếu cà vạt, rồi thụ động để có người khác đem một chiếc cà vạt mua vội ở phi trường, gắn lên trước ngực cho ông….
Đây mới là lần thứ nhất năm 1953, Hoàng đế Bảo đại vời ông Diệm trở về. Mùa hè năm 1954 nhà vua sẽ kêu gọi ông Diệm trở về lần thứ hai như sẽ thấy sau này.

4- Cuối năm 1954, tôi bỏ Hoa kì trở về Việt Nam
phục vụ Tổng thống Diệm với tư cách quan sát viên miễn phí

Năm 1953 dựt được mảnh bằng BS Physics, tôi chuyển sang trường New York University uptown không xa đại học Fordham cũ của tôi là bao, để chiều chiều theo học môn Quantum Physics. Tôi chọn các môn học kì cục này chỉ vì tính tôi thích tìm hiểu. Chứ như tôi đã lớn quá tuổi sinh viên rồi, đã quyết tâm trọn đời phục vụ giáo hội rồi thì cần chi phải khổ công chạy theo thế hệ hậu bối hăm hở tìm mảnh bằng làm phương tiện tiến thân trong xã hội làm gì? Chính vì thế , học qua các lớp dạy ở uptown, và đương khi học tiếp môn Quantum Physics năm thứ hai ở campus downtown, gần vị trí hai ngôi nhà chọc trời Trung tâm mậu dịch, sẽ là mục tiêu cho nhóm Hồi giáo quá khích phá hoại sau này, khi vừa nghe tin ông Ngô đình Diệm được hoàng đế Bảo đại mời về chấp chình lần thứ hai vào giữa năm 1954, tôi quyết định bỏ học theo ông cụ trở về Việt Nam.

Sách nói “đoạn trường thay lúc phân kí”, nhưng cuộc tôi chia tay với Đức Hồng y Francis Spellman lại khác hẳn. Bữa cơm li biệt được thiết tại tư dinh Đức Hồng y gần nhà thờ St Patrick, Fifth Ave. Quanh bàn Đức Hồng y có đại sứ Việt Nam ông Trần văn Chương, và hai đứa con cưng của ngài người Việt là anh Nguyễn đức Quý và tôi, cả hai có may mắn được ngài bảo trợ cũng như ngài đã bảo trợ ông Diệm hồi nào. Cơm nước xong, ngài cho chiếu phim ghi lại cảnh dân Bắc Việt trốn Cộng sản chạy vào Nam theo ông Diệm. Tới khung hình một phụ nữ Việt Nam vận áo tứ thân thắt khăn mỏ quạ, hớt hải một tay bế con thơ, một tay bưng hình Đức Mẹ hằng cứu giúp, ngài đã không cầm được giọt lệ. Chính như tôi lúc này, tức là 40 năm sau ngày từ giã Đức Hồng y Spellman, lần nào nhớ tới bà mẹ đau khổ, và tấm khăn Đức Hồng y lấy lau nước mắt, tôi cũng không cầm được giọt lệ.

Hiện nay anh Quý đã hồi tục. Sau khi đỗ bằng Ph D về môn Sinh học anh đương là một nhân viên kì cựu trong Hội chống Ung thư ở New Jersey. Khi ông Diệm đặt chân lên Hoa kì lần đầu , Quý cũng mới tới Nữu ước trước đó không lâu. Tôi đưa hai người gặp nhau ở nhà anh Đức Thanh. Vừa thấy ông Diệm, Quý chạy lại vỗ vai mà hỏi: “Anh mới sang đây hả? Anh theo học trường nào?”

Trước khi ông Diệm đặt chân trở lại Việt Nam, tôi có tiếp được một bức thư ông Nhu gọi tôi về giúp chính phủ. Lá thư này khơi cho kí ức tôi nhớ lại một câu chuyện vui vui xảy ra khi tôi mới nắm được mảnh bằng MS Physics trong tay. Hồi đó, thế chiến thứ hai chấm dứt chưa lâu, cả thế giới nhất là các nước Âu châu, hăng say tái thiết xứ sở. Vì vậy sinh viên tốt nghiệp đại học với bằng Bachelor degree bất luận là môn gì, đều không thiếu cơ hội tìm cho mình một việc làm ngon lành. Cả mấy tuần lễ trước ngày phát bằng, các hãng lớn đều mở văn phòng ngay tại khuôn viên nhà trường để kêu gọi nhân tài. Tôi tốt nghiệp MS tại Forham với ngoại ngữ là tiếng Đức, tên tôi lại mang vần K rất thông dụng tại Đức. Cả ba nguyên tố: khoa học, Đức ngữ và vần K tác hợp với nhau, làm thành một lá thơ của bộ ngoại giao Đức, mời tôi trở về phục vụ cho Vaterland! Cố nhiên tôi phải từ chối cả hai lời mời từ người Đức cũng như từ ông Nhu. Với bào đệ ông Diệm, tôi xác định mình đã làm linh mục thì trọn đời sẽ một lòng giảng đạo không làm chính trị, nhưng cố nhiên tôi sẽ làm thần dân tận tuỵ phục vụ tổ quốc .

Tôi về tới Việt nam, thì ông Diệm đã bình định xong xứ sở và thực hiện xong việc trưng cầu dân ý cho phép ông từ Thủ tướng bước lên làm Tổng thống thay thế vua Bảo đại. Nhìn vào hiện tình Iraq đòi hỏi Hoa kì hi sinh không biết bao nhiêu mạng người, và chi phí không biết bao nhiêu tỉ mĩ kim, mà việc lớn vẫn chưa hoàn thành, người ta mới nhận ra được tài kinh bang tế thế của ông Diệm siêu việt tới chừng nào. Đúng như câu ngạn ngữ bình dân “ Trói voi bỏ rọ” và một câu bình dân hơn nữa: “Tay không bắt chó cái.” Ông đã đơn thương độc mã tái tạo giang sơn miền Nam trong một thời gian kỉ lục.

Được tin người bạn vong niên trở về, ông nhờ Bác sĩ Tuyến tới trường chủng viện Phát diệm ở Phú nhuận mời tôi vào dinh độc lập. Bác sĩ nói: “Cha sẽ vào lối cửa tiền”. Tôi hỏi “Sao phải vào lối cửa tiền?” Bác sĩ đáp: “Vì ý tổng thống muốn như vậy. Nhân tiện xin hỏi: Cha có xe hơi không.? “ Tôi trả lời: “Mình sẽ đi tắc xi”. Bác sĩ nói : “Như thế cũng được”.

Thế là đúng giờ và đúng vị trí đã hẹn, tôi xuống khỏi chiếc tắc xi tí hon - mới ở Mĩ về tôi thấy chiếc tắc xi ở Sài gòn nhỏ bé quá chừng – thì thấy cửa mở cả hai cánh, một số người mặc đồng phục Việt Nam (không phải quân nhân) xếp hàng đứng chào, rồi họ dẫn tôi lên lầu tới một phòng ở đầu cánh trái dinh Độc lập, có Tổng thống Ngô đình Diệm trong bộ quốc phục ngồi đợi. Sau nghi lễ thông thường, hai người uống trà do đám gia thuộc cũng vận khăn áo Việt nam phục thị…Thấy Tổng thống vẫn nhận tôi là bằng hữu vong niên, tôi đánh bạo hỏi Người hai câu đương vương vấn trong đầu: 1/ “Tại sao Tổng thống phải truất phế Hoàng đế Bảo đại?” Đáp: “ Vì chính nhà vua muốn truất phế tôi, sau khi tôi dẹp yên bọn theo Pháp phá hoại quốc gia, và thành lập xong một chính phủ có đầy đủ sức hoạt động. Té ra nhà vua đã lợi dụng tôi như một con cờ thí nhận việc dọn đường phục bích mà thôi. Trước sau Hoàng thượng vẫn nuôi mộng một ngày sẽ trở lại Huế ngồi lên ngai cũ các vua Nguyễn. Tôi đã hứa khi được hoàng đế mời về chấp chính thì mình sẽ vâng nghe các thánh chỉ sáng suốt của ngài. Nhưng thánh chỉ đòi tôi rút lui vào lúc quốc sự còn ngổn ngang, thì nhất định là thiếu sáng suốt, làm sao tôi có thể phụng mệnh thánh chỉ được?.” Câu hỏi thứ hai: “ Tại sao Tổng thống giận Đức Giám mục Lê hữu Từ?” Đáp: “ Tôi đâu dám giận Đức Cha? Chỉ có Đức Cha giận tôi mà thôi . Khi tôi mời ngài tránh nạn vào Nam, ngài đã không chịu. Cha còn nhớ chăng? Cuối năm 1952, tôi có nhờ Cha biên thư cho Ngài mà căn dặn chấm dứt chương trình xây trường Louis Pasteur ở Hà nội, để dùng tiền mua đất xây nhà ở Sài gòn phòng biến. Ngài đã không nghe khiến cho địa phận Phát diệm bây giờ lâm vào cảnh cơ cực ở vũng lầy Phú nhuận. Tới giai đoạn hiệp định Genève, tôi hết sức hô hào dân lành bỏ Bắc vào Nam, thì Ngài lại đòi tôi làm một việc mộng tưỏng đầy máu xương, là giúp Ngài cố thủ tại Phát diệm! Cha ơi! Tôi rất đau khổ vì mất một ông bạn cố tri, từng là ân nhân của tôi và cùng tôi xuất thân từ Quảng tri!” Thú thực, tôi rất mừng thầm khi thấy Đức Cha Từ vào Nam đã né tránh các hoạt động chính trị và quân sự.
Xin lần nữa viết về ông Nhu. Tôi tự hỏi: tại sao có lễ nghi rườm rà tiếp đón tôi vào dinh độc lập như kể trên? Tôi tin rằng đó là sáng kiền riêng của Tổng thống Ngô đình Diệm, và hình như không được ông Nhu tán thành cho lắm, khiến cho từ đó về sau trong nhiều dịp gặp gỡ, ông Nhu nếu không nguội lạnh, thì cũng không bao giờ tỏ ý thịnh tình với tôi. Hồi ông Diệm còn ở Nữu ước, một hôm chúng tôi tản bộ ở gần nhà anh Chị Bùi công Văn – thì anh Bùi công Văn xin chụp hình ông Cụ và tôi, vai sánh vai chung trong một tấm hình. Ông Ngô đình Diệm cho phép ngay, và cách đây chừng 20 năm, tìm đến Virginia thăm ông bà họ Bùi lần sau cùng, tôi còn thấy Album gia đình vẫn giữ tấm hình này, nhưng tấm thứ hai tôi đưa về Sài gòn đầu năm 1955 đã bị ông Nhu sai người tới tận nhà thu hồi để huỷ đi (vì sợ tôi không xứng đánh đứng sánh vai với Tổng thống?) Sự cố xảy ra vào quãng năm 1961.

Có lần tôi hỏi: làm thế nào mà Tổng thống thực hiện công cuộc bình định xuôi xẻ như vậy? Đáp: “ Ngưới Pháp dùng các tay chân còn trung thành với họ, nhất nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn và tướng Hinh, đã tìm hết cách phá hoại quốc gia. Đồng thời Hoa thịnh đốn cứ êm re. Đương lúc bối rối vì quân đội thiếu võ khí thì may thay, Vòng a Sáng phụ trách một kho đạn lớn của Pháp thiết lập ở miền Trung (Cụ nói rõ tên vị trí mà tôi quên mất) tự ý chở tiếp liệu về Sài gòn. Tôi ao ước hiểu biết: Vòng A Sáng là ai? Và lòng trung thành hữu hiệu của nhân vật ấy đã được báo đáp như thế nào? Nhưng thấy Thổng thống muốn chấm dứt cuộc hội đàm, tôi đã không dám hỏi.

Qua ngày 11 tháng 10, Pháp quân rời Việt Nam, và ông Hồ chí Minh lên ngồi ghế Chủ tịch Dân chủ Việt Nam Cộng hoà. Nhưng phải đợi cho tới ngày 24 tháng 10, tổng thống Eisenhower mới gửi một công văn cho Tổng thống Diệm hứa Mĩ sẽ giúp miền Nam, và để chứng minh ông sai tướng J. Lawton Collins làm đại sứ Mĩ ở Sài gòn. Bình phẩm về vụ này, Tổng thống Johnson về sau có lần nhìn nhận rằng: đây là lần đầu tiên Hoa kì bắt tay với chính phủ Ngô đình Diệm.

Vì thành tâm phục tài ông Diệm, tổng thống Mĩ đã mời Tổng thống đệ nhất Cộng hoà Việt Nam sang Mĩ ngày mùng 8 tháng 5 năm 1957. Nhân dịp này, ông tôn xưng Tổng thống Diệm là kì nhân của Á châu (the Miracle Man of Asia). Và T.t. Eisenhower đã ra tận phi trường Dulles đón ông Diệm, lại tổ chức một cuộc vinh danh quý khách (VIP) tại Manhattan. Ngày vinh danh đó, Tổng thống Việt Nam đứng trên một chiếc xe hơi mui trần, vẫy tay chào công chúng hai bên đường…Đoàn xe từ từ dạo qua các phố chính, đặc biệt là ở công trường Time Square (một khúc của Broadway), thì giấy confetti muôn màu bay xuống không dứt như một trận mưa hoa đào…

Dù vậy mặc lòng, Hoa kì chỉ phái nhân viên chuyên môn sang Việt Nam làm cố vấn, và chi tiêu rất ít cho ông Diệm. Sánh với gần 3 tỉ bạc người Việt từ Mĩ hiện nay gửi về Việt Nam hằng năm thì số tiền Hoa kì phải bỏ ra giúp đệ nhất VN Cộng hoà thực là không đáng kể. Tôi không nắm chắc được con số, nhưng dám quả quyết số tiền Ông Diệm nhận được từ Hoa kì không bao giờ lớn hơn 500 triệu mỗi năm. Thế mà Quốc trưởng đệ nhất Việt Nam cộng hoà được quốc tế kính nể, người dân trong nước được hạnh phúc an ninh, Cái Sắn, Hố nai từ hoang địa đã trở thành làng xóm trù mật. Chùa chiền và nhà thờ mọc lên như nấm…

Tiếc thay sang thời kì đảng Dân Chủ cầm quyền, không ai hiểu được vì lí do gì, Tổng Thống J. F. Kennedy muốn đưa đại quân Mĩ đổ sang Việt Nam.

Tổng thống Ngô đình Diệm can ngăn. Có lần ông nói với tôi: “Hiện nay Việt Nam chỉ cần Hoa kì viện trợ một số phi cơ oanh tạc và đầy đủ máy điện thoại lưu động có tầm gọi xa. Với ngần ấy, các ấp chiến lược sẽ liên lạc được với nhau mà bảo vệ hữu hiệu nền an ninh cho cả nước. Cần gì đại quân Mĩ phải kéo sang đây mà thêm đổ máu cho cả quân Mĩ cả nhân dân Việt từ Bắc vào Nam làm gì? “ Thế rồi vì quý trọng sinh mạng, vì yêu nước, ông quyết liệt từ chối đề nghị của Bạch cung. Ngày mùng 4 tháng chạp dương lịch năm 1960, Đại sứ Hoa kì Elbridge Durbrow, đánh điện về Hoa thịnh đốn: “It may be necessary to consider alternatives to Diem”.

Tin lọt tới Hà nội, Bắc kinh và Mạc tư khoa!!! Hoa kì thua trận Việt Nam từ ngày hôm ấy; ông Diệm nhận án tử hình cũng ngày hôm ấy: mùng 4 tháng chạp năm 1960!!!. Tuy nhiên ông còn cố gắng cầm cự thêm ba năm nữa, trong tình trạng càng ngày càng loạn lạc: vụ Phật giáo xuống đường; vụ xô xát giữa đám côn đồ mạo xưng là Phật tử với đám thanh niên Thiên Chúa giáo, vụ treo cờ ở Huế, vụ hoà thượng tự thiêu…Ngày 5 October đại sứ Cabot Lodge (thuộc đảng Cộng hoà, trình uỷ nhiệm thư ngày 21 tháng 8 năm 1963) báo cáo lên Tổng thống J.F. Kennedy (thuộc đảng Dân chủ): “The coup against Diem is imminent” . Tới ngày mùng 2 tháng một (November) 1963, “Kì nhân Á châu” đã bị Nguyễn văn Nhung bắn chết thầm lén trong một chiếc thiết giáp xa, sau khi ông đã tự ý đầu hàng. Than ôi! Nghĩ tới Saddam Hussein nhà độc tài Iraq ăn gian tiền Liên hiệp quốc bán dầu cứu đói, lại giết hại biết bao nhiêu công dân của ông, nhưng được tha mạng khi ông đầu hàng, mà ngậm ngùi thay cho Tổng thống Ngô đình Diệm kì nhân bạc mệnh.

Tôi mạn phép dừng bút nơi đây.
Trần Văn Kiệm, Lm.

27 thg 10, 2010

Bài Thơ Đôi Dép

Nguyễn Trung Kiên

Bài thơ đầu tiên anh viết tặng em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ


Hai chiếc dép kia gặp gỡ tự bao giờ
Có yêu đâu mà chẳng rời nửa bước
Cũng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống cát bụi cùng nhau

Cùng bước cùng mòn không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người chà đạp
Dẫu vinh nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc chiếc kia

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế sẽ trở thành khập khễnh
Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Cũng như mình trong những phút vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tư khắn khít bước song hành
Chẳng thề nguyền mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt có đôi

Không thiếu nhau trên những bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc có một bên phải trái
Nhưng anh yêu em bởi những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau bởi một bước đi chung

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia

Cuộc đời ta mãi mãi chẳng xa lìa
Mất một chiếc, chiếc kia vào sọt rác
Hay cố lê bên những gì phế thải
Sống âm thầm nơi xó góc tối đen

Rồi ngày kia buồn chán không ánh đèn
Chiếc còn lại cũng ra đi vĩnh viễn
Ngày ra đi không một người đưa tiễn
Nhưng vui lòng vì gặp lại chiếc kia

Một nơi xa hai chiếc chẳng chia lìa
Vì đã thoát khỏi cảnh đời ô trọc
Không hơn thua ghét ghen hay lừa lọc
Bước song hành một dạ đến ngàn thu ...

Xã hội dân sự, Xã hội công dân lừng lững bước tới


Xã hội dân sự, Xã hội công dân lừng lững bước tới

Bùi Tín viết riêng cho VOA
Xã hội dân sự, xã hội công dân là tương lai rất gần trên đất nước ta. Nó đang lớn dần từng ngày, từng ngày.

Xã hội dân sự, xã hội công dân là phép mầu nhiệm, là biện pháp thực tế nhất để cứu dân tộc ta ra khỏi bế tắc, trầm luân hiện tại.

Xã hội dân sự, xã hội công dân là xã hội cởi mở, năng động, vui tươi, đối lập hoàn toàn với xã hội độc đoán, nhàm chán, khép kín tệ hại hiện nay.

Xã hội dân sự, xã hội công dân là xã hội tự do thứ thật, dân chủ thứ thật, trái ngược với xã hội tự do bị thiến, dân chủ bị thui chột, tự do giả vờ, dân chủ giả vờ mấy chục năm nay.

Xã hội dân sự, xã hội công dân là đối tượng ngăn chặn, bóp ngẹt, thủ tiêu của nhà nước độc đảng, của nhà nước cảnh sát.

Nhưng tự do dân chủ là chìa khóa mở cửa cho phát triển, cho bình đẳng, cho công bằng, cho tình thương và hạnh phúc toàn xã hội nên nó bắt rễ từ trí tuệ, trái tim của triệu triệu con người, không có thế lực nào dù hung hãn đến đâu có thể dập tắt nổi.

Vào thời điểm này đây, xã hội dân sự nước ta đang đĩnh đạc, tự tin bước tới. Nó không cần kèn trống, cờ xí, pháo hoa, nó đi vào lòng mỗi người dân Việt yêu nước mình, thương dân mình, vẫy gọi nhau cùng tìm ra biện pháp và bước đi để dân ta là chủ vận mệnh nước ta, độc lập hoàn toàn, lãnh thổ toàn vẹn, không khiêu khích ai nhưng quyết không chịu khuất phục ai, không chịu mất một mảnh đất nào, vùng biển nào, hòn đảo nào cho ngoại bang.

Xã hội dân sự đang lớn mạnh, lên tiếng yêu cầu thế lực cầm quyền phải luôn lấy quyền lợi tối cao của đất nước, cuộc sống bình an tự do của toàn dân làm mục đích, chấm dứt tình hình cai trị bằng phe cánh, theo nhóm lợi ích riêng tư, đang tàn phá đất nước tận gốc, mà nhóm chuyên gia sắc sảo của Đại học Harvard Mỹ ở tại Hà Nội đã nhận diện, chỉ ra với tên gọi là Crony Economy – kinh tế cánh hẩu, kinh tế chia chác cho nhau.

Xin hãy duyệt binh đội quân xã hội dân sự khá là hùng hậu hiện nay, bao gồm nông dân, lao động thành thị, trí thức, văn nghệ sỹ, sinh viên, học sinh, đảng viên kỳ cựu, đảng viên trẻ ở cơ sở, đoàn viên cộng sản, du sinh, thành viên các tôn giáo …, tất cả những người Việt Nam còn có lòng tự trọng, còn có tư duy độc lập, không a dua, không xu thời, am hiểu những giá trị văn hóa truyền thống của Cha Ông, đồng thời tiếp thu những giá trị tinh hoa của Thời đại mới.

Nếu kể tên từng thành viên, có lẽ phải đến hàng triệu triệu, ghi trong một cuốn sách dày.

Xin điểm qua đội ngũ trùng điệp ấy, chưa cần nêu tên một ai, để có một khái niệm gần với sự thật. Thứ tự trước sau chỉ là tương đối.

Mấy hôm nay, nhóm bauxite lại đưa ra kiến nghị yêu cầu quốc hội khẩn cấp xem xét kỹ lại các dự án khai thác bauxite dưới ánh sáng của sự cố ở Hungary; số này trước đây đã lên đến hơn 4 ngàn. Lần này có thể sẽ vượt, và có thể vượt xa, vì sức thuyết phục sẽ cao hơn trước. Để xem Bộ Chính trị và phiên họp Quốc hội tới xử sự ra sao.

Binh chủng nổi bật trong cuộc diễu hành của lực lượng xã hội dân sự có thể là binh chủng các nhà luật sư và luật học. Từ cụ luật sư già dặn tuổi trên 80 mà tư duy tươi trẻ, từng là hội thẩm Tòa án tối cao vừa cho ra bài luận văn giá trị: «Sự thay đổi đã gõ cửa» đến luật sư tự nguyện cãi miễn phí cho 2 em Hằng và Thúy tại tòa án Vị Xuyên cho đến các em sinh viên luật ở Sài Gòn tập họp trong nhiều nhóm hội thảo với nhau về Hiến pháp, về quyền sở hữu đất đai, về nền tư pháp công minh…Đã có bao giờ ở nước ta một luật sư dựa vào hiến pháp và luật pháp hiện hành phát đơn kiện những người cầm đầu chính phủ về những tội làm sai hiến pháp và luật pháp, có hại cho dân, mà chính quyền không bác bỏ nổi.

Có cả một khối đảng viên tham gia hăng hái vào xã hội dân sự. Từ nhiều ông tướng 50, 60 năm tuổi đảng lên tiếng đòi công khai minh bạch vụ án siêu nghiêm trọng Tổng cục II, đòi chấm dứt cho nước ngoài thuê hàng vạn héc -ta đất rừng, cho đến những đảng viên trí thức văn nghệ sỹ công khai đàng hoàng, tự hào trả lại thẻ đảng viên, có đảng viên trí thức còn tuyên bố sẽ đốt thẻ đảng công khai trước đông đảo bạn bè nếu như đại hội XI không tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, một chủ nghĩa đã mang tai họa khủng khiếp ở Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu và ngay ở nước ta.

Trong hàng ngũ chiến sỹ gan góc đấu tranh cho sự hình thành của xã hội dân sự, cần nêu bật những sinh viên thanh niên đã nêu cao biểu ngữ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam ở ngay trước Lãnh sự quán và Sứ quán Trung Quốc để rồi bị công an bắt và ngồi tù, hay có cô gái tự ngồi tọa thiền trước dòng chữ «Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam» để nay vẫn còn ngồi trong tù một cách phi lý. Đó còn là hàng trăm chiến sỹ dân sự ở Sàigòn, Bình Dương, Huế, Hải Phòng, Hà Nội đi kẻ hàng ngàn lần 6 chữ: HS - TS - VN, còn giăng biểu ngữ lớn ngay trước tượng Lý Thái Tổ giữa thủ đô về hiểm họa bành trướng từ Bắc Triều…

Lại còn hàng vạn hàng chục vạn nông dân mất đất mất ruộng do bị các quan chức các cấp tước đoạt, trong đó có cả gia đình các bà mẹ anh hùng, gia đình liệt sỹ, gia đình quân nhân kêu trời không thấu, kêu oan hàng trăm lần không xong, đang bền bỉ đấu tranh cho một xã hội dân sự lấy pháp luật và lá phiếu bầu của công dân làm nền tảng.

Trong đội quân mở đường cho xã hội dân sự có một nhóm 20 vị trí thức – túi khôn của dân tộc trong thời đại mới - trong tổ chức IDS, bị cưỡng bách giải thể, lại càng quật khởi, giáo sư có, tiến sỹ có, nhà toán học – giáo dục học có, nhà kinh tế uyên bác có, nhà văn hóa chuyên về Tây nguyên có, nhà thơ kiêm nhà chính trị có, nam có, nữ có, lập luận đâu ra đấy, ăn đứt cái học viện chính trị quốc gia đông đảo, xô bồ, chuyên nói lấy được, cưỡng hiệp sự thật để ăn tiền.

Cuộc diễu hành xã hội dân sự nói trên xét về bề sâu thực chất có thể được khá đông quần chúng trong xã hội ta vỗ tay hoan nghênh, khuyến khích, tán thưởng hơn là cuộc diễu binh ở quảng trường Ba Đình vừa qua, những cuộc diễu hành, vui chơi chỉ để lại quang cảnh kẹt xe, bụi bặm đầy trời và đường xá ngập đầy rác rưởi, cỏ hoa tan nát tơi bời, phản ánh một xã hội buông thả, quan trí cai trị thấp hơn dân trí trung bình, để lại một vết nhơ kinh hoàng là bộ phim lớn nhất, đắt tiền nhất, gồm 19 tập, chuẩn bị 8 năm trời bị phản ứng của xã hội công dân, đang đi vào nằm trơ dưới bãi rác khổng lồ của lễ hội.

Có gì nức lòng hơn là trong khi xã hội công dân ở nước ta cứ lừng lững bước tới, tự tin, đông đảo, nhiều màu sắc, bất chấp đe dọa, dùi cui của cường quyền thì ở các nước dù chỉ còn cái vỏ cộng sản cũng đang bị xuống cấp, xuống giá thê thảm, nhường bước cho xã hội dân sự cũng đang lừng lững bước tới. Ở Bắc Triều Tiên, trò cười 3 đời hoàng đế cộng sản nối ngôi, với một đại tướng 4 sao 27 tuổi má còn búng ra sữa, với một nữ đại tướng cũng 4 sao chưa hề là lính, chưa một ngày là sỹ quan, chuẩn bị lên làm nữ Nhiếp chính một khi vua anh băng hà, trong tay có bom nguyên tử, làm cho đàn anh cộng sản láng giềng cũng ngần ngại, bối rối khó xử. Còn ở Cuba, chính lãnh tụ Fidel Castro cũng phải thú nhận mô hình nhà nước cộng sản không thọ nổi, ông em Raul Castro phải quay lại kinh tế thị trường, để cho kinh doanh tự do, và buộc phải thả hơn 50 tù chính trị một lúc, chính thức nhượng bộ cho xã hội dân sự cũng đang lừng lững bước tới không có sức nào cản nổi.

Còn ở Trung Quốc? Cái lô cốt cố thủ độc đảng có vẻ hùng hổ thì đang bị nhỡ tàu, những định lôi kéo, chia rẽ các nước Đông Nam Á thì lại bị gần như đơn dộc trơ thân cụ, đành phải xuống giọng nhũn như con chi chi, cam kết «không đe doạ ai», đến mức thủ tướng họ Ôn cũng phải công khai thú nhận là «dân chủ mới thật là động lực của phát triển ».

Vừa đe dọa ngăn cản chính phủ Na Uy tặng giải Nobel Hòa bình cho nhà ly khai Lưu Hiểu Ba thì lo sợ điều gì được ngay điều ấy. Tai họa ập đến thật khôn lường. Hiến chương 2008 của ông Lưu Hiểu Ba vừa được in lại, phổ biến ra 22 thứ tiếng khắp 5 châu, với nội dung đòi xây dựng gấp xã hội dân sự đa đảng thì ngày 13-10 xuất hiện một Bức thư ngỏ gửi Quốc hội Trung Hoa mang chữ ký của 23 công thần cũ, mới của đảng Cộng sản Trung Quốc, đòi tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do thông tin, mỗi công dân phải được tự do nhìn lại và đánh giá các sự kiện lịch sử của Trung Quốc, tư nhân phải được quyền ra báo, lục địa Trung Quốc phải được quyền tiếp nhận, trao đổi sách báo với Hồng Kông và Ma Cao, những thuộc địa thực dân cũ lại văn minh tiên tiến hơn lục địa.

Xã hội dân sự, xã hội công dân ở Việt Nam, Cuba, Trung Quốc đang không hẹn mà chung những bước đi tự tin, vững chãi, có bề sâu, đang cùng nhau vẫy gọi, cộng hưởng trên con đường tự do dân chủ và nhân quyền.

Xin tạm dừng cuộc duyệt binh hùng hậu và lý thú của xã hội công dân. Sẽ xin giới thiệu tiếp trong bài viết sau Bức thư ngỏ rất thú vị của 23 công thần cộng sản Trung Quốc đang nhập vào đội quân của Xã hội dân sự tràn đầy triển vọng trên quy mô toàn cầu.

26 thg 10, 2010

BÀI HỌC TỪ MỘT SỰ TUẨN TIẾT


BÀI HỌC TỪ MỘT SỰ TUẨN TIẾT

Lâm Lễ Trinh

LTS: Dưới đây là bài phát biểu được ghi âm của Luật sư Lâm Lễ Trinh, nguyên Bộ trưởng Nội Vụ và Đại sứ tại Trung Đông thời Đệ nhứt VNCH, hiện là chủ bút tạp chi Anh- Pháp Human Rights / Droits de l'Homme, trong buổi dạ tiệc tở chức ngày 2.11.2001 tại nhà hàng Seafood World, Westminster, Little Saigon, Californie, để kỷ niệm 100 năm của chí sĩ Ngô Đình Diệm (1901-2001).

Suốt 38 năm nay, mỗi khi ngày 1 tháng 11 trở lại, hình ảnh tuẫn tiết của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn khơi dậy trong tâm thức quần chúng những âm vang chua xót nhưng đồng thời, cũng nhắc nhở những kinh nghiệm bổ ích cho cuộc đấu tranh
tương lai.

Chiều nay, chúng ta, những người dân Việt lưu lạc ở hải ngoại, cùng ngồi với nhau để tưởng niệm vị nguyên thủ đã khai sinh nền Đệ nhứt Cọng hòạ Chúng ta sẽ không phí thời giờ để tố giác, một cách tiêu cực, những sai lầm của Hoa kỳ, hành vi bội phản của các người đội lốt quốc gia và sự phá hoại của Cộng sản. Thật vậy, cho đến giờ phút này, vô số văn khố giãi mật của chính quyền Mỹ, công trình nghiên cứu của các thức giả, những lời thú nhận của một số nhân chứng liên hệ và, đặc biệt, tình trạng khánh tận của xã hội chủ nghĩa đã và đang làm chuyện đó trước công luận quốc tế.

Lịch sử cận đại Việt Nam sẽ mãi ghi lại một điều sáng tỏ:

Quyết định của TT Diệm tiếp xúc vào giờ chót với quân đảo chính chứng minh ông muốn tìm một giải pháp dân tộc ôn hòa.

Sự hy sinh dũng cảm của Tổng thống Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã tránh cho miền Nam VN cảnh nồi da xáo thịt giữa người quốc gia và bảo toàn tiềm năng kháng cộng trong giai đoạn cực kỳ nguy kịch. Sự hy sinh ấy còn là một lời kêu gọi thống thiết gởi đến cho cấp chỉ huy Quân đội đừng vong bổn, vọng ngoại và chễnh mảng trong cuộc chống cộng cứu nước. Tiếc thay, lời kêu này không được lắng nghẹ Nhóm tạo phản bị ngoại bang mua chuộc. Với một giá rẽ mạt - 42 ngàn đô, theo lời thú nhận trong Hồi ký của tướng Trần Văn Đôn, một trong những người chu??u đảo chính - họ đã giết lãnh tụ và bán đứng tự do của ba chục triệu đồng bào miền Nam. Họ đã giúp Hoa kỳ thay toàn diện một thế cờ. Với 42 ngàn đô.

Trong những giờ phút cuối cùng cuộc đời, Tổng thống Diệm hoàn toàn cô đơn: đồng minh bội bạc, dân tộc hiểu lầm, người thân trở mặt và kẻ thù cộng sản reo mừng. Cầu nguyện lần chót sáng ngày 1.11.1963 tại thánh đường Cha Tam Chợlớn, với ông Nhu quỳ bên cạnh nhưng không chắc đồng một tâm tư, TT Diệm hẳn vô cùng xót xa cho Đất Nước. Rõ là một tâm trạng chán chường ngút trời , lẻ loi vô tận. Nỗi cô đơn ray rứt của một chiến sĩ cùng đường. Của một dân tộc bị chèn ép. Loại cô đơn từng được nhà đại văn hào Gabriel Garcia Marquez diễn tả sâu sắc trong tuyệt phẩm "One Hundred years of Solitude, Một trăm năm tịch liêu."

Hồ sơ giải mật của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ ghi lại như sau nội dung điện đàm lần chót giữa Diệm và Cabot Lodge:

Diệm: "Vài đơn vị đã nổi loạn và tôi muốn biết thái độ của Chính phủ Mỹ."

Lodge: " Tôi không có đủ tin tức để trả lời cho Ngài. Tôi có nghe súng nổ nhưng không biết rỏ tất cả các sự kiện. Bây giờ là 4:30 sáng tại Hoa Thịnh Đốn và Chính phủ Hoa kỳ không có quan điểm gì."

Diệm: "Tôi đã cố gắng làm bổn phận của tôi."

Lodge: "Như tôi đã thưa với Ngài sáng nay, Tôi khâm phục can đảm của Ngài và những đóng góp to lớn của Ngài cho quý quốc. Nếu tôi có thể làm gì được cho sự an toàn của bản thân Ngài, xin kêu tôi."

Tổng thống Diệm liền gát điện thoạị Ông giữ vững khí phách đến cùng. Dù có những sơ hở khó thể tránh trong lúc cầm quyền - lịch sử về sau sẽ phân tích công và tội - ông quyết không làm nhục quốc thể, J.F. Kennedy lẫn Hồ Chí Minh không dám coi thường. Trước sau như một, TT Diệm không nhân nhượng, không đầu hàng. Làm sao có thể ngẫng đầu cao nếu đi bằng đầu gối?

Di nghiệp chính trị của Tổng thống Diệm lưu cho hậu thế là một thông điệp nóng cháy: Triệt để bảo vệ chủ quyền và thể thống quốc gia trong mọi hoàn cảnh. Ngay từ đầu cuộc chiến, Hoa kỳ và VNCH quan niệm khác nhau mối liên hệ đồng minh giữa hai nước. Từ đó sinh ra những bất đồng dẫn đến bất hòa và kết thúc bằng sự bức tử của Miền Nam. Đúng vậy, quyền lợi của Mỹ và VN chênh lệch: Chính phủ Sàigòn chống Bắc Việt để bảo toàn dân chủ và độc lập, trong khi Hoa kỳ dùng VNCH như con cờ thí trong kế hoạch quân bình thế lực tại Á châu, chống Bắc kinh bành trường và gây chia rẻ giữa Nga – Tàu. Quốc hội Mỹ không bao giờ tuyên chiến công khai với Hànội, tránh né bảo đảm an ninh của VNCH bằng một hiệp ước như tại Nam Hàn, không cho Quân dội miền Nam vượt vỹ tuyến 17, khóa tay Hành pháp bằng đạo luật War Power Act và, cuối cùng, không bận tâm thông qua theo thủ tục hiến định Hiệp ước đình chiến Paris.

Sau tháng 11.1963, Mỹ đã dành hết trách nhiệm điều khiển cuộc chiến để đễ bề thao túng. Tùy theo nhu cầu chính sách, Hoa Thịnh Đốn đã ngạo mạn Mỹ hóa, sau đó Việt nam hoá chiến tranh để rồi, năm 1973, hối hả rút khỏi vũng lầy Việt Nam , một erra incognita, xa lạ với Mỹ về tâm lý và tập quán. Đại cường Hoa kỳ thiếu kiên nhẩn, đánh không muốn thắng, không thông hiểu chiến tranh nhân dân, đoán sai quyết tâm của Cộng sản và bỏ rơi Chính phủ miền Nam.

Âm mưu giết hại Tổng thống Diệm là một vết nhơ, một "mối ám ảnh đeo đuổi dai dẵng lương tâm nước Mỹ, quần chúng và nhà lãnh đạo xứ này, tạo ra hội chứng Việt Nam." ("Anne Blair trong tác phẩm Lodge in VN, nhà xuất bản Yale University Press, New Haven, 1995, trang 190)

Tại Hoa kỳ, có một câu thông dụng "Người quá cố không kể chuyện hoang đường, Dead men tell no tales.". Cái chết của Tổng thống Diệm, tự nó, đã lớn tiếng tố cáo, mang nặng ý nghĩa và dạy nhiều bài học. Về bạn và thù. Về nhân tình, thế thái. Về Điểm và Diện trong chiến lược trường kỳ.Và bao nhiêu chuyện khác. Ít nữa có hai bài học không thể quên:

Trước hết, một quốc gia không có thân hữu, chỉ có quyền lợị Không một xứ nào liều chết bảo vệ quyền sống còn của một nước khác. Không thể ủy quyền yêu nước cho ngoại bang. Các đại cường dùng chiêu bài Dân chủ, Tự do và Nhân quyền để mặc cả và gây áp lực. Không tự lực tranh thủ kiên trì ,quả cảm và có kế hoạch thì không hưởng được Dân chủ và nhân quyền thật sự.

Bài học thứ hai là bất luận sự liên minh nào với một thế lực bên ngoài, dù mạnh ra sao, rồi cũng sẽ đưa dất nước vào ngõ cụt, nếu không có nhân dân hậu thuẩn. Cái thế dân tộc vô địch và vô song. Không tin tưởng, không tạo ra và tận dụng "thế dân tộc" thì thất bại đương nhiên. Thất bại thê thảm. Chủ thuyết, chế độ, quyền lực..., tất cả đều là phù du, rốt cuộc sẽ tan biến với thời gian. Hư danh, mọi việc chỉ là hư danh! Chỉ có Dân tộc mới trường tồn và vĩnh cửụ Dân tộc bất diệt!

Cộng sản đã thiết lập ở Việt Nam một chế độ quản chế hành chính, khủng bố điển hình: khủng bố tôn giáo, khủng bố sắc tộc thiểu số, khủng bố đối lập và khủng bố quần chúng. Xã hội chù nghĩa, trên đà mạt vận, trước sau gì cũng chấm dứt. Vấn đề cốt yếu không phải là chừng nào CS ra đi mà là chúng ta đã và đang làm gì để xúc tiến việc ấy và, đặc biệt, để thay thế họ? Thay thế cách nàỏ bằng một thể chế khá hơn, sạch sẻ hơn hay không? Chính sự chia rẽ và thiếu quyết tâm của cánh quốc gia giúp cho Cộng sản tồn tại.

Để kết luận, thay vì lạc quan tếu hay bi quan thái quá, thiển nghĩ chúng ta nên bình tỉnh, khách quan nhận thức các biến chuyển trọng đại trong nước và bên ngoài, để hành động thích ứng. Thế giới hiện đang lâm vào một sự khủng hoảng vô tiền khoáng hậụ Hoa kỳ đang trực diện một thách thức mới, hiểm độc hơn chiến tranh Việt Nam, vì không có trận địa rỏ ràng, kẻ thù vô danh nhưng hiện diện khắp nơị

Căn nguyên của mọi vấn đề là siêu cường Hoa kỳ quá mạnh nên coi thường đồng minh, hành động đơn phương, tạo khoảng cách nghèo giàu quá sâu và gây bất mãn trong khối quốc gia nhược tiểu.

Thánh chiến có thể bùng nổ, gây điêu linh cho địa cầụ Với tinh thần quyết tử, võ khí thô sơ và chiến lược du kích tinh vi, dùng "gậy ông đập lưng ông" (còn được mệnh danh chiến lược boomerang), khối Hồi giáo cuồng tín đe dọa người Mỹ ngay trên đất Mỹ. Võ lực suông không đem lại bòa bình. Không thể dùng búa tạ để đập ruồi muỗị Mỹ cần tái xét toàn bộ, trong đường hướng thực tế và từ tốn, chính sách đối ngoại, quân sự và viện trơ.. Mỹ cần chứng minh với thế giới quốc gia này là một quốc gia biết thương xót, a compassionate country, như Tổng thống Bush đã hứa khi ra ứng cử. Nếp sống quần chúng không bao giờ trở lại như trước. Hoa kỳ, thức tỉnh, sẽ hồi sinh.

Cuộc chiến hiện nay được các chiến thuật gia mệnh danh "cuộc chiến không đối xứng, assymetric war",vào dễ, ra khó, như một mê hồn trận.. Lần đầu tiên, một siêu cường dồn hết sức mạnh để tiêu diệt một cá nhân, Ben Laden, vô quốc tịch, và hệ thống khủng bố của y, thay vì chống lại một nước. Bằng mọi giá, thế giới tự do phải thắng. Để cứu nền văn minh nhân loại và lý tưởng dân chủ. Không có sự chọn lựa nào khác. Tổng thống George W. Bush nói chí lý: " Tự do và sợ hãi đang tử chiến. Thượng đế không trung lập giữa hai bên."

Cơn lốc toàn cầu sẽ cuốn hút nước Việt Nam hậu tiến để lập một thế quân bình mớị Cuộc diện Việt Nam, bởi vậy, có cơ thay đổi. Sớm hơn chúng ta dự đoán.

Cầu xin hồn thiêng các tiền nhân và chí sĩ Ngô Đình Diệm trợ sức cho các lực lượng quốc gia khai thác vận hội mớI để giật sâp Xã hội chủ nghĩa. Lần này, không thể và không có quyền thất bạị Vì nếu thất bại thì đó sẽ là sự thất bại chung của Đất Nước Việt Nam, của tất cả chúng ta là người dân Việt, bất luận thuộc phía nào.
Xin cám ơn sự chú ý của quý vị.

24 thg 10, 2010

Mờ ảo thời thơ dại


Lê văn Thiện

Mới đây, trong đám tang ở nhà một người quen tôi gặp lại anh Huy. Tuy biết anh đi tu đã lâu, non bốn mươi năm nhưng tôi vẫn sửng sốt. ông sư già, hom hem, mặc chiếc áo vàng lụng thụng bạc màu, mang kính cận, không còn giống chút nào với anh Công Huy năm xưa từng học chung hai năm với tôi ở Nha Trang. Thời gian biến đổi mọi thứ trên đời, biết vậy, nhưng sự đổi thay này to lớn, khốc liệt trên mức tưởng tượng hình dung của tôi quá xa.

Hè năm 1960 tôi từ biệt trường tiểu học tư thục ở huyện Vạn Ninh vào thành phố Nha Trang học trường Võ Tánh, trường trung học lớn nhất tỉnh, sau một cuộc thi tuyển. Được học tại Võ Tánh là niềm hãnh diện của lớp trẻ thời đó.
Tôi với Huy mướn chung một phòng trọ nhỏ của một người đạp xích lô nằm trong con hẻm đường Núi Một. Đường này ở giữa phố nhưng nhiều người không biết, bởi nó hẹp và ngắn. Nó là một trong sáu ngã, tạo ra ngã sáu, kế đường Phước Hải ( nay gọi Nguyễn Trãi), gần nhà thờ lớn. Thật thú vị khi khám phá ra cái "hang động" này. Từ đây tới trường rất gần, đến chợ Xóm Mới còn gần hơn nữa!... Anh Huy là thổ công, hướng dẫn chỉ vẽ cho tôi mọi việc. Hồi ấy chúng tôi đi học muộn, mới vào đệ thất tôi đã mười ba tuổi. Anh Huy đệ ngũ, trên tôi hai lớp, lớn hơn tôi ba tuổi, cao to như anh chàng lớp mười một bây giờ... Tôi nể phục Huy, anh giỏi, năng nổ, khéo tay, cái gì cũng biết. Anh phân công mỗi đứa đi chợ một ngày nấu ăn một ngày, kiểu tréo trả, nghĩa là nếu anh đi chợ thì tôi nấu cơm, và ngược lại. Huy có cuốn sổ tay "lịch sinh hoạt" của hai đứa, ghi rõ tiền nhà, tiền ăn, cùng các khoản lặt vặt. Trong mọi chuyện tôi đều phải chiều theo ý muốn của Huy. Anh nói: "Ta vô đây học là chính, mọi thứ khác đều phụ; ăn để sống, chớ coi trọng nó". Cho nên trong số tiền góp vào mua cá, tuần nào anh cũng trích bớt ra một phần ba để hai đứa đi xinê và ăn phở ăn chè! Huy ghiền không khí trong các rạp chiếu bóng, thích ăn quà vặt! Do tiền chợ ít ỏi nên bữa ăn của chúng tôi nghèo nàn, thảm hại, quanh quẩn các món canh bầu cá cơm, rau muống luộc chấm mắm nêm, cá hố dải kho mặn, mới thấy đã sợ chưa ăn đã ớn!

Được gia nhập vào tập thể mình thèm muốn, mơ ước, tôi vui sướng không kể xiết, thấy trong người lúc nào cũng lâng lâng, phiêu diêu. Nghĩ lại, tôi thương ngôi trường tiểu học cũ nhà cửa thấp bé, rêu mốc, với đám học trò ăn mặc luộm thuộm, đủ màu sắc, hơn phân nửa đi chân đất. Trường Võ Tánh nhà lầu, đồ sộ, phòng học bóng loáng, khang trang, sân chơi rộng; học sinh đông, mặc đồng phục, "tém thùng" chững chạc......
Hơn bốn trăm người mới đậu vào được phiên chế thành chín lớp, tôi ở lớp đệ thất 9, lớp duy nhất chọn ngoại ngữ tiếng Anh, các lớp kia đều học tiếng Pháp. Dưới mắt tôi mọi thứ của Võ Tánh đều rực rỡ, hiện đại. Chuông điện báo giờ chiếm chỗ cái trống chầu. Những chiếc loa trong các phòng học thay ông văn thư vẫn thường đứng trước cửa lớp xướng oang oang mệnh lệnh của Ban giám hiệu. Đội ngũ thầy cô giáo đông đảo, phần lớn còn trẻ, dáng vẻ sang trọng, lịch lãm. Nhiều người đi dạy bằng xe hơi. Nhiều vị nổi tiếng, là tác giả sách giáo khoa, như thầy Lê Nguyên Diệm, thầy Bùi Trọng Bạch...... Các thầy khác - tất cả được gọi là giáo sư - mỗi người một vẻ, ai cũng có những điểm độc đáo, những thói quen tật lạ đáng yêu. Thầy Nhơn dạy văn giảng bài lôi cuốn, đằng hắng luôn miệng. Thầy Đào dạy tiếng Anh đi Vespa, dáng người bệ vệ. Thầy Điểm dạy vẽ vui tính, xuề xòa. Cô Anh hoa khôi, viết đẹp nói chậm, ăn mặc đỏm dáng. Thầy Thầm dạy nhạc hiền lành bác ái, không bao giờ cho ai dưới mười điểm. Thầy Bá dạy toán mặt thường đăm chiêu, chẳng mấy khi cười. Cô Tuất cười lớn đi mau, vạm vỡ, hệt như đô vật... Học lâu năm ở trường huyện, quen với những thứ nho nhỏ, cũ xưa, nay chú bé quê mở to mắt chiêm ngưỡng hình ảnh văn minh đô thị sáng trưng; đón mừng, cảm phục thầy cô mới, những người sẽ hướng dẫn mình bước vào những con đường rộng.
Khi tôi "an cư" với trường, lớp mới được chừng ba tháng, một bữa anh Huy hỏi:
- So với trường Tiểu học, mày thấy ở đây có gì khác?
Tôi đáp:
- Có nhiều.
Huy cười:
- Phải, rất nhiều... Điểm rõ nhất là tình thân, sự giao tiếp. Phố phường giàu đẹp, xe cộ xênh xang, người đông, nhưng cái gì cũng lợt, rời, loãng; bạn cùng lớp ít mặn mà, tình thầy trò phơn phớt! Nhiều thầy quá... Hóa ra, chẳng phải bao giờ nhiều cũng tốt! Thấy tôi tấm tắc khen Nha Trang, Huy nói:
- Nên nhìn kỹ sự vật để phân biệt cao thấp, sáng tối. Theo mày, dân thành thị đặc biệt điểm nào?
Tôi lắc đầu. Anh bực:
- Thứ quái gì mày cũng không biết! Hãy nhìn thì sẽ thấy, Chúa nói thế! Đường hẹp, lầu cao nên khó dòm thấy xa. Nhà nhỏ, người đông, chật chội, sống chen chúc nên người ta quen với cái phạm vi vừa và nhỏ, dễ trở nên tầm thường, an phận, ít dám nghĩ tới những điều to tát... Phần đông là thế. Nói mày nghe chơi, chớ rao lung tung thiên hạ chửi!
Nhưng cũng có lúc Huy khen tôi:
- Mày có một điểm tốt, chưa chắc mày biết.
- Nói nghe.
- Học tiếng Anh. Thứ tiếng đó tương lai sẽ thông dụng.
- Sao anh không học?
- Cha tao cấm. ông cụ ghét loại người đón gió... Cụ quá khích, độc đoán. Cụ nói: chẳng thấy bản hiến pháp nào ghi phải bỏ tù bọn hèn hạ, nịnh bợ, đón gió, cơ hội. Bất cứ thời điểm nào, ở đâu, bọn đó cũng làm hại, bôi bẩn xã hội... Nghe khá hung hăng, phải không?
Dạo đó Nha Trang có hai quán phở nổi tiếng: Hợp Lợi và Hai Chùa. Hợp Lợi giá đắt, sang hơn. Chúng tôi thường ăn quán không tên ở đường Hai Chùa (nay là Lê Thành Phương). Nơi này đông khách, phở rẻ mà ngon. Có lần Huy hỏi tôi:
- ăn đây mày thấy có gì nổi bật?
Tôi không biết. Anh bảo:
- Có ba điểm: Một, quán ngon mà chủ không phải người Tàu. Hai, khách phụ nữ ít, đàn ông chiếm hơn chín mươi phần trăm. Ba, sàn nhà đầy giấy bẩn và nhiều bãi đờm
Anh nói đúng. Và anh thêm:
- Nên chịu khó quan sát, mọi nơi mọi vật, rồi tập nhận xét, phán đoán phân tích, sẽ có lợi, trước tiên là ta thu được nhiều "nguyên liệu" để làm văn... Nhiều người bảo giói toán không giỏi văn, nhưng mày thấy đấy, toán tao mười bảy mười tám thì văn cũng mười ba mười bốn điểm.
Điều này anh lại đúng, anh là học sinh giỏi.
Trong hai năm sống chung Huy truyền cho tôi "hai món ghiền": phim ảnh và sách. Dù tiền bạc lúc nào cũng túng thiếu nhưng chúng tôi thu vén để mỗi tuần ít ra cũng vào rạp được một lần. Thời kỳ đó điện ảnh thế giới sản xuất nhiều phim hay. Cho tới nay tôi vẫn nhớ như in phim "Ben Hur" chiếu ở rạp Tân Quang, "Ngày dài nhất" tại rạp Minh Châu, "Cầu trên sông Kwai" ở rạp Tân Tân; là các phim thuộc hàng tuyệt tác, đoạt nhiều giải Oscar. Nhưng cũng có mấy rạp chúng tôi chưa hề bước vào, là rạp Tân Tiến chuyên chiếu phim Ấn Độ, và rạp Thanh Xương trụ sở của các đoàn hát bội... Sau phim đến sách, "tật đậm" thứ nhì của Huy. Trong một ngôi nhà đầu hẻm 22 đường Núi Một có phòng cho thuê sách. Huy đọc hết số sách nơi đó, chẳng chừa cuốn nào. Anh đọc đủ mọi thể loại, nhưng mê nhất là tiểu thuyết. Trong cặp của anh lúc nào cũng có một cuốn truyện. Ban đêm, học bài xong, anh đọc. Ngày đi học, gặp buổi có giờ nghỉ đột xuất, anh xuống biển, chui vào gốc dương ngồi đọc. Anh "thanh toán" toàn bộ tác phẩm của Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh, Vũ Trọng Phụng, Tự Lực Văn Đoàn, cùng nhiều nhà văn khác, và hàng trăm cuốn truyện dịch của các tác giả nước ngoài. Anh thường nói:
- Nếu gặp ông thần đèn, tao sẽ ước một điều, xin ban cho tao nhiều tiền, đủ để lập một thư viện lớn. Tao sẽ mua về vài triệu cuốn sách, mở cửa cho mọi người vào đọc tự do, chẳng cần thẻ thiếc gì ráo. Riêng sinh viên học sinh nếu đọc nhiều còn được phát tiền bồi dưỡng, và tặng giấy khen!
Nha Trang gắn liền với biển. Nói đến Nha Trang không thể không nhắc tới biển... Chúng tôi có cách thưởng thức vẻ đẹp biển theo kiểu riêng. Vào những đêm trăng tỏ chúng tôi xuống biển hóng mát. Thường thì hai đứa đi xe đạp, mang theo chai nước lọc và chiếc chiếu nhỏ. Biển đêm thưa khách. Trên bãi cát, quanh chúng tôi, có khoảng vài chục người. Họ ngồi thành nhóm, cách xa nhau, nhiều nhóm hai người, chắc là những đôi nhân tình. Yên tĩnh. Không nghe ai nói lớn, ngay trẻ con cũng cười đùa vừa phải. Gió dịu. Tiếng sóng rì rào êm êm. Huy chỉ ra khơi hỏi:
- Mày thấy gì ngoài kia?
- Biển, núi mờ mờ.
- Gì nữa?
- Đèn thuyền đánh cá.
- Đúng, mấy thứ đó... Trước kia ông cha ta cũng đã thấy chúng.
Rồi anh chỉ lên trời:
- Nhìn kìa, thấy gì?
- Trăng, mây.
- Gì nữa?
- Sao.
- ờ, các món đó, quen cả!... Mai này, trăm năm, ngàn năm nữa, khi tới nằm đây nhìn lên trời người sau cũng sẽ nhìn thấy những "ông bạn" đó.
Chúng tôi nằm, ngủ lơ mơ, hoặc nói lan man những chuyện vớ vẩn không đầu không cuối. Những người bán hàng rong qua lại, rao nhỏ. Hột vịt lộn. Đậu phộng luộc. Thuốc lá. Mía. Đậu Hũ. Kẹo kéo. Chè đậu váng. Nghề sinh nhai âm thầm... Huy kể tôi nghe chuyện "bí mật" về các cô gái bán hàng dạo. Hai đồng một quả hột vịt lộn. Nhưng cũng có lúc giá đó tăng đến hai chục, ba chục đồng! Tùy lúc, tùy nơi. Người ta hiểu ngầm với nhau. Một khi có ý nọ kia, người mua hỏi: "Ngoài trứng hai đồng còn trứng nào khác không, em gái?". Người bán sẽ cười, sẽ hứ háy, hoặc im lặng. "Có trứng hai chục đồng không?". Nếu cảm thấy thuận lợi, khách sẽ hỏi thẳng như vậy. Khi đã thỏa thuận, cô vịt lộn và người bạn mới sẽ lên đường nhựa, hay men theo mé biển đi về hướng đám dương tối om đằng xa (quãng đường Minh Khai, Biệt Thự hiện nay). Một đêm, thấy một nàng hột vịt lộn dẫn "bạn trai" vào vườn dương, Huy hỏi tôi:
- Nhìn cặp kia, mày nghĩ sao?
Suy nghĩ vài phút, tôi đáp:
- Kỳ cục... Có một chút gì lãng đãng, một chút bùi ngùi.
- Còn tao, lúc đầu tao thấy nó vừa buồn cười, vừa xót xa. Về sau tao lại nghĩ, đó là hình ảnh minh họa cho những điều người ta viết trong sách, một minh họa sậm màu... Nó cũng là sự hỗn mang của trần thế, sự phi lý của kiếp người...
Ngủ tới một, hai giờ sáng, lúc sương xuống lành lạnh, chúng tôi thức dậy, đi về.
Mấy năm sau, do gia cảnh bẩn chật, tôi nghỉ học sớm. Anh Huy học tiếp, thi đậu Tú tài, rồi vào trường Sư phạm. Kế đến, trong lúc tôi đinh ninh chắc anh đã tốt nghiệp, đi dạy, thì anh lại khoác áo thầy tu trong một ngôi chùa ở Vũng Tàu...
Quay về hiện tại, hôm tôi gặp lại Huy. Suốt buổi tối dõi theo anh ở giữa tốp tu sĩ đông đúc, đi đứng chậm rãi, nét mặt nghiêm trang kín bưng. Tôi tự hỏi, anh thông minh, có mắt quan sát tinh bén, hiểu đời thấu đáo, vậy anh nhìn thấy gì ở cuộc sống mà anh đi tu? Có phải anh nghĩ rằng tu có thể làm cho con người thoát khỏi lớp vỏ hèn mọn nhỏ nhoi, là một trong các điều to tát, như ngày xưa anh nói?... Cuối buổi lễ tang tôi tới ngồi uống trà cùng bàn với Huy. Anh không nhận ra tôi. Cũng phải, đã quá lâu. Ngày ấy tôi còn là chú nhóc, nay đã ngoài năm mươi. Có lúc tôi định chào Huy, nhắc lại chuyện cũ. Nhưng rồi nghĩ, giữa một nơi huyên náo, quay mòng như thế này chẳng thể nào chuyện trò, tâm sự gì được, nên thôi.

Và, làm theo mọi người, tôi nói với Huy vài câu xã giao phải phép, cung kính gọi anh bằng "thầy".

Lê Văn Thiện

23 thg 10, 2010

Nhớ Café Bà Vú ở Đại Học Vạn Hạnh

Trần Trung Đạo

Cuốn vở xích-lô dày đúng 100 trang
Ghi ngang dọc mấy trăm tên con nợ
Có con nợ đã bỏ đi
Có con nợ còn ở lại
Có con nợ vừa trả xong
Có con nợ… cười trừ

Cuốn Sổ Đọan Trường trông cũng dễ thương
Nhưng có khối kẻ chưa nhìn đã sợ
Thầm ước: “Tối nay trời mưa trôi dùm ông con số nợ
để sáng mai ông hiên ngang làm lại cuộc đời.”

Những chiếc ghế thấp, bàn vuông, chen lấn nhau ngồi
Trung bình một tách Café, 4 bình trà nóng
Vú vẫn vui như người mẹ hiền kiên nhẫn
Gắng gượng nhìn đàn con (nợ) kí sổ mỗi ngày.

Những con nợ nghèo nhưng thích sống trên mây
Nợ Vú trả chưa xong đã bàn nợ nước
Chưa ra khỏi nhà đã tả cảnh núi rừng xuôi ngược
Vá túi chưa xong nhưng toan tính chuyện vá trời.

Tương lai cụt dần như con hẻm 220
Quá khứ đen như con kinh Nhiêu Lộc bốc mùi hôi quanh năm suốt tháng
Chiều mưa lớn nước ngập chân cầu Trương Minh Giảng
Hai tấm ny-lông không đủ che quán Vú nghèo nàn.

Những đứa con (nợ) của Vú ngày nào
Lần lượt đi xa
Đứa xuống phố làm quan
Đứa lên rừng làm giặc
Đứa làm báo, làm văn, làm nhạc, làm thơ, làm tiền, làm luật
Đứa thích đấu tranh nên được làm tù
Buồn cuộc đời cũng có đứa đi tu.

Đôi lúc tình cờ như những chiếc lá thu
Dăm con (nợ) trở về thăm
Ngõ hẻm còn đây
Quán Café đã vắng
Nước vẫn chảy qua cầu Trương Minh Giảng
Mà Vú già xưa như mây trắng phương nào.

Những con nợ nghèo giờ biết ra sao
Có còn nhớ một thời áo cơm lận đận
Nhớ Thiền Viện, Thư Viện, Giảng Đường, người yêu, bè bạn
Nhớ người đi và nhớ kẻ không về
Tiếng nhạc buồn, ai hát để ai nghe?

Cuốn vở xích-lô dày đúng 100 trang
Cho con trả Vú hết cả lời lẫn vốn
Vú mỉm cười: “Nơi Vú ở không bạc tiền vẫn sống”
Nén hương lòng, con xin trả Vú bằng thơ.

Trần Trung Đạo

22 thg 10, 2010

Bí ẩn 30.4.1975

Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy & Linh Mục Cao Văn Luận:
Bí ẩn 30.4.1975.


Phạm Trần Hoàng Việt

1) Mở đầu

Đối với đa số người Việt đã từng sống trải qua, ngày 30.04.1975 là một biến cố đau thương nhứt của một đời người. Cố Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy – một bình luận gia am tường mọi biến chuyển quốc tế, từng nổi tiếng với những bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” đăng tải trên nhiều tờ báo tại Âu Mỹ – đã đề cập công khai trực tiếp hoặc kín đáo gián tiếp trả lời những câu hỏi về biến cố lịch sử đặc biệt nêu trên.

Từ hồi còn là sinh viên, chúng tôi được tiếp xúc với Giáo sư Huy và đã may mắn có nhiều dịp hàn huyên đối thoại ghi nhận được những chi tiết rất đặc biệt. Sau khi Giáo sư Huy qua đời vào ngày 28.07.1990, chúng tôi đã đảm trách nối tiếp Giáo sư Huy hàng tháng viết bài nhận định thời cuộc “Tình hình thế giới trong tháng vừa qua” kéo dài trên 5 năm trên nguyệt san Tự Do Dân Bản tại Hoa Kỳ. Nhân dịp đó, chúng tôi đã phải nghiên cứu các sáng tác của cố Giáo sư để nắm vững thêm mọi vấn đề. Nhờ vậy, chúng tôi mới cảm nhận và thấy được tầm kiến thức rất uyên bác, rất đa diện của Giáo sư Huy mà hiếm ai cùng thời có được (xin xem thêm phần phụ lục phía dưới về tiểu sử). Nổi bật nhứt là những viễn kiến và phân tích độc đáo về các biến cố lịch sử trên thế giới.

2) Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Câu hỏi lịch sử này cũng đã được bàn cãi sôi nổi từ 35 năm qua và chưa đi đến một kết luận nào hữu lý để được mọi khuynh hướng chấp thuận. Điển hình nhứt là ngay trong dịp Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 vừa qua quy tụ gần 200 nhân vật với thành phần nổi tiếng như cựu Đại sứ Bùi Diễm, cựu Đại tá không quân Hoa Kỳ Tiến sĩ Stephen Randolph, Trung tá biệt cách dù Nguyễn Văn Lân, Thứ trưởng John Negroponte, Sử gia Dale Andrade, Tiến sĩ John Carland, Cựu Bộ trưởng Hoàng Đức Nhã, Đại tá Trần Minh Công, Đại tá Hoàng Ngọc Lung… cũng không đưa ra được câu trả lời thỏa mãn cho sự thắc mắc: Ai đã gây ra thảm họa 30.04.1975?

Nhìn trở lại, người ta có thể thấy rõ ràng trong thời gian đầu ngay sau 30.04.1975, phần lớn các khuynh hướng, từ chính trị đến tôn giáo, đều tìm cách đổ trách nhiệm lẫn cho nhau về tội đã làm mất miền Nam. Chỉ có Giáo sư Huy là sớm thấy rõ nguyên nhân chính nào đã khiến xảy ra thảm họa 30.04.1975. Trong dịp tái ngộ cùng Giáo sư Huy vào năm 1982, chúng tôi có hỏi đến vấn đề nhức nhối này và được Giáo sư Huy trả lời cho biết nguyên nhân chính là Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam!) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH. Tuy nhiên thảm họa 30.04.1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9.8.1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế.

Về thế lực nào ở Hoa Kỳ đứng sau kế hoạch bỏ rơi miền Nam, Giáo sư Huy cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt. Đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái.

- Trong dòng lịch sử, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ Tổng Thống.

- Bên cạnh đó Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ. Họ gài được nhiều nhân sự vào bên hành pháp cũng như lập pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như ngoại giao, quốc phòng và tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng. Vì vậy, thế lực của Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái.

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố Vấn An Ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng (“đi đêm”!) với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt. Như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái.

Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng Đồng Người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow… với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm cơ quan tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới ( – World Jewish Congress – từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái ) . Ngoài ra, Giáo sư Huy còn chỉ dẩn cho chúng tôi nhận biết được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright.

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908 – 1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam.Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ!), nhứt là hòa đàm Paris (mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn!).

Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực Do Thái thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua Kissinger.

3) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam?

a) Thế lực Do Thái tại Hoa Kỳ

Đối với chúng tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên khi được Giáo sư Huy vào năm 1982 cho biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ. Sau này sinh hoạt lâu năm tại Hoa Kỳ và qua nghiên cứu, chúng tôi công nhận thấy Giáo sư Huy hoàn toàn đúng.

Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Irish_Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan)

Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_politicians#List). Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Do Thái tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:

- trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh!).

- trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton…

- trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford.

- trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton.

- trong CIA có Tổng giám đốc John M. Deutch dưới thời TT Reagan.

- trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.

Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh…

Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trong nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford… (xem website: http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Jewish_American_entertainers). Họ biết rõ rằng nắm được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho nguời Do Thái. Họ còn điều khiển một phần lớn các viện nghiên cứu chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai cho chánh phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của người Do Thái.

Ngoài ra tại các cường quốc Âu Châu, thế lực Do Thái có ảnh hưởng tuy âm thầm nhưng cũng mạnh mẽ lắm . Điển hình nhứt là Tổng Thống Sarkozy ( Pháp ) & Thủ Tướng Đức Schmidt ( Đức ) đều gốc Do Thái nên không bao giờ lên tiếng thực sự chống lại những vi phạm cam kết của Do Thái tại Trung Đông . Chính vì vậy đa số thành viên Liên Hiệp Quốc đã cho rằng thế lực Do Thái có ảnh hưởng quá lớn đến chính sách và biểu quyết về Trung Đông của các cường quốc Âu Mỹ .

b) Tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam?

Muốn biết rõ, chúng ta phải tìm hiểu lịch sử mất nước và dựng lại nước của người Do Thái. Vào năm 135 dân tộc Do Thái chính thức bị mất nước và phải lưu vong khắp nơi vì đế quốc La Mã. Thảm họa mất nước đó thường được dư luận Thiên Chúa Giáo cho là sự trừng phạt dân Do Thái đã đóng đinh giết Chúa Jesus và kẻ phản bội Judas chính là một người Do Thái. Chính vì chuyện này đã làm cho dân Do Thái bị kỳ thị trên bước đường lưu vong. Nhưng cũng chính vì có niềm tin mãnh liệt vào Do Thái Giáo, họ đã đoàn kết nhau lại dưới sự lãnh đạo của học giả Theodor Herzl trong đại hội thế giới đầu tiên tại Basel (Thụy sĩ) vào năm 1897. Từ đó, từng đợt một họ lén lút trở về quê hương Palestine. Thế Chiến thứ 2 và với sự yểm trợ tích cực của Hoa Kỳ đã tạo cơ hội ngàn năm một thuở để họ dựng lại đất nước vào ngày 14.5.1948 sau gần 2,000 năm lưu vong. Chỉ 11 phút sau đó Tổng Thống Hoa Kỳ đã lên tiếng công nhân quốc gia mới này, bất chấp mọi chống đối của thế giới Ả Rập và đã yểm trợ hữu hiệu cho Do Thái chống lại cuộc tấn công ngay sau đó của các quốc gia Ả Rập láng giềng và trong các cuộc chiến xảy ra sau này.

Như vậy, Do Thái còn tồn tại đến ngày nay là nhờ Hoa Kỳ làm “lá bùa hộ mạng”. Nhiều nghị quyết tại Liên Hiệp Quốc kết án Do Thái vi phạm cam kết tại Trung Đông chỉ vì duy nhứt Hoa Kỳ dùng quyền phủ quyết (veto) nên đành phải bỏ đi. Trong quá khứ, Hoa Kỳ từng giải kết (phản bội!) bỏ rơi đồng minh như Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Đài Loan… , nhưng luôn luôn “sống chết” hết lòng với Do Thái, mặc dù quốc gia nhỏ bé này không mang lại lợi ích gì về tài nguyên hoặc vị trí chiến lược cho Hoa Kỳ, mà trái lại chính vì Do Thái, Hoa Kỳ còn gây rất nhiều hiềm khích (mang họa vào thân!) với thế giới Hồi Giáo dân số rất đông đảo (1,3 tỷ) và rất quan trọng về năng lượng dầu hỏa . Tất cả cho thấy rõ ràng vì thế lực Do Thái nắm giữ được các bộ phận huyết mạch tại Mỹ nên chính sách của Hoa Kỳ phải luôn luôn không được đi trái ngược lại với quyền lợi của quốc gia Do Thái.

Từ đó, chúng ta mới hiểu rõ tại sao thế lực Do Thái muốn Hoa Kỳ phủi tay bỏ miền Nam Việt Nam. Đó là vì họ sợ Hoa Kỳ sa lầy và sự tốn kém khổng lồ tại chiến trường Việt Nam có thể đưa tới hậu quả Hoa Kỳ không còn khả năng giúp đỡ một cách hiệu lực nước Do Thái tồn tại như trong quá khứ Hoa Kỳ đã từng làm. Cho nên họ chủ trương Hoa Kỳ phải giải kết bỏ rơi miền Nam để trở về chuyên tâm lo cho Do Thái. Để thực hiện mục tiêu này họ đã có kế hoạch rõ ràng từng bước một.

c) Kế hoạch Do Thái thúc đẩy Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam.

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891 – 1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Do Thái muốn ngăn chận không cho Hoa Kỳ can thiệp với nhiều tốn kém ở Viễn Đông. Sự nhượng bộ rút lui này đã khiến lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975.

Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas!) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình. Thế lực Do Thái lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng.

Đó là lúc cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ… bắt đầu gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ. Những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi ( thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! ) của chiến tranh được hệ thống truyền thông Hoa Kỳ -đa số gốc Do Thái quản trị- khai thác triệt để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác .

Tướng độc nhởn Moshe Dayan -Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái- đột ngột tự qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến “hành quân” chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được ( rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày , mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy ! ) . Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson. Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần “khai tử” miền Nam!

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải quyết định không ra tái ứng cử. Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử. Vì vậy thế lực Do Thái đã gài được Kissinger từ năm 1957 làm cố vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống. Thấy vậy, Kissinger bèn trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh.

Thế lực Do Thái còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925 – 1999)… Với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu cho Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam.

Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng.

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam.

Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau:

“Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất”.Tương tự , Kissinger đã trấn an T.T Nixon là:

“ Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì …chẳng ai cần đếch gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng ”.

Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù của Kissinger và thế lực Do Thái.

Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ có Kissinger thuyết phục được Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận.

4) Kết luận

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Do Thái nhìn rất xa và rất có lý với nỗi lo sợ Hoa Kỳ vì bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam.

Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi , bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái ( Anti-Semitism ) . Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị xí gạt.

Điển hình , về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả ( thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo “Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại” (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam ( chịu thua ! ) vì đang câu con cá to hơn ( “has bigger fish to fry” ) . Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kssinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .

Về phía Cộng Sản Bắc Việt , ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh ” nướng quân” hàng loạt trên chiến trường ( theo nhận xét của Tướng Westmoreland ! ) , họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng ” Đồng Minh tháo chạy ” ( từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Đức !) bỏ rơi VNCH . Thực tế , nếu không có sự phản bội của thế lực Do Thái qua sự nắm quyền của ê kíp Kissinger thì chưa chắc gì Cộng Sản Bắc Việt sớm thắng trận . Như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ ( đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! ) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30.4.1975.

Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái ( một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh ” Về miền đất hứa / Exodus ” của tác giả Leon Uris ) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó , Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm ” Bài học Israel ( Do Thái ) ” . Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc , nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề. Đó cũng là tâm trạng của chúng tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30.4.1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng.

Chúng tôi tin rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong đầu tiên tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để lịch sử Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị sai lầm nữa. Mong thay !

Phạm Trần Hoàng Việt

12 THÁNG ANH ĐI