21 thg 11, 2011

Người Đàn Ông Cân Đo Tội Ác Và Thời Gian



Người Đàn Ông Cân Đo Tội Ác Và Thời Gian
Người họ Lữ

Người vợ sắp cưới của tôi bị nằm liệt giường từ ngày hôm qua cho đến bây giờ trong khách sạn mà không sao nhấc nổi cái đầu lên được chỉ đã vì bị nhiễm khói xe và bụi bặm, nàng và tôi không ngờ khí hậu tháng Sáu ở Sàigòn vẫn còn nóng như thiêu như đốt đến cháy cả da thịt. Cũng chỉ vì chìu lòng nàng mà giờ đây cuộc du lịch của hai đứa đã mất đi nhiều thú vị.

Hai đứa chúng tôi dự định chỉ đi đến Thái Lan và sau đó đến xứ chùa tháp rồi quay về lại Hoa Kỳ, nhưng khi đến Campuchia và thấy cũng gần sát với nước Việt Nam, hơn nữa người hướng dẫn viên du lịch nói sẽ lo mọi thủ tục chỉ trong có vài ba tiếng đồng hồ là xong nên nàng muốn ghé qua đây dăm ba ngày cho biết Sàigòn. Tôi thì sao cũng được miễn là người tôi yêu vui là được rồi. Tuy chưa chính thức lấy nhau nhưng chúng tôi ăn ở cũng như đôi vợ chồng mới cưới và đang hưởng tuần trăng mật.

Tôi hơn nàng đến hai mươi ba tuổi, nàng mười tám tôi bốn mươi mốt vì vậy mà tôi chìu nàng tối đa,nàng muốn tức... trời muốn!

Nếu không nhờ tiếng tăm của mẹ tôi, nữ văn sĩ Lữ Túy Phượng đã và đang nổi tiếng với những tác phẩm sưu tầm công phu viết về đời tư và những hoạt động của những lãnh tụ các đảng cộng sản Việt Nam và thế giới đã và đang gây ra bao tội ác với chính đồng bào trong nước và, nếu không nhờ ba và hai anh trai của nàng cũng rất thích những tác phẩm của mẹ tôi thì khó mà tôi được gia đình của nàng chấp nhận, đơn thuần chỉ là vì tuổi tác mà thôi.

Khắp cùng nước Mỹ và những nước khác trên thế giới thì gần như không một người đàn ông Việt Nam nào, và có cả phái nữ nữa, lại không một lần nghe qua tên của mẹ tôi. Tuy mẹ sắp bước qua tuổi lục tuần nhưng mẹ vẫn còn đẹp lại sang trọng quý phái nữa mà tôi vẫn nghĩ có lẽ chỉ vì từ ngày rời khỏi quê hương cho đến nay mẹ vẫn ¨phòng không gối chiếc.¨

Sàigòn chật chội vì có quá đông người mà gần như ai ai cũng sử dụng phương tiện xe gắn máy nên cảnh kẹt xe xem ra rất thường xuyên. Ngày xưa, ngày mà tôi rời khỏi nơi đây khi chiến tranh đã vào những ngày cuối cùng và ngày đó tôi chỉ mới lên bảy tuổi nên trí nhớ về một vùng quê hương quả là quá nghèo nàn.

Người vợ sắp cưới của tôi cho phép tôi đi dạo xem thành phố,xem người và xem các tiệm buôn vì ngày mai hai đứa chúng tôi phải rời khỏi nơi đây,người tôi yêu không muốn thấy tôi cũng nằm liệt một chỗ như nàng.

Một vật mà tôi thấy phía trước mặt làm tôi phải chú ý đến, đó là cái cân thật cũ kỹ để cân người đặt trên vỉa hè nơi có người bộ hành qua lại thật đông đúc. Bên cạnh cái cân có một tấm giấy carton với hàng chữ thật lớn ¨ cân sức khỏe 2000 đồng ¨ viết bằng bút lông màu đỏ nét chữ rất lớn như muốn để cho người qua lại phải chú ý đến, vậy mà không một người qua lại nào trên hè phố để mắt đến.

Người đàn ông chủ của cái cân đó vào khoảng trên sáu mươi tuổi và gương mặt tuy có vẻ khắc khổ nhưng thật trí thức. Bộ đồ mà ông đang mặc, đôi dép mà ông đang mang cho tôi biết cuộc sống của ông không lấy gì được đầy đủ lắm nếu không muốn nói là túng thiếu. Ông ngồi đó,sau cái cân và bên phía tay phải của ông, bên cạnh một cây cột bằng xi măng có dựng một cái thước cây cao mà tôi nghĩ là để đo chiều cao của người. Công việc kinh doanh với chỉ một cái cân và cây thước, đây là lần đầu tiên tôi thấy trong đời. Người đàn ông ngồi đó đang nhìn người qua lại trên hè phố với vẻ dửng dưng như không hề chờ đợi sẽ có người đến đứng lên cái cân.

¨Hai ngàn đồng Việt Nam¨, tôi nhẩm tính với hối suất mà tôi mới vừa đổi trong khách sạn thì nó chỉ vào khoảng mười một mười hai xen đô la Mỹ mà thôi. Cũng vì gương mặt của ông và thái độ như bất cần đời của ông nên tôi cứ đứng từ xa, từ khoảng chưa đến chục thước và hết đưa máy lên làm như chụp hình rồi lại để xuống ngắm nghía mà mục đích là chỉ để chờ xem có ai đến đứng lên cái cân không.

Hai mươi lăm phút trôi qua rồi mà vẫn không có một người qua lại nào nhìn đến cái cân nên tôi tự hỏi như vậy một ngày ông ta sẽ kiếm được bao nhiêu tiền để sinh sống và có lẽ vì vậy mà quần áo và đôi dép của ông... Tôi bước đến cái cân rồi đứng lên. Vẫn với thái độ như dửng dưng nhưng ông cũng nhìn vào cái bàn cân. Cây kim chỉ vào con số bảy mươi ba rưỡi, tôi vừa định bước xuống thì ông chỉ tay vào chỗ để cây thước đo chiều cao nhưng tôi đã lắc đầu rồi rút từ trong túi áo trên ra tờ giấy mười ngàn đồng đưa cho ông, ông ra dấu tôi chờ một chút để ông đổi tiền, tôi khoát tay đồng thời nói ông không cần trả lại số tiền dư. Ông nhìn tôi nở nhẹ một nụ cười và gật đầu nhưng ông vẫn không nói một câu nào nhưng đôi con mắt của ông nhìn tôi đầy thiện cảm.

Ánh mắt nhìn của ông thật kỳ lạ và làm như có một ma lực nào đó thu hút khiến cho tôi phải muốn làm quen với ông. Ánh mắt đó,con người đó, cho tôi cái linh cảm ông là người trí thức đang bị thất thế và bất mãn với cuộc đời. Chắc chắn một con người như ông mà nếu tôi có cơ duyên được ông tiếp chuyện thì ông sẽ thố lộ những điều bí ẩn lý thú nào đó mà ông biết, hoặc có thể ông cũng là chứng nhân của một sự biến chuyển trong một đất nước có quá nhiều điều kỳ lạ này và... biết đâu rồi mẹ tôi sẽ có thêm tài liệu để viết sách. Tôi quyết định làm quen với ông.
*
- Khi cuộc tổng tấn công của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam vào dịp Tết Mậu Thân trên khắp miền Nam đang có dấu hiệu thất bại thì tôi được người của mặt trận đưa vào khu hoạt động và, thật đúng lúc, tôi đã thoát khỏi sự truy bắt của an ninh Việt Nam Cộng Hòa chỉ trong tích tắc. Thời gian này tôi đang là sinh viên năm cuối ở đại học Khoa Học Sàigòn. Tôi được người của mặt trận đưa lên Tây Ninh để rồi từ đây có khoảng một tiểu đội hộ tống tôi vào khu. Một năm sau trong một buổi tiệc tối tôi đã được gặp đủ mặt những người trí thức và những vị tu hành từ khắp nơi ở miền Nam được đưa vào bưng bằng đủ mọi phương tiện và qua mọi ngã.

Người của mặt trận đối xử với chúng tôi hết sức trọng đãi và chúng tôi cũng được gặp mặt đầy đủ những người lãnh đạo của mặt trận như Nguyễn Hũu Thọ, Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát, Trần Hữu Trang. Phía nữ có Nguyễn Thị Bình và Nguyễn Thị Định, nhưng đặc biệt hơn cả là được gặp ¨anh Sáu Dân¨, tức Võ Văn Kiệt. Tôi nói đặc biệt là vì từ buổi gặp gỡ đầu tiên trong bữa tiệc tối hôm đó tôi đã được đi theo sát bên nhân vật này cho đến sau ngày miền Nam hoàn toàn được giải... hoàn toàn bị nhuộm đỏ.

Tôi không làm sao quên được buổi gặp gỡ đầu tiên vào tối hôm đó vì chính ¨ anh Sáu Dân¨ khi đứng lên phát biểu đã nói:

- Ngụy quyền Thiệu Kỳ Khiêm tuyên truyền trong nhân dân với khẩu hiệu là đừng nghe những gì chúng ta nói mà hãy nhìn những gì chúng ta làm. Chúng ta sẽ làm và làm tất cả với ý chí thật cao để thể hiện cho nhân dân miền Nam này và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thấy quân đội nhân dân của chúng ta là quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ vì nhân dân mà chiến đấu. Quân đội nhân dân của chúng ta sẽ không bao giờ tơ hào đến cả một cây kim hoặc một sợi chỉ nào của nhân dân như những tên lính Ngụy của bọn chúng. Chúng ta sẽ chứng minh cho bọn Ngụy quyền Sàigòn và thế giới thấy rằng Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam và quân đội nhân dân của chúng ta sẽ thực thi một xã hội công bằng, một xã hội không có người bóc lột người. Lãnh đạo mặt trận đã công bố nghị quyết thực thi chính sách hòa hợp dân tộc để thể hiện lòng nhân đạo truyền thống của dân tộc ta vì vậy sẽ không có việc trả thù những người vì chưa hiểu vì thiếu thông tin mà hiểu sai lạc về mặt trận và quân đội của chúng ta. Chúng ta sẽ giang rộng cánh tay ra đón chào những ai quay về với mặt trận với nhân dân, chúng ta chỉ đánh kẻ chạy đi chứ không bao giờ đánh kẻ chạy lại.

¨Anh Sáu Dân ¨ Võ Văn Kiệt còn nói nhiều lắm nhưng điều làm cho tôi tở mở trong lòng hơn cả là những lời ông đã nói như trên. Tôi được người của mặt trận tuyên truyền móc nối để tham gia đấu tranh cũng chỉ vì mục đích như ¨anh Sáu Dân¨ đã nói chứ... chứ tôi đâu có ngờ rằng lời tuyên tuyền với khẩu hiệu của ¨Ngụy quyền Thiệu Kỳ Khiêm¨ đã chứng minh sự tiên đoán của họ là hoàn toàn đúng sau này về những hành động dã man về những việc làm tồi tệ và lời nói xảo trá không bao giờ đi đôi với việc làm của người cộng sản. Tôi không bao giờ quên được cái cảm giác bàng hoàng và thất vọng tột cùng khi trong một buổi họp của những người lãnh đạo đảng cộng sản miền Bắc trong đó có sự tham dự của ¨ anh Sáu Dân ¨, khi bàn về số phận của những người lính thua trận miền Nam thì chính Lê Duẩn rồi Trường Chinh rồi Phạm Văn Đồng đều biểu quyết là phải giết hết những người có trách nhiệm và những người chỉ huy suốt cuộc chiến. Tôi lại càng bàng hoàng và thất vọng hơn nữa khi ¨anh Sáu Dân¨ đứng lên nói:

- Tại sao chúng ta phải tốn đạn để giết đi một lực lượng lao động lớn lao đó làm gì để bị mang tiếng với thế giới. Sao chúng ta không nhốt bọn chúng lại cho đến chết và bắt bọn chúng lao động cực lực ngày đêm để tạo ra của cải cho chúng ta dùng và chúng ta sẽ chỉ cho bọn chúng ăn uống cầm chừng thôi. Chúng ta không để cho bọn chúng bị chết vì đói mà chỉ đói vì chúng ta cho bọn chúng ăn không đủ no nhưng phải bắt bọn chúng lao động thật nhiều thì từ từ bọn chúng sẽ kiệt sức và rồi sẽ biến mất dần trên mảnh đất này mà chúng ta không bị tốn một viên đạn nào và cũng không bị mang tiếng ác với thế giới.

Có lẽ vì thấy ¨sáng kiến¨ của ¨anh Sáu Dân¨ sáng suốt quá và sẽ được chấp thuận nên Nguyễn Hộ sau đó đã tuyên bố như để tiếp lời ¨anh Sáu Dân¨:

- Chúng ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam rồi thì vợ của bọn chúng chúng ta lấy, nhà cửa của bọn chúng chúng ta vào ở, con của bọn chúng chúng ta bắt làm nô lệ. Chúng ta sẽ tạo cho bọn người miền Nam, gái thì làm đĩ trai thì chúng ta bắt phải đi khai mương khai rạch khai phá những khu đất, những khu rừng hoang và các bãi mìn.

Một bầu trời mà tôi đang đứng dưới bỗng như đen tối dần, một ước vọng tương lai tốt đẹp xán lạn cho quê hương cũng đang từ từ tan nát trong tim tôi chỉ trong một buổi họp ngày hôm đó và,bốn năm sau của cái ngày gọi là giải phóng tôi đã phải ra ngồi ngay tại chỗ này. Tôi ngồi đây suốt từ ba mươi năm qua không bỏ sót một ngày nào. Ai muốn hỏi muốn biết rõ chuyện tôi cũng đều kể lại và kể đúng như tôi vừa kể cho chú em nghe. Tôi không sợ bọn chúng giết tôi bởi vì tôi đã tự xem như tôi cũng đã chết rồi kể từ ngày quê hương miền Nam bị bức tử và vì tôi cũng là trái chanh đã bị khô héo sau khi đã bị vắt cạn kiệt sức lực và trí óc... nhưng bọn chúng lại không muốn hoặc không dám giết tôi nên tôi vẫn còn ngồi đây. Trước đây tôi kiếm sống cũng tạm được nhưng từ ngày mỗi nhà đã có khả năng mua được cân và thước rồi thì tôi... có khi cả tuần hoặc có khi cả tháng không có một người khách nào đến đứng trên cái cân đó, nhưng đó cũng không còn gì là quan trọng nữa vì tôi vẫn ngồi đây với mục đích khác đó là tôi muốn cân tội ác của cộng sản xem nó nặng đến bao nhiêu khi mà mỗi ngày bọn chúng mỗi lún sâu vào tội ác mà tội nặng nhất là đã nhượng đất bán biển cho kẻ thù phương Bắc là bọn Tàu dã man đã từng đô hộ đất nước mình cả một ngàn năm và luôn tìm cơ hội để thôn tính, vậy mà nay bọn chúng lại còn giang tay đón rước kẻ thù vào khai thác tài nguyên của đất nước mà hậu quả làm thiệt hại cho quê hương sẽ không sao có thể lường trước được. Tôi vẫn sẽ ngồi đây cho đến khi nào còn có thể để đo thời gian xem bọn cộng sản Việt Nam còn sống được đến bao lâu và khi nào bọn chúng bị đồng bào nổi lên tiêu diệt. Chú em đừng thắc mắc là rồi tôi đã và đang sống ra làm sao. Miếng ăn đối với tôi bây giờ không còn gì là quan trọng cả,chỉ cần mỗi ngày hay đôi ba ngày bỏ vào miệng một thứ gì đó cho cái dạ dày nó yên là tôi cũng yên tâm lắm rồi.

- Thế...thế gia đình của bác đâu?

Người đàn ông có vẻ lập dị khi ông nói ông ngồi đây là vì muốn cân đo thời gian và tội ác của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bỗng mất đi vẻ hăng say lúc kể lại câu chuyện tham gia mặt trận, ông đang hướng ánh mắt mệt mỏi nhìn vào đám đông người qua lại trước mặt mà hình như ông không nhìn thấy một ai bởi vì tôi thấy hai con mắt của ông như mơ màng, như nhớ về dĩ vãng và rồi từ trong hai con mắt đó tôi thấy có hai giọt nước đang chảy ra và đọng lại bên khóe. Không buồn bận tâm đến những người chung quanh và những người qua lại trên hè phố, ông vẫn để hai giọt nước tự động lăn dài xuống hai bên má, ông nói:

- Tôi có vợ, hay nói cho đúng hơn là tôi có người yêu và người đó yêu tôi vì chúng tôi chưa cưới chưa ăn ở với nhau công khai. Người tôi yêu và yêu tôi vừa tốt nghiệp tú tài và đang chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa đại học Văn Khoa nhưng rồi tôi đã bỏ đi vào trong bưng không một lời từ giã và tôi đã không hề biết rằng người tôi yêu đang mang giọt máu của tôi trong người. Tôi là tên đàn ông đốn mạt không trách nhiệm. Tôi là tên đàn ông ngu muội và ác độc khi đã đưa cả hai tay và bộ óc vào công việc làm cho cả bao nhiêu triệu người miền Nam này đau khổ và ly tan. Ngày tôi trở về lại thành phố và tìm đến nhà người tôi yêu thì mới biết rằng nàng đã bỏ nước ra đi vào hai ngày sau chót của cuộc nội chiến cùng với đứa con trai đã bảy tuổi, đó là đứa con của tôi với nàng...

Người cân đo thời gian và tội ác của cộng sản Việt Nam khóc nấc lên như đau khổ. Hai hàng nước mắt chảy dài ra trên khuôn mặt khắc khổ của ông mà ông cũng không màng lau nó. Tôi cố gợi chuyện để ông trút bớt ra những uẩn ức những dằn vặt đau khổ đã hành hạ ông trong suốt bao nhiêu năm trời qua còn chất chứa trong lòng hầu vơi bớt nỗi sầu muộn:

- Ông... ông không gặp lại hai người... thân đó lần nào sao?

- Tôi không xứng đáng gặp lại hai người đó chú em à. Gặp lại hai người thân yêu đó là ý nguyện của tôi từ bao lâu nay nhưng vì tôi đã bỏ cả hai người ra đi không một lời giải thích thì giờ đây làm sao tôi còn mặt mũi nào dám gặp lại hai người đó, nhưng... nhưng tôi vẫn thường xuyên nhìn thấy người tôi yêu trên mạng, trên internet, chỉ vậy thôi là tôi đã mãn nguyện lắm rồi nhưng tôi chưa gặp được mặt người con trai của tôi và nếu một ngày nào đó tôi được diễm phúc gặp mặt người con trai của tôi rồi thì dù tôi có nhắm mắt tôi cũng mãn nguyện lắm, đó là mơ ước lớn nhất trong đời tôi sau khi mơ ước lớn lao kia đã bị bọn người quỷ quyệt, bọn người xảo trá,bọn người man rợ mà tôi đã hết tâm hết lòng phục vụ nhưng đã phản bội lại tôi.

- Bà... người ông yêu bây giờ ở đâu và làm gì mà lại xuất hiện trên internet? Tôi có thể giúp ông được việc gì không?

- Cám ơn chú em nhiều lắm, tôi không cần chú em giúp tôi việc gì cả. Những việc tôi đã gây ra thì tôi vui vẻ đón nhận nó vì đó là lẽ công bằng của trời đất, là lẽ công bằng của Thượng Đế và nếu Thượng Đế thấy sự trừng phạt của Ngài trong mấy chục năm qua là đã đủ thì Ngài sẽ cho tôi gặp lại cả hai hoặc một trong hai người. Chú em hỏi người tôi yêu bây giờ ở đâu và làm gì à. Người tôi yêu bây giờ đang sinh sống ở trong một xứ sở văn minh nhất hành tinh này, giàu nhất hành tinh này, nhân đạo nhất hành tinh này và, người tôi yêu đang rất nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở trong xứ sở đó cũng như ở các xứ khắp năm châu bốn biển của trái đất này chỗ nào có người Việt tị nạn sinh sống. Người tôi yêu là nữ văn sĩ lừng danh tên Lữ Túy Phượng, hình của nàng mà tôi lấy từ trên mạng xuống tôi cũng có đem theo đây để tôi đưa cho chú em xem nhé.

Trong khi người đàn ông muốn cân đo thời gian và tội ác của cộng sản quay người ra phía sau để lấy cuốn tập thì tôi như người vừa bị trúng một cơn gió độc.Tôi cũng đang bàng hoàng xúc động, đầu của tôi đang như bị quay cuồng và hai con mắt của tôi bị hoa lên và rồi tôi cứ nhìn trừng trừng vào người trước mặt để tự hỏi người mà tôi cho là lập dị vì muốn cân đo thời gian và tội ác của cộng sản là cha của tôi đây sao. Nhìn tấm hình mà ông đưa cho tôi xem thì đúng đó là hình của mẹ tôi và như vậy ông đúng là cha của tôi rồi. Tôi ôm đầu khổ sở nhìn lên trời cao và than sao Thượng Đế lại nỡ thử thách tôi như thế này để làm gì. Tôi không có đủ can đảm để gọi ông tiếng cha, tôi không có đủ can đảm để ôm ông. Tôi phải đối xử phải hành động như thế nào đây hỡi ông trời trên cao kia. Sao ông nỡ để quê hương tôi cứ chìm mãi trong đau thương trong thù hận, sao ông nỡ gây ra chi những thảm cảnh đau thương như thảm cảnh ngày cha con gặp lại nhau mà tôi là con lại không đủ can đảm để nhận người đã tạo ra tôi tuy ông chưa có một ngày nào nuôi dưỡng tôi, chưa có một lần ẵm bồng tôi.

Tôi đứng lên quay lưng và bước đi thẳng về khách sạn mà không có một lời nào với người cha mà tôi mới vừa được biết. Tôi thoáng thấy sự ngạc nhiên hiện ra trên gương mặt khắc khổ của ông và, hình như ông có nói hay hỏi câu gì đó nhưng nào tôi có còn nghe được gì nữa đâu.

Tôi mặc kệ những người qua lại trên đường phố đang trố mắt nhìn tôi. Có nhiều, có rất nhiều cô thiếu nữ đưa tay lên che miệng lại khi nhìn thấy tôi bước đi với khuôn mặt đầy nước mắt.
*
- Chuyện gì đã xảy ra với anh vậy?

Người vợ sắp cưới của tôi tròn xoe đôi con mắt nhìn tôi hỏi nhưng tôi không trả lời và vẫn để nguyên bộ quần áo đang mặc trên người tôi lao mình nằm dài ra trên giường mặt úp xuống gối và tiếp tục khóc.

Một khoảng thời gian không lâu sau,một ý nghĩ thoáng qua và tôi ngồi lên cầm điện thoại phôn về cho mẹ tôi. May mắn hay xui xẻo đây mà mẹ tôi đã không có ở nhà để bắt máy. Tôi để điện thoại xuống rồi quay qua người vợ sắp cưới và kể lại cho nàng nghe từng chi tiết về câu chuyện đã làm cho tôi xúc động mạnh.

Sáng nay người vợ sắp cưới của tôi khuyên tôi phải đến gặp cha tôi vì nàng cho đây là một sự trùng hợp mà có lẽ định mệnh đã sắp đặt khiến xui cho tôi gặp lại cha vào tháng này, tháng có ngày lễ của cha, nàng khuyên tôi là dù có như thế nào thì tôi cũng không thể nhẫn tâm chối bỏ người đã tạo ra tôi vì dù sao ông cũng đã quá hối hận, quá đau khổ về những gì ông đã làm trong quá khứ.

Tội nghiệp người vợ sắp cưới của tôi, nàng cố ngồi dậy trang điểm cho thật đẹp để đến ra mắt cha tôi. Nàng đi cùng tôi ra tiệm bán bông hoa, nàng chọn mua một bó hoa thật lớn và thật đẹp rồi cùng tôi đi đến chỗ có người đàn ông muốn cân đo thời gian và tội ác của cộng sản. Tôi bước những bước dài và thật nhanh về phía trước trong khi người tôi yêu đang bước từng bước chậm chạp lẽo đẽo theo phía sau.

Cái cân cũ kỹ và cây thước cùng người đàn ông cân đo thời gian và tội ác của cộng sản Việt Nam không có mặt ở đây ngày hôm nay.

Trong khi đang bối rối chưa biết tính làm sao thì chị bán nước ngọt và cà phê trên cái xe nhỏ đẩy tay lên tiếng hỏi:

- Ông muốn tìm gì?

- Tôi muốn tìm ông thường ngày ngồi ở đây, cái ông...

- À, ông cân đo thời gian và tội ác của... ừ há, sao hôm nay không thấy ổng đến chứ từ nào đến giờ ổng luôn luôn có mặt rất đúng giờ, không biết hôm nay có chuyện gì không vậy cà.

Anh thanh niên vừa dựng chiếc xe gắn máy bên cạnh xe cà phê. ¨ Có lẽ anh ta chạy xe ôm ¨ tôi nghĩ vậy, và anh cũng vừa nghe chị bán cà phê nói nên anh nhìn tôi nói:

- Xe cứu thương đưa ổng vào bệnh viện Sàigòn hồi sáng sớm nay rồi, có lẽ... kỳ này không qua khỏi quá. Ăn ít quá thì sức đâu mà chống lại bệnh tật chứ.

- Bệnh viện Sàigòn ở đâu vậy anh?

Chỉ tay về phía xa xa anh nói:

- Phía đó đó, đi bộ một chút cũng phía bên này là gặp liền à, gần cuối đường mà phía bên kia là chợ Sàigòn đó.
*
Tôi đặt bó hoa thật tươi và thật đẹp lên cái xác của người đàn ông cân đo thời gian và tội ác của cộng sản Việt Nam và cũng là người cha của tôi.

Cả hai đứa chúng tôi cùng đứng trước cái xác mà khóc và khóc thật nhiều. Tôi hối hận và đau đớn quá. Ngực tôi cứ đau quặn lên từng cơn và luôn có câu hỏi trong đầu là vì sao hôm qua tôi lại nhẫn tâm bỏ đi không một lời nói nào với cha, vì sao hôm qua tôi lại không có can đảm để ôm ông và kêu lên tiếng cha thân yêu, vì sao... nếu biết trước sự thể như thế này thì... Tôi cũng là tên đàn ông thật tệ hại. Tôi là đứa con bất hiếu vì dù sao ông cũng là cha của tôi dù ông chưa có một ngày nào nuôi dưỡng. Tôi bỗng chợt nhớ đến lời mẹ tôi từng dạy dỗ từ lúc đến Mỹ là luôn phải thương yêu mọi người như thương chính bản thân mình bởi chúng ta khác người cộng sản ở chỗ trái tim của chúng ta là trái tim của con người.

Tôi cúi xuống hôn lên trán và lên má của cha tôi để từ giã,người vợ sắp cưới của tôi cũng làm theo tôi không một chút đắn đo suy nghĩ. Tôi thì thầm lời từ giã cha và tôi hứa với cha là khi về đến Mỹ tôi cũng sẽ đặt một cái cân và cây thước trước cửa nhà.Tôi sẽ tiếp nối công việc của cha, tôi cũng sẽ là người cân đo thời gian và tội ác của cộng sản Việt Nam.

16 thg 11, 2011

Công Cuộc Chống Cộng




Công Cuộc Chống Cộng
Huỳnh văn Lang





Xin góp ý về CCCC của người Việt quốc gia được quan niệm như là việc thi hành một Trách nhiệm, một Bổn phận đối với dân tộc,với đất nước của mình. CC còn là một Sứ mạng của người VN có cái lai lịch(ID) chạy Giặc CS,tị nạn ở Hải ngoại.

Khi đi tìm hiểu CSVN, nhiều khi bị thời thế bắt buộc hơn là tự ý và kinh nghiệm với CSVN năm 1945-46 khi ở trong Chiến khu VM (Việt minh) Gò Cà, làng Nhị long, quận Càng long, tỉnh Trà vinh, quê hương của chúng tôi, ngoài ra ở cương vị một phó đoàn trường Thanh niên Cứu quốc tôi tham gia sinh hoạt với hội Nghiên cứu Mác-xít, một tiểu tổ đảng Lao động hay CSVN trá hình vừa được Hồ Chí Minh giải tán ngày 11tháng 11năm 1945 để lập Chánh phủ Liên hiệp ở Hànội. Khi thoát được về thành là đầu tháng 4 năm 1946 để đi dạy học trường Bx Minh của Đức Giám mục Ngô đình Thục ở Vĩnh long, tôi có viết về CSVN, để cho sinh viên đọc, trong đó hiện còn sống ở Cali nầy là Nghị sĩ LCL và Đại tá NBT, cả hai là người Vĩnh long, 100 trang giấy học trò về CSVN, chủ thuyết và thực tế, với 2 chữ kết: ''Sắt máu và Láo''.

Và từ đó cho đến Tháng tư Đen năm 1975, về thể xác lớn hơn già hơn, cũng như tinh thần được học hỏi với ông Ngô đình Nhu, cha Ferdinand Parrel ở Đà Lạt và đi du học thêm, tôi thay đổi rất nhiều, cùng một lúc thấy nhiều hơn biết nhiều hơn, cũng như làm việc nhiều hơn như là làm Công chức, làm Giáo chức trung học/đại học/ bình dân, làm Chánh trị, làm Thương gia, đi săn bắn đi đá gà đá cá... Vì việc làm tôi đi nhiều nơi từ làng xã đến thị thành, từ miệt ruộng miệt vườn, đến Cao nguyên Nam phần, tôi gặp đủ giới người, đủ Tôn giáo, rất nhiều người bà con là Cộng Sản... Sau 1975 ba lần tôi về VN đi từ Nam ra Bắc, gặp đủ giới người, gần đủ các thành phần xã hội, từ các người nông dân Kampuchea ờ Sóc trăng, các cán bộ Cộng Sản...đến cố vấn kinh tế của Võ văn Kiệt (LVH) ở Saigon, cố vấn tài chánh của Nông đức Mạnh (BKT) ở Hà Nội...

Và từ đó (1945) ở đâu và với ai ai tôi cũng thu lượm được ít nhiều điều mắt thấy tai nghe để làm thành hành trang hiểu biết của tôi về CSVN cùng một mớ kiến thức phổ thông và hàn lâm + với vài năm hiểu biết triết lý duy linh Công giáo sẵn có...Để rồi ngày nay tôi phải khẳng định: CSVN sau trước cũng vậy, không thay đổi, nếu có thay đổi là càng tai hại hay xấu hơn, chớ không tốt hơn theo tiêu chuẩn thông thường của con người VN cũng như con người nước ngoài. Tôi hay nói: Con rắn hổ-mang có thay da, rồi cũng vẫn là con rắn hổ-mang, to hơn, dữ hơn...không bao giờ trở thành con rắn Nước hay con rắn Bông súng được. Cho nên chỉ có cách là phải tiêu diệt toàn bộ để thay thế, chặt đầu thôi cũng chưa đủ, vì trong bụng không chừng còn trứng, dù là trứng nước trứng non...và nhứt là nọc độc giết người vẫn chưa mất!
Vì thế mà tôi kỳ quyết và trường kỳ chống Cộng cho đến khi nào giải thế CSVN được thì mới thôi. Xin đừng nói chuyện CSVN thay đổi, vì tôi không thấy, không biết, dù tôi muốn thấy muốn biết. Có phải vì thế mà có nhà trí thức Giáo sư, Tiến sĩ, Thạc sĩ nào muốn cho tôi là điên, quá khích hay cuồng tín gì gì nữa, tôi bằng lòng chấp nhận. Ai mà biết ''rira bien qui rira le dernier'' (ai cười sau hết mới là người cười phải, cười đúng)?
Đang khi chờ đợi, hai ba năm, 15 năm, hai ba chục năm...biết đâu tôi sẽ còn sống để cuời trước mũi của một X,Y,Z...trí thức đã vội ra đi để lánh mặt, bài nầy để nói lên tại sao mà tôi kỳ quyết chống cộng như vậy, cùng một lúc ''đồng thanh tương ứng'' với những ai cùng một lòng với tôi.

Trên toàn thế giới nhứt là ở Âu châu có rất nhiều manifesto, có cả tự điển, có cả hiến chương lên án chống CS một cách dứt khoát ! Ước gì đồng bào VN chạy giặc CS có một Anti-CSVN Manifesto để gửi về đồng bào trong nước, cũng là hưởng ứng trào lưu Chống cộng và Diệt cộng toàn cầu.
Trong sự tìm hiểu về CSVN tôi đã bắt gặp 2 cái Manifesto mà tôi quan tâm và muốn nhắc lại. The Communist Manifesto của Đệ nhứt Quốc tế do K. Marx và F. Engels viết năm 1848, một văn bản ngắn gọn nhưng tác động ghê gớm vô cùng, hơn xa cuốn Tư Bản luận nhiều, một cuốn cho trí thức, một bản văn cho hành đông. Nó như là một ngọn đuốc độc hại đã gây bao nhiêu hỏa hoạn đốt cháy bao nhiêu tài sản văn hóa nhân loại tích lũy cả mấy chục ngàn năm qua, thiêu hủy bao nhiêu giá trị vật chất và tinh thần quí báu của nhân loại, trong đó có cả trăm triệu sinh linh vô tội. Chính cái Manifesto đó, hơn là Tư bản luận là sách đầu giường của Mao trạch Đông, là kinh thánh của đảng CSVN: Giai cấp đấu tranh là trọng tâm, Sắt máu và Láo là phương châm hành động. (Cuốn thứ 2 là The Non-communist Manifesto của W.W. Rostow, xuất bản năn 1960, về 5 giai đoạn phát triển kinh tế là sách tôi đã đọc đã học, cũng là cuốn sách tôi biếu ông Ngô đinh Nhu để ông đọc và thấy có ảnh hưởng không nhỏ trên kế sách Ấp chiến lược của ông)
Khi viết bài nầy, tôi không quan niệm nó như là một Anti-communist Manifesto, nhưng tôi muốn đưa ra vài nhận xét để những nhà ái quốc, những nhà chánh trị lỗi lạc hơn tôi, hiểu biết nhiều hơn tôi và có kinh nghiệm với CSVN hơn tôi, có thể xử dụng được phần nào để cho ra một văn bản có trọng tâm và cứu cánh là đoàn kết mọi chủ trương hay chiến lược, mọi chiến thuật chống Cộng cho hiệu quả hơn, cho mau thành tựu là giải thể CSVN khỏi xã hội, khỏi đất nước. CSVN là đối tượng cho tất cả CCCC dưới mọi hình thức.

1.- Đối tượng Công cuộc Chống Cộng CCCC:

Đối tượng chống CSVN không phải là con người CS mà là Chủnghĩa/Chế-độ/Tập đoàn CS. Chủ nghĩa là chủ nghĩa Duy vật sử quan. Chế độ là chế độ Độctài/Độcđảng/ Tập đoàn hay Hệ thống là Hệ thống Sắt máu và Gian dối. Lý do (the reason why) Chống cộng là vì Hệ lụy vô cùng tai hại của nó gây ra trong dĩ vãng nhứt là trong hiện tại và trong tương lai của một dân tộc, mà thành phần là đồng bào, là bà con ruột thịt của tôi, là chúng tôi và con cháu của chúng tôi. Vốn Hồ Chí Minh đã nhập cảng văn hóa duy vật cực đoan phi nhân bản, để đào thải văn hóa nhân bản duy lý (Khổng giáo), duy tâm (Phật giáo) và duy linh (Lão và Thiên chúa giáo) của dân tộc VN. Còn Duy vật Cực đoan là không còn chỗ cho Duy linh/Duy lý/ Duy tâm của VN nữa là cái chắc! Cực đoan ở đây có nghĩa là Chủ nghĩa đi đôi đi ba với Hệ thống với Chế độ là những con đẻ của nó!

Cho nên nếu nói CSVN yêu nước như một Thủ tướng vô ý thức nào đó, nếu có đúng là đúng cho cá nhân hay một số cá nhân mà hoàn toàn ngu ngơ hay sai lầm cho một hệ thống, cho một chế độ. Cũng như vài nhà Trí Thức Gọi Là đã nói CSVN thay đổi, thay đổi là thay đổi ''quần áo, mũ mão, hia giáp'', thay đổi thể xác mà không có thay đổi cái hồn, không có thay đổi tâm trạng thay đồi đầu óc của hệ thống, của chế độ, của tập đoàn! Hơn nữa tư duy duy vật sử quan không bao giờ thấy thay đổi! Mac-leninit/Stalinít/Maoít, được Cộng sản VN copy lại, tam sao thất bổn để thành ra HCMit... thì cũng không khác nhau mấy! Cũng là quốc tế, cũng là duy vật, cũng là sắt máu, cũng là gian dối.
Chứng minh:
Thay đổi? Thay đổi thật ngoạn mục là khác. Năm 1995 tôi về VN, CSVN chỉ có 300 tờ báo vâng vâng dạ dạ, bây giờ họ có cả 700 tờ dạ dạ vâng vâng. Đảng viên chỉ 2 triệu, bây giờ đã 3 triệu rồi. Còn số cha cố và thầy chùa Quốc doanh gia tăng bao nhiêu, tôi có hỏi 5% hay 95% không ai trả lời được!Trước kia họ chưa có kinh tế, bây giờ kinh tế ở trong tay Đảng, trước kia cơ quan nào cũng là nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân... chỉ có Ngân hàng là Ngân hàng Nhà nước. Bây giờ cũng vậy, mà Nhà nước là Đảng bạn ạ! Khôn thật, CSVN khôn thật. đúng là siêu khôn! Trước kia (1945-54) vào làng CSVN là đầy tớ dân, giúp dân xay lúa giã gạo... bây giờ CSVN thay đổi bạn ạ! CSVN bậy giờ là cha mẹ dân, bây giờ dân phải đi đổ bô cho cha mẹ, cha mẹ muốn lấy gì đòi gì cũng phải cho, phải dâng. Cả đàn bà con gái để dùng hay xuất cảng cũng OK! Lao động của người dân, đem xuất cảng gửi Giấy xanh về hơn là ở lại trong nước lấy giấy cu Hồ, mà có quan chức CS dám chê là cho để chùi đít cũng không thèm! CSVN giàu cả triệu, cả trăm triệu US đôla. CSVN thay đổi ghê thật! Trước kia ở rừng bây giờ ở Dinh, ở Biệt thự.. trước kia đi dép râu, bây giờ đi giày Made in Italy, hiệu Gucci...Nói trên là sơ lược nói CSVN thay đổi thế nào, CSVN còn thay đổi ghê gớm hơn nữa... Rõ ràng là thay đổi, có phải đúng là một băng đảng Mafia không?
Đúng là Mafia, nhưng không phải là Mafia, mà là hơn Mafia trăm lần! Vì Mafia làm gì có Quốc hội, làm gì có Măt trận Tổ quốc, làm gì có bộ Chánh trị, làm gì có đến 3 triệu đảng viên, có đến 2 triệu Cảnh sát Công an...Mafia có duy linh, có Tổ quốc, có Tôn giáo, có Gia đình! Đàng nầy CSVN là tam vô bạn ạ! Nó chỉ có Đảng thôi! Đảng là giá trị tối cao, là Thần, là Đấng chí tôn và Hồ Chí Minh là tiên tri là thần thánh của Đảng (bằng chứng là đem tạc tượng vàng Hồ thờ chung Phật Thích ca !!!! Cho nên nhận định CSVN toàn là Mafia là chưa đúng, nếu không nói là xu hướng đánh lận con bài! Con cọp phải nói là con cọp, không thề nói là con trâu hay con mèo được!

Sắt máu?

Sắt. Trước kia là dao găm mã tấu hay AK 47... cũng khá tốt khi đâm khi thọc huyết khi bắn, tất cả đều làm bằng sắt. Bây giờ cái còng số 8 cũng bằng sắt, trước kia Made in China, cũng dùng được năm bảy năm, bây giờ bằng sắt mà là lọai inoxidable và Made in USA, chắc và bền vô cùng bạn ạ! Và cái còng số 8 nầy tràn ngập đất nước, từ làng xã đến quận lỵ tỉnh lỵ, đô thành... thức giấc là thấy lủng lẳng có người mặc áo vàng áo xanh mang bên hông đứng trước cửa nhà! Ở đâu cũng có sắt, bạn ạ! Súng lục, súng trường...cất giữ trong cơ quan có lớp lang hơn, nhưng vẫn còn đó và cộng thêm tối thiểu cũng vài ba triệu còng số 8 toàn bằng sắt giết người tế nhị hơn, giết cả linh hồn con người, trong đó có tự do, có quyền làm người...

Máu?
Trước kia máu có màu đỏ bầm, bây giờ nhờ khoa học máu có màu trắng bạn ạ! Nhiều khi cũng lẫn lộn một vài tia máu đỏ, nhưng được một cái là nó dồi dào hơn thập bội và không phân biệt là của ai, vì là của nào là ông già bà cả, đàn ông đàn bà con trai con gái trẻ con, bạn ạ! Họ khóc ra máu bạn ạ, chỉ khác màu thôi! Hơn nữa nó còn rấm ra rấm rít dài dài hoài! Tôi đã thấy máu trắng đó chảy từ Bắc chí Nam, từ làng xã đến tỉnh thành và trong nhiều thập niên qua, từ những năm 1929-30 và còn dài dài chưa biết đến khi nào mới dứt?

Gián dối hay láo?
Thì không cần phải nói, có thế cần một luận án ngàn trang có đề tài là Láo Luận của CSVN. Cái láo đó bắt nguồn từ cái không tưởng Thiên đàng XHCN, ở đó con người, tất cả mọi người đều tuyệt đối bình đẳng và công bằng xã hội tuyệt đối. Nhưng không dè con người trở thành đồ phụ tùng (spare parts) cho một cái máy sản xuất khổng lồ, hoàn toàn không hỉ nộ ái ố sân si - trừ ra Đảng thôi - không cần chánh phủ hay Cảnh sát Công an nữa ! Vốn là một cái không tưởng mà muốn đem đi bán thì chỉ có một cách là phải quảng cáo hay tuyên truyền, gian dối là kỹ thuật, tôi luyện thành nghệ thuật, thành khoa học + với tâm lý học quần chúng... mà các tông đồ Đệ tam quốc tế, trong đó có Hồ Chí Minh được dày công tôi luyện và thành tài vuợt bực.
Gian dối với Sắt máu là cặp bài trùng vô địch, ai ai cũng biết, nhưng nhiều khi quá trễ! Và từ ngày Hồ Chí Minh có tên là Nguyễn Ba (láo rồi), xuống tàu Tây đi tìm đường tiến thân thì gọi là đi tìm đuờng cứu nước (láo nữa), đến cái tên Nguyễn ái Quốc của một nhóm Annamit yêu nước cũng chổm cho mình (lại láo nữa), rồi Trần Dân Tiên...và trong lịch sử Láo của CSVN có những cái Láo vĩ đại cần phài nhắc lại ở đây:

a) HCM có sứ mạng đem Đông dương thuộc đia Pháp vào quỹ đạo Đệ tam quốc tế (Kommintern) dưới sự lãnh đạo của Nga sô-viết khi lập Đông dương CS Đảng ở Hongkong đầu năm 1930, để làm bàn đạp nhuộm đỏ cà vùng Đông nam Á thì dùng chiêu bài giải phóng dân tộc VN khỏi chế độ Thuộc địa Pháp, lôi kéo cả cả hai thế thệ con dân VN vào lò sát sinh chiến tranh (1945-54) để giành lại được Độc lập, mưu đồ Tự do và Hạnh phúc cho toàn dân VN. Nhưng lại láo nữa: Đôc lập -Tự do - Hạnh phúc toàn là bánh vẽ. Thử nghĩ lại đi! Độc lập với ai? Lệ thuộc Ba Tàu còn tệ hại bằng mười lệ thuộc thằng Tây, cứ đi hỏi người dân Nam kỳ Lục tỉnh thì sẽ biết. Khi về VN năm 1995 và năm 2001 tôi có hỏi họ và họ xác nhận với tôi: Thời Pháp thuộc vẫn sướng hơn, có làm có chơi, ăn đủ ngủ yên...bây giờ ngày đêm chỉ có lo...

b) Còn chuyện Cải Cách Ruộng Đất ngoài Bắc (1950-55), cũng chỉ là một cái Láo khổng lồ chỉ hi sinh có 172,008 sinh mạng thôi (!), người đầu tiên không ai khác hơn là bà Nguyễn thị Nam, aka bà Cát Hanh Long một ân nhân của HCM, Phạm văn Đồng, Trường Chinh, Lê đức Thọ... khi còn ở trong rừng!

c) Đánh Mỹ để Thống nhứt đất nước? Hỏi bà Dương thu Hương, một cán bộ '' trí thức'' CS nói cho mà nghe có đúng sư thật hay lại là một cái Láo vĩ đại nữa!

d) Thống nhứt rồi thì càng Láo tợn hơn nữa! Lần nầy thì cả nửa dân tộc VN miền Nam lãnh đủ: Toàn là láo: nào là giải phóng, nào là cải tạo, nào là khoan hồng, nào là kinh tế mới... May mà còn có cả triệu người không còn tin Vẹm được nữa, nên đã bỏ chạy...cả cây cột đèn cũng muốn bõ chạy kia mà! Nhưng quá đau thương, khi hai cái chơn còn có lý trí hơn cả ngàn cái đầu các cha cố/thầy chùa/ trí thức miền Nam đi đón rước CS Hànoi và quyết định ở lại, trong đó tôi có quen nhiều cái đầu học ở Pháp, ở Thụy sĩ, ở Bỉ, ở Mỹ...
Và còn bao nhiêu cái láo nữa, không bao giơ kể hết, CSVN vẫn đeo đuổi cái Legacy của Hồ Chí Minh để lại là LÁO thiên láo địa cho đến ngày nay và vẫn còn tiếp tục cho đến khi nào không còn láo được nữa.
Cái Láo của Cộng sản VN thành ra một nghệ thuật cao siêu, đến đổi chính CSVN tin chuyện mình nói, biến văn hóa VN bây giờ thành ra một thứ văn hóa Láo, láo trên láo xuống, láo dưới láo lên, láo qua láo lại, láo trước láo sau. Láo trong gia đình, láo với gia đình, cha mẹ láo với con, con láo cha mẹ, thầy láo trò trò láo thầy, láo trong trường từ mẫu giáo đến đại học, láo ngoài chợ láo với sản phẩm cả với thực phẩm, láo trong chùa láo trong nhà thờ, láo dưới sông láo trên núi, láo trong lịch sử trong văn học, láo trong sách vở, láo trong báo láo trên TV...Ra rả Láo cả ngày cả tháng cả năm... đến đỗi có lắm người đề nghị phải có một ngày Nói thật, như một ngày mùng 2 tháng Chín chẳng hạn. Tôi dám thách đố các bạn hảy chứng minh với tôi trường hợp nào CSVN nói thật, từ gần 100 năm nay, đúng hơn là từ ngày HCM nhập cảng vào xã hội VN chủ nghĩa Mac-leninit.
Nhưng vẫn có người chạy giặc CS ở hải ngoại lại còn tin cái gì CS nói như tin Nghị quyết 36 chẳng hạn! Thử hỏi một NCK hay một LXK có tin CSVN hay không? Hay chỉ vì là chuyện làm ăn ?
Còn bà Duơng thu Hương, khi sáng mắt ra thì cũng đã già đầu rồi! Tổng bí thư đảng CS Nga Gurbachew phải công khai nhin nhận CS hoàn toàn gian dối thì cũng đã mất hơn nửa đời người!
2.- Chống Cộng thế nào?
Đây là một câu hỏi, thiết nghĩ không khó có câu trả lời, vì nếu mình còn muốn giữ cái ID (lai lịch) Chạy Giặc CS của mình và còn có một chút ưu tư cho bà con ruột thịt của mình, cho đồng bào của mình, còn có một chút băn khoăn cho tiền đồ đất nước, cho tương lai của dân tộc mình, thì chắc chắn sẽ tìm được và chọn lựa cho mình được một khí giới chống giặc CS, tiêu diệt CS. Tôi nghĩ các bạn không bao giờ thiếu, có thiếu là không biết xử dụng thôi! Bạn không còn có súng nữa, thì còn có hai tay, có cây viết, còn cái mồm, còn có hai cái chơn. Bạn cứ nghĩ đi và xử dụng thì đánh võ mồm hay đả đảo, có cây viết thì viết báo viết sách, viết Email... có hai chơn thì đi xuống đường. Bạn nên lưu ý: không có cuộc Cách mạng nào mà không có xuống đường, không có đả đảo...Không có cuộc cách mạng nào mà không có truyền đơn, không có truyền miệng...
Không thi thố ở trong nuớc được, thì phải tìm cách chuyền tin về bằng cách nầy hay cách nọ. Đi về thăm bà con hay du hí du thực...cũng có thể nói hay làm chút gì tuyên truyền cho đại cuộc là lật đổ một chế độ..Chuyện Công Cuộc Chống Cộng CCCC ở hải ngoại nhờ khoa học thông tin sẽ có input (đóng góp) ít nhiều vào cuộc Cách mạng ở trong nước, khởi công và thành công là của người trong nước, hơn là của chúng ta người đứng ngoài. Nhưng input vẫn phải có!
Giặc nầy của chúng ta là giặc ý thức hệ cần phải trì chí lâu ngày, không mau được!
Nên lưu ý: cái mồm hay 2 chơn nhiều khi có lý trí hơn là cái đầu trí thức, đó là sự thật. Một trường hợp điển hình, tôi kể ra đây cho bạn nghe. Bạn biết hai nhà văn cũng là 2 nhà trí thức lỗi lạc người Bắc là Đào duy Anh và Nguyễn Tuân? Năm 1976, hai ông vào Nam tìm gặp anh Lê Ngộ Châu, chủ nhiệm Tạp chí Bách Khoa của tôi và than vãn: Ngoài Bắc trong 50 năm qua chúng tôi không có một tờ báo giá trị bằng tờ Bách Khoa của anh. Làm sao tìm mua cho chúng tôi một bộ, giá nào cũng mua cho được...
Có phải rõ ràng hai cái chơn chạy vào Nam năm 1954 của anh Lê ngộ Châu có lý trí hơn hai cái đầu của hai ông Đào duy Anh và Nguyễn Tuân quyết định ở lại với CSVN không? Thử hỏi : Cái mồm ''đả đảo'' của người đàn bà đi biểu tình trước tòa Tổng lãnh sự của CS Hànoi chắc chắn là có lý trí hơn nhiều cái đầu trí thức ký tên trong bức Thư ngỏ gửi các nhà Lãnh đạo CSVN ba tháng trước do anh LXK chủ bút. Lý trí là ''raison hay jugement'', trí thức là intellect. Như A.Camus, P. Sartre...là trí thức đã tán dương CS Nga sô những năm 20, 30, nhưng rồi 25 năm sau phải trở lại lên án Chế độ CS không tiếc lời! Intellect mà không jugement là thế và bao nhiêu trí thức VN không cần phải nêu tên ra đây, vì không có danh dự gì cho người viết cả và nhiều đầu ôc trí thức cũng đã ăn năn sám hối rồi, như một cha Nguyễn ngọc Lan, một cha Thanh Lãng và ai ai nữa, thật là nhiều!
Võ mồm? Trong 3 cuộc Cách mạng 1789 của Pháp, Tháng 10, 1917 của Nga và gần đây của Libya. Võ mồm và cây viết đã đóng một vai trò hết sức quan trọng, dù không nói được là quyết định như sau:

a) Cách mạng của Pháp xảy ra năm 1789, nghĩa là đúng 13 năm sau Cách mạng của Mỹ (1776). Thương nhân, Thuyền nhân, Thủy thủ...người Pháp từ Louisania, cựu thuộc địa Pháp qua lại với mẫu quốc Pháp đã nói đi nói lại (phao tin) cho dân Pháp biết cái gì đang và đã xảy ra ở Mỹ đối với chánh quyền Thuộc địa hoàng gia Anh. Họ đã gây ra trong giới thương gia và thủy thủ, lao công bến tàu...ý thức 1) Chánh quyền Thuộc địa Anh hoàng là bất công, là kỳ thị, là vô nhân đạo, là dã man...cần phải đánh đổ. 2) Và người Mỹ đã đánh đổ được, nếu biết đứng lên, biết xuống đường, biết đả đảo, biết tẩy chay..những khí giới mà ai ai cũng có, có thể xử dụng được và rất linh nghiệm, Cha cố (clergy) và Vua chúa (noblesse) là hai gia cấp thống trị không phải là 2 lực lượng, 2 quyền uy vô song, không đánh bại được, vì không phải là Thánh, là Thiên chúa như xưa nay người ta tin....
Kế đến là 11 ngàn lính của Bá tước de La Fayette của vua Louis XV và XVI gửi qua giúp George Washington đánh quân hoàng gia Anh, sau khi toàn thắng đã lục tục trở về Pháp, không dùng súng nữa mà là dùng cái mồm và lần nầy quần chúng Pháp là thợ thuyền và nông dân càng tin và xuống đường cầm chà gạt, cầm lưỡi hái... Cũng có một số vừa đánh võ mồm, vửa xuống đuờng mà còn gia nhập La Garde Révolutionnaire thượng cờ Tam tài, kéo cờ hoa Huệ của triều đại Bourbons xuống đốt trước khi tấn công ngục thất La Bastille ngày 14 tháng 7 năm 1789. Bạn đừng chê võ mồm và hai chơn nhé! (Có thể những người lính hạ cấp hồi cư từ Mỹ về đã cứu La Fayette khỏi bị treo cổ hay chặt đầu như ông chú Louis XVI của mình, vì đã để cho lính của mình tự do đánh võ mồm hay nhập bọn Cách mạng xuống đường gây ra đổ máu...)

b) Cách mạng tháng 10 năm 1917 ở Nga. Đã đành thợ thuyền ở Petersburg, ở Moscowa, ở Urial.. cùng lính bại trận từ mặt trận phía Tây với Đức về, nông dân cũng gia nhập và Thủy thủ Hoàng gia ở hạm đội biển Baltique cùng đứng lên đình công bãi thị, xuống đường biểu tình...chống Chánh phủ lâm thời của Nga hoàng, tức là chống chế độ, đã phát động một cuộc Cách mạng đại qui mô Menshevik, để rồi bị Bolchevik của Lénine đào thải và cướp chánh quyền, đưa cuộc Cách mạng CS Nga đến chỗ thành công hoàn tòan như chúng ta đều biết. Nhưng chúng ta cũng không quên cái tác động vô cùng lợi hại của cái Communist Manifesto của K. Marx mà Lénine phân phát rộng rãi trong các giới bình dân Nga cũng như Đức từ nhiều năm trước và đầu năm 1917 những bức thơ hay truyền đơn của Lénine từ Suisse gủi về Petersburg, Moscowa... cho các tập đòan lao công, nông dân cả trong giới sinh viên. Người ta nhúm lửa bằng Giấy có viết những dòng chữ khó đọc và bằng cái mồm thổi hơi Gió cho lửa bắt rồi bốc cho mau cho mạnh, chớ có gì lạ đâu! Sự đóng góp (input) từ ngoài dù là ''võ mồm'' thật là tối ư quan trọng! Tờ giấy và võ mồm đã nhúm một ngọn lửa ghê gớm bập bùng bốc cháy lên tận trời xanh, thiêu hủy bao nhiêu là lầu đài văn hóa bao nhiêu là sinh linh con nguời của nhân loại! Và cháy lan từ Nga sang Đông Âu, sang Trung hoa, đến cả VN, xuống tận Nam dương! Ai dám bảo đánh võ mồm là vô hại?

c) Cách mạng ở Libya cũng trong một tháng 10 gần 100 năm sau cách mạng CS ở Nga và rất gần đây. Đã đành chế độ người lính cai trị Kadhafi có chính nghĩa it ra là lúc đầu và chính danh kéo dài cả 42 năm, được hơn 100 nước nhìn nhận. Đã đành các nước trong NATO, dẫn đầu là Pháp Anh và MỸ đã can thiệp bằng tàu bay tàu bò và giúp dân Libya đánh đổ một chế độ, dưới chiêu bài là giải phóng một dân tộc đang bị áp bức quá lâu đến cả tội ác đến nhân loại phải đưa ra tòa án Quốc tế xét xử v.v và v.v...Nhưng có thể vì quyền lợi là đúng hơn! Nhưng trước khi quân đội Libya nhảy ra đi dưới đất và NATO bay trên trời với súng đạn tàu bay tàu bò đánh giặc tiêu diệt thật và đi đến chổ dứt điểm là cái chết của Kadhafi, thì đã có sự đóng góp (input) bằng võ mồm của những nhà báo Mỹ, Anh và Pháp điểm mặt tố cáo cha con Kadhafi đủ thứ tội, có cả bà ngoại trưởng Hillary đánh võ mồm tiếp nữa! Tóm tắt cái miệng và cây viết từ ngoài đánh võ vào trong không phải là không lợi hại vô cùng!

Nhìn lại 3 cuộc Cách mạng nói trên, tất nhiên người chống Cộng ở hải ngoại cũng rút ra được cái gương để đánh Giặc CS với những khí giới gì mình còn có và biết xử dụng. Khí giới rẻ tiền, tiện dụng và lợi hại nhứt là tuyên truyền, mà cái mồm và cây viết là hai dung cụ dễ xử dụng nhứt. Cái khó còn lại làm sao bà con ruột thịt ờ nhà nghe được đọc được và đứng lên la lên ''đả đảo'' CSVN và rần rộ xuống đường càng đông càng tốt và gây ra đổ máu cho kỳ được! Lưu ý: nguời dân trong nước đi biểu tình cả trăm ngàn, cả triệu...đi đả đảo CSVN thì vẫn là ôn hoà, cái miệng hai chơn không phải bằng sắt, không gây đổ máu. Bạo động là do Công an Cảnh sát bạo động, chớ không phài là do người dân đi biểu tình....(1)

(1) CS đã dùng cái mồm của các chị buôn gánh bán bưng ở chợ Bến thành phao tin '' hệ thống xe Bus SG/CL'' là của bà NĐN, ở Bạc liêu/Càmau truyền miệng nhau: bà NDN độc quyền làm than củi Đước.. Tai hại vô cùng: dân miền Tây chán ghét chế độ TT Ngô đình Diệm vì những cái mồm hạ cấp đó! Cộng sản VN biết dùng cái mồm tại sao chúng ta lại không, đang khi ta lại có những cái mồm biết hai ba thứ tiếng ngoại quốc nữa?
Chỉ có thế thôi! Và kỳ quyết, có nghĩa là trong giai đọan có thua vì CSVN có tiền và có người quá nhiều, nhưng nếu nó có chính danh (chưa chắc), nhưng chúng ta có chính nghĩa, đang khi chúng nó hoàn toàn không là không!
Lưu ý: Bao lâu mà người Hải ngoại còn liên lạc được với nguời Trong nước thì Công cuộc Chống Cộng CCCC của chúng ta còn có cơ tải (input) về VN những nhiên liệu vật chất và tinh thần Cách mạng có thể thiêu hủy cả một chế độ phản dân phản nước!

3.- Vấn đề:
Có một vấn đề vừa chánh trị vừa lương tri tối ư quan trọng là chủ trương Công cuộc Chống Cộng CCCC v/s Chánh sách ngoại giao Mỹ/Việt. Hiện giờ chúng ta là những nguời chống cộng không đội trời chung với CSVN cũng lại là công dân nước Mỹ, có trách nhiệm có bổn phận với nước Mỹ mà chúng ta nhận làm quê hương thứ hai của chúng ta. Cho nên đang khi chúng ta xem CSVN cũng là chánh - chánh có nghĩa là lớn nhứt cao nhứt- quyền của nước VN là kẻ thù cần phải tiêu diệt bằng mọi cách cho kỳ được, tức nhiên là chuyện trường kỳ, dài hạn, không thế là chuyện ngày một ngày hai vì đây là một trận chiến ý thức hệ chưa kết thúc - trận chiến quân sự thì xong rồi, phe Quốc gia thua CSVN thắng - thì chánh quyến Mỹ hiện giờ lại bắt tay, hôn hít, trợ giúp, tức là củng cố CSVN. Như thế là giữa hai bên, Công cuộc Chống Cộng CCCC và chánh quyền Mỹ hiện giờ có chủ trương hay chánh sách hoàn toàn trái ngược nhau! Vậy thì làm sao giải quyết sự mâu thuẫn nầy trong tư duy và trong hành động?

Để tìm ra câu trả lời thì nên nhận định như sau về đường lối ngoại giao của Mỹ cũng là của nước ta với chánh quyền của quê hương của ta. Chánh sách ngoại giao của Mỹ với VN cũng như với Nam Hàn, Nhựt bổn cần phải được quan niệm về hai phương diện chánh là quyền lợi và ý thức hệ. Quyền lợi ở đây thuờng khi nếu không nói là luôn luôn cũng là quyền lực hay đúng hơn hai cái phải đi đôi với nhau, nương tựa nhau, củng cố nhau như với Nam Hàn chẳng hạn, và ý thức hệ không cần phải cùng một văn hóa, vì nhiều khi khác văn hóa mà cùng một ý thức hệ như với Nhựt. Cho nên trong trường hợp vì quyền lợi mà không cùng một ý thức hệ thì chánh sách ngoại giao của Mỹ chỉ là chánh sách giai đoạn, kinh nghiệm là Đệ nhị Thế chiến: Hợp tác với CS Nga để hạ Đức quốc xã, xong rồi trở lại xây dựng và hợp tác với Đức để hạ được Nga CS. Cũng vậy, Chánh sách ngoại giao của Mỹ với VN chỉ là giai đoan vi quyền lợi cũng là vì quyền lực. Không cùng một ý thức hệ thì không bao giờ ở với nhau lâu ngày được, '' đồng sàng dị mộng '' là thế. Cho nên ngắn hạn hay trong giai đoạn, Công cuộc Chống Cộng CCCC của mình với Chánh quyền USA không cùng một đường lối một chủ trương nếu không nói là mâu thuẫn nhau, như trường hợp tranh chấp ở biển Đông hiện giờ trước sự bành trướng hung hãn của một thế lực đế quốc TC không cùng một ý thức hệ.
Hai đường lối đối chọi nhau - giữa CCCC và Ngoại giao Mỹ/Việt - tất nhiên va chạm nhau cách nầy hay cách nọ và cũng tất nhiên không thể bằng bạo lực được mà bằng phương tiện ôn hòa trong giới hạn quyền lợi và trách nhiệm công dân mình cho phép: viết lách, biểu tình, đả đảo...và nhứt là kỳ bầu cử tới sẽ cho họ Chánh phủ nầy xuống đài, để rồi cũng có một chánh phủ USA cùng quan điểm hay ý thức hệ mà còn cùng chung một quyền lợi nữa! Xác nhận lại: Quyền lợi và quyền lực mà không có ý thức hệ cùng đi kèm, thì luôn luôn là giai đoạn nếu không nói là tạm bợ. Quyền lợi có ý thức hệ đi kèm là dài hạn nếu không nói là vĩnh cửu, như Mỹ với Nam Hàn, hay Nhựt bổn dù văn hóa có khác nhau. Ý thức hệ nói ở đây là ý thức hệ nhân bản, dân chủ tự do...hoàn toàn trái ngược với ý thức hệ của CSVN như đen với trắng hay lửa với nước.

4.- Điều kiện:
Điều kiện tiên quyết để Công cuộc Chống Cộng CCCC có cơ thành công là Đoàn kết. Ai ai cũng nói được và nói luôn luôn, nhưng chưa làm được hay phải nói là không làm được? Tuy nhiên cứ cố gắng, hy vọng có ngày cũng phải được, không được nhiều thì được ít, tất nhiên là không bao giờ được hoàn toàn. Điều nên lưu ý đầu tiên là cảnh giác: CSVN làm đủ cách, dùng mọi phương tiện để chia rẽ Công đồng, phá hoại Công cuộc Chống Cộng CCCC, và họ có rất nhiều tiền và rất nhiều cán bộ tôi luyện đầy đủ thủ đoạn và kỹ thuật chuyên môn. Một chân lý rất bất hạnh là thường khi nếu không nói là luôn luôn thằng lưu manh hay bất lương thắng người hiền người thiện! Nhưng đây cũng chỉ là giai đoạn thôi!
Tuy cùng một chính nghĩa, một ý thức hệ như là một hệ số chung, cùng một lịch sử Chạy Giặc CS, cùng một lý tưởng, cùng một chủ trương...nhưng vẫn chia rẽ vì vẫn khác nhau về đường lối Chống Cộng , khác nhau về nhân sinh quan và nhứt là khác nhau về tin ngưỡng...Có những cái khác nhau cổ truyền, có những cái khác nhau về tinh thần, khác nhau về danh vọng và quyền lợi... nên không nhân nhượng nhau... Nhưng cứ cố gắng, trong cố gắng nầy phải có chút nhường nhịn và hi sinh.
Đối với kẻ thù của dân tộc cũng là của chúng ta, thì tôi cố chấp chủ trương: No Forgive & No Forget!
No Forgive! Làm sao Forgive (quên) được khi không có một lời Sám hối về những tội ác tày trời đã xảy ra trong dĩ vảng và nhứt là còn kỳ quyết tiếp tục tội ác trong hiện tại! Và một cách tế nhị, thâm độc hơn, nặng nề hơn...làm tan nát đến ung thúi hiện tại mà còn làm hư hại cả tường lai!
No forgive thì No Forget là lẽ tất nhiên! Cho nên phải lên án quý vị lãnh đạo tôn giáo đem Từ bi và cha cố đem Bác ái ra rao giảng nguợc lại, theo tôi đó là ru ngủ nhân dân đồng bào của mình, cũng là khuyến khích CSVN, nếu không nói là tay sai hay bị mua chuộc. Đối với CSVN chỉ có Công lý là phải nói phải đòi hỏi, kỳ dư Bác ái hay Từ bi mà không có Công lý thì chỉ là gian dối giả hình giả đạo lươn lẹo... cần phải vứt đi! Xin quý cha cố và các thầy lưu ý cho điều đó vì luật Chúa và luật nhà Phật có nói rõ : Không Công lý, không công bằng là có tội, không Bác ái không Từ bi chưa phải là tội. Tôi học và tôi hiểu luật tôn giáo là vậy không thế khác hơn được! Nhân loại từ tiền sử qua bộ lạc đến phong kiến và tư bản... đều cần Công lý hơn là Từ bi hơn là Bác ái. Không có Công lý không có Hòa bình, không có phát triển, không có an cư lạc nghiệp. Cộng sàn VN là Giặc, là kẻ cướp, cuớp cả mạng sống, cướp cả linh hồn của dân tộc, làm ung thúi hiện tại, cầm cố, nếu không nói là hủy hoại cả tương lai của dân tộc.

Nếu nói về một ít tội ác của CSVN trong 50 năm qua, mà đã là không có sách nào kể đủ, không thước nào, cân nào đo lường nổi...chúng tôi yêu cầu quý thầy ra biền Đông, thay vì cầu siêu, trong những đêm sấm sét bão bùng ...nên gọi hồn của hơn ba trăm ngàn bộ xương con người VN đang con vật vờ dưới đáy nước, cả mấy ngàn bộ xương còn trăn trở trên đèo heo hút gió ngoài tận Bắc đâu đó không xa mấy các tù Cải tạo hoặc những 5,000 mồ yên mả đẹp của tết Mậu thân 1968 ở Huế và xin hỏi xem các vong linh đó đã và đang đòi gì, Công lý hay từ bi ? Các cha cố cũng thế, khi các cha cố cầu hồn cho người đã chết oan uổng trong đó có cả triệu linh hồn nạn nhân của CSVN nên hỏi xem họ đòi hòi gi với bà con ruột thịt của họ còn sống trên gian trần nầy: Công lý hay Bác ái? Và hơn nữa, có một vong linh nào nhờ các cha các thầy thay mặt họ để rao giảng ''quên hận thù'' với CSVN hay là tất cả đều van xin: ''nếu có Tha thứ thì it ra là đừng bao giờ Quên lãng'', vì tội ác của CSVN là những tội ác với cộng đồng hơn là với cá nhân hay một số cá nhân, vì con số quá lớn quá dã man phải tính hằng ngàn hằng vạn hằng triệu!
Để chứng minh Công lý trên Bác ái trên Từ bi: Không có một nước nào trên thế giới Từ bi Bác ái bằng Mỹ, Từ bi Bác ái của Mỹ phải tính bằng vạn bằng triệu từ 100 năm nay, thế mà trên thế giới hiện giờ có biết bao nhiều người bao nhiêu nước nghèo đói lại ghét Mỹ. Tại sao? Chỉ vì Mỹ bất công một đôi khi, một đôi nơi thôi.
Như thế tức là 1 Công lý nặng bằng trăm bằng ngàn Từ bi Bác ái! Công lý là tuyệt đối Từ bi Bác ái chỉ là Tương đối!
Ở đây chúng tôi cũng xin xác nhận là bổn phận là phải trả thù cho đồng bào, bà con ruột thịt không có nghĩa là ''dent pour dent, oeil pour oeil'' (răng bằng răng, mắt bằng mắt) như người Do Thái và Hồi giáo, mà là vì cùng một dân tộc với nhau, chúng tôi chỉ đòi hỏi một sự sám hối, một sự từ bỏ dứt khoát. Nhưng biết rằng CSVN không bao giờ làm hay muốn làm hai điều đó, cho nên chỉ còn có mỗi một cách là phải tiêu diệt CSVN để báo thù cho dận tộc cho lịch sử! Như thế ''không quên hận thù'' là điều kiện tâm linh tiên quyết để đánh giặc CS. Điều kiện để chiến thắng là Đoàn kết. `

Trong Cộng đồng CC chúng ta, trong gia đình Chạy giặc CS chúng ta, muốn đoàn kết cho được thì phải Forgive và Forget. Được cả hai thì tốt, không được cả hai thi ít ra phải Forgive, một việc chúng ta có thể làm được. Không phải dễ dàng, vì tuy cùng một mẫu số chung là Tị nạn CS, một lịch sử chung là Chạy giặc CS nhưng còn có thành kiến đối chọi nhau, nhân sinh quan khác nhau, nhứt là đạo giáo khác nhau, nhưng thiết nghĩ có thể làm được, vì trước một lực lượng thù địch ''không đội chung trời'' và ''một mất một còn'' nếu không đoàn kết thì là chết, cá nhân thì vẹn toàn ở Hải ngoại, chết là chết cho bà còn ruột thịt ở lại nhà, chết là chết cho văn hóa, cho cả sinh mạng của dân tộc, chết là chết cho đất nước, khi không còn mang tên VN hiển hách và tốt đẹp nữa!
Đến đây thì quý Cha quý Thầy nên và phải thuyết pháp hay gieo rãi từ bi/ bác ái và sẽ thu hoạch nhiều huê lợi hơn vì sẵn có một môi trường một đồng ruộng đầy đủ Urea, Calcium và Phosphate (tình tự Dân tộc, tình tự Gia đình và Tín ngưỡng).

Kết luận: đối với CSVN thì luôn luôn phải đòi Công lý cho kỳ được. Biết rằng không bao giò đòi được thì phải tìm mọi cách để thanh toán. Chì có vậy thôi!
Delenda Est! Carthago!

Huỳnh văn Lang

3 thg 11, 2011

Luận đề Ngô Đình Nhu và nhận định giải pháp chính trị Việt Nam



Luận đề Ngô Đình Nhu và nhận định giải pháp chính trị Việt Nam
Nguyễn Duy Thành

Nhân loại qua được giai đoạn hồng hoang để tấn tới thế giới ổn định như ngày nay thì công lao đóng góp bởi các vĩ nhân của từng quốc gia thật đáng ghi nhận.

Nhưng hơn hẳn các bậc vĩ tài đã thấy, Ngô Đình Nhu đã để lại cho Việt tộc của ông một tiến trình kiến quốc và giữ nước bằng sử liệu, mà hiếm thấy ai đó trong thiên hạ có biệt tài tiên tri được trăm năm sau về số phận của một quốc gia, như chính ông!

Tất cả hùng tâm đại chí và binh thao chính lược của nhà tư tưởng uyên bác này đã được cô đọng và đúc đặc trong đại chánh tác:

CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM

Trân trọng nhận xét rằng: Hôm nay, hay mai đây, cho dẫu Việt Nam thuộc thể chế nào ; các nguyên thủ quốc gia hùng tài vĩ lược đến đâu; nhưng 2 lãnh vực quân sự và chính trị không trải qua thực nghiệm như công trình nghiên cứu của Ngô tiên sinh, thì cái họa xâm lấn của người Phương Bắc vẫn treo lơ lửng trên đầu dân tộc!

Hãy cùng nhau nghiệm kỹ suy sâu một đoạn nhận định của ông để chứng minh sau 50 năm, Ngô Đình Nhu đã hóa người thiên cổ nhưng nỗi lo xa về ngày vong quốc trong nhãn lực của ông đã vận vào mệnh nước hôm nay, rằng:

«… Sự chia đôi lãnh thổ đã tạo thành hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. (..) Các lãnh đạo miền Bắc, khi đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa hình thành, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm lối thoát cho các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nay họ vẫn tiếp tục ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng.

Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc, và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa..(..)»

Nhận định xưa, nay thành sự thật, hiện tình bi quan và e ngại là chánh sự quốc gia đang trong vòng bế tắc, mà luận khảo của người xưa là sinh lộ cứu quốc nhưng ít ai màng tưởng đến !

Ngộ từ ý trên, xin vịn vào một phần trong lý thuyết chính trị của ông Ngô Đình Nhu, ngõ hầu trình ra vài điểm căn bản thực tế với tình hình chính trị Việt Nam hiện nay. Mong may ra, ai đó cao kiến mà tìm ra giải pháp để quê hương sớm được minh thời!

Vậy, tiền đề cùng nhau tham luận là:

XÁC QUYẾT QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ CỦA QUỐC GIA THEO ĐỊA LÝ CHÍNH TRỊ CỦA QUỐC GIA.

Rất khác với quan niệm của các chính trị gia đương thời, về Trung Hoa, ông Ngô Đình Nhu quả quyết kết luận bằng quá trình lịch sử của dân tộc, rất khoa học và tâm lý, ông lý giải là:

«(..) Trong lịch sử bang giao giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ.

(..) Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị, và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triếu cống của chúng ta. Ngay mà những lúc quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.(..)

Họa xâm lăng de dọa dân tộc chúng ta đến nỗi trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta, và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi tâm lý thuộc quốc..(..) Và để đối phó lại, các nhà lãnh đạo chúng ta chỉ có 2 con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam (..)

Ảnh hưởng «Tâm Lý Thuộc Quốc» từ cổ sử kéo dài đến thời cận đại, rồi tiếp nối tới thời hiện đại ngày nay, thì một cách nhìn khác của ông Ngô Đình Nhu về đường lối- chủ trương, xa hơn là học thuyết Cộng Sản mà bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội vẫn cố bám với Trung Cộng, theo ông Nhu thì:

«(..) Sự phát triển của một nước nhỏ như quốc gia Việt Nam, không dễ trở thành một sự de dọa cho ai cả, và do đó, sẽ không tạo một phản ứng thù nghịch nào có thể gây trở lực cho công cuộc phát triển của chúng ta.(..) Trong khi đó, sự phát triển của một khối dân, như khối dân Trung Cộng, tự nó sẽ là một sự de dọa cho tất cả thế giới, dầu mà các nhà lãnh đạo Trung Cộng không có tham vọng như hiện nay. Và đương nhiên, những phản ứng thù nghịch sinh ra khắp nơi và dựng lên vô số trở lực cho công cuộc phát triển.(..) …Như vậy thì, sự gắn liền vận mạng của Việt Nam với vận mạng của Trung cộng, trong giai đoạn phát triển hiện nay, là một hành động di hại cho dân tộc.

(..) Nếu đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết, thì không có một lý nào có thể bênh vực được sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng. Chỉ có một sự lệ thuộc về lý thuyết, mà thật ra Trung Cộng xem như là một phương tiện, mới có thể mù quáng hy sinh quyền lợi của dân tộc Việt Nam cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo Trung Cộng ý thức sung mãn tâm lý đó ngày nay, cũng như Nga Sô ý thức sung mãn tâm lý đó trước đây. Vì vậy cho nên, Trung Cộng nỗ lực khai thác lý thuyết Các Mác- Lê nin quy tụ những người dễ bị ma lực cám dỗ, với mục đích cuối cùng là hậu thuẫn cho công cuộc phát triển Hán Tộc (..)

Từ các luận điểm mà ông Ngô Đình Nhu đưa ra, chứng tỏ rằng với địa lý sát nách Trung Hoa, thì quan điểm chính trị cũng như đường lối của đảng cộng sản Việt Nam là nguồn gốc dẫn đến họa xâm lăng của người Phương Bắc.

Như vậy để quốc gia tránh được ngoại xâm, và dân tộc được phát triển thì ý kiến của ông Ngô Đình Nhu như thế nào ?

Nếu dựa vào lý thuyết của ông và liên hệ thực tế tình hình hiện nay thì có thể khái quát chung bằng tiêu đề quan trọng là:

Ý THỨC NGOẠI XÂM VÀ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC

Trong sách sử hay đời sống thường nhật, người Việt thường tự hào là một dân tộc anh dũng thắng giặc ngoại xâm phương Bắc. Có người lập luận rằng, sở dĩ Việt Tộc viết nên được thiên anh hùng ca đó, là nhờ mọi người nồng nàn yêu nước hay căm thù giặc cao độ. Cũng không ít người cho là vì lẽ này, hay lý kia. Nhưng chẳng mấy ai đặt ra câu hỏi: Động lực nào đã quy tụ được các yếu tố căn bản nói trên thành một mối cho công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc?

Vì vấn đề này, trong lý luận chính trị của mình, ông Ngô Đình Nhu xác định ngay:

« (..) Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng (..) Đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhất, và điều kiện thiết yếu nhất để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo (..) »

Ngoài điều kiện thiết yếu nói trên, sau khi phân tích toàn bộ các quốc gia có cùng hoàn cảnh, đặc biệt một số điểm yếu và mạnh trong dòng sinh mệnh lịch sử Việt Nam, Ngô tiên sinh chỉ giáo thêm rằng:

«(..) Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ, lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ..(..)

Và rất bất ngờ, nhưng vô cùng cao thâm mà xưa nay ít có nhà sử học hay nghiên cứu nào đặt ra các câu hỏi như ông Ngô Đình Nhu:

(..) Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc khoáng đạt hơn(…) Một câu hỏi chúng ta không thể tránh được: Chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển được? (..)

Và ông nói một câu hết sức yếm thế mà lịch sử Việt Nam chưa ai từng nói hay và đúng như hiện trạng của quốc gia, rằng:

(..) Chúng ta đã bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta..(..)


Là bậc trí giả khiêm hiền, ông Cố vấn nhẹ nhàng đặt câu hỏi như thế! Nhưng thật nặng nề khi nhìn lại một chiều dài lịch sử của quê hương mãi cứ quẩn quanh trong « bế quan tỏa cảng». Với 36 năm trôi qua, chiến tranh kết thúc nhưng nền ngoại giao của đảng cộng sản Việt Nam cũng không vượt ra ngoài « cái khung» của Triều Nguyễn. Đến tận bây giờ khi tình hình như «nước nhảy lên bờ», thì giới cầm quyền Hà Nội mới cầu cứu khắp nơi để mong Trung Cộng giảm thiểu áp lực; mà lẽ ra, cánh cửa ngoại giao nên mở toang ra từ ngay ngày kết thúc cuộc chiến!

Nếu tình hình đã là như vậy, thì liệu rằng trong: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM, ông Ngô Đình Nhu có « quân sư» được gì cho hiện trạng chính trị này, ngoài 2 yếu tố: Lãnh đạo+ Ngoại giao vừa nói trên ?

Trả lời cho câu hỏi quan trọng này nếu dựa theo đề cương chính trị của ông, thì việc nhãn tiền phải làm là:

VIỆT NAM CẦN TÂY PHƯƠNG HÓA TOÀN DIỆN ĐỂ GIỮ NƯỚC

Nhận xét một cách khách quan thì giới đương quyền Việt Nam đang đi theo lý thuyết chính trị của ông Ngô Đình Nhu. Nhưng họ đã làm sai!

Mà may thay, dân tộc Việt Nam sẽ vươn lên từ sự sai sót này!

Muốn biết điểm đặc biệt đáng chú ý đó thì liên hệ thực tế sẽ thấy giới cầm quyền Hà Nội đang mua sắm khí cụ khắp nơi, và nhờ cậy nhiều quốc gia đào tạo chuyên viên quân sự. Về lãnh vực này, 50 năm trước, nhìn dòng lịch sử thế giới đi qua, ông Ngô Đình Nhu bàn rằng:

«(..) Chúng ta chiến bại vì vũ khí của chúng ta kém về độ tinh xảo và quân đội chúng ta thua về tổ chức. Vậy, để chống lại địch thủ một cách hiệu quả và lâm thời thắng địch thủ, chúng ta chỉ cần học, một là kỹ thuật sử dụng vũ khí tối tân, hai là tổ chức quân đội theo Tây phương. Với hai khí giới đó, chúng ta có thể hy vọng thắng địch để bảo vệ được các tiêu chuẩn giá trị truyền thống của xã hội chúng ta. (..) Như thế có nghĩa là chúng ta chỉ canh tân quân trang và cải tổ quân đội là đủ. Mọi cơ cấu khác trong xã hội giữ nguyên vẹn. Đây gọi là sự Tây phương hóa có giới hạn.(.. »

Nghĩa là, hiện nay đảng cộng sản Việt Nam bắt tay với Mỹ-Pháp- Ấn Độ -Nhật-Nga v.v.. nhằm nhờ họ hiện đại hóa quân đội để bảo vệ đảng, cũng như tìm mọi cách để «đối trọng» với áp lực của Bắc Kinh. Còn mọi khai hóa và cải cách về xã hội với chính trị để nâng cao dân chủ cùng dân trí cho toàn dân thì nhà nước vẫn muốn duy trì nguyên trạng.

Nhưng, với hình thức Tây phương hóa có giới hạn như thế sẽ đưa nhà cầm quyền Việt Nam đến chỗ thất bại, có khi là sụp đổ chế độ. Bởi, kinh nghiệm qua nghiên cứu thì ông Ngô Đình Nhu «lắc đầu», rồi nói rằng:

«(..) Muốn nuôi dưỡng một lực lượng quân sự đã được canh tân (..) Và muốn gieo cho người chiến binh một sức mạnh tinh thần như người chiến binh Tây phương, lại phải tạo cho họ hoàn cảnh xã hội tương tự, nghĩa là phải cải tạo xã hội. Mà cải tạo xã hội thì phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn cũ, điều mà các lãnh đạo không dự định làm và cũng không muốn làm, vì sở dĩ, các nhà lãnh đạo này chủ trương canh tân quân đội là với mục đích bảo vệ các giá trị truyền thống cũ của xã hội họ.(..) »

Với trường hợp của quân đội cộng sản Việt Nam hiện nay cũng nằm trong hoàn cảnh nêu trên. Về mặt chủ quan, các lãnh đạo đảng tin rằng quân đội và công an sẽ nhất quán «trung với đảng, hiếu với dân»! Nhưng nếu xét theo lời bàn tiếp theo của Ngô tiên sinh thì sự tác động của khách quan sẽ làm đảo lộn mọi vấn đề, mà theo kinh nghiệm khảo cứu thì ông Cố vấn lý luận thêm:

«(..) Sự canh tân quân đội lại đương nhiên mang đến một hậu quả khác mà các nhà lãnh đạo cũng không ngờ. Những người muốn học về tổ chức quân đội Tây phương, trước tiên phải học ngôn ngữ Tây phương. (..) Nhưng khi đọc được ngôn ngữ của Tây phương rồi, thì không làm thế nào cấm họ đọc các sách khác của Tây phương trong nhiều lĩnh vực khác: Chính trị, văn hóa, hay xã hội. Do đó, và vì đã sẵn trong đầu sự cảm phục chính đáng đối với Tây phương trong lãnh vực quân sự, những người này tự nhiên nảy ra sự cảm phục Tây phương trong lãnh vực xã hội, chính trị. (..) Như vậy, họ tin rằng không thể nào có được một quân đội hùng mạnh theo mới, mà không có một tổ chức xã hội và chính trị theo mới. Và chính những người này sẽ biến thành những cái mầm của cuộc cách mạng chính trị và xã hội sau này.(..).

(..) Nếu các nhà lãnh đạo lại dùng bạo quyền như đã xảy ra ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ hồi đầu thế kỷ hai mươi, để hoặc là bãi bỏ công việc theo mới hoặc là ngưng cuộc canh tân trong những giới hạn họ muốn, mặc dù họ biết rằng hành động như vậy vẫn không cho phép họ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ, thì lực lượng cách mạng, lãnh đạo do những người hấp thụ được, chẳng những kỹ thuật quân sự mới, mà lại thêm những tư tưởng chính trị và xã hội mới, sẽ nổi lên lật đổ các nhà lãnh đạo này..(..) »

Xét theo lý luận chính trị của ông Ngô Đình Nhu, thì việc tân trang quân đội của giới cầm quyền Việt Nam hiện nay đang chứa đựng một sự tiềm ẩn về binh biến, hay nói theo cách lo sợ của đảng cộng sản Việt Nam, là sớm hay muộn cũng sẽ có «diễn biến hòa bình», cũng có khi «bất hòa bình»!

Và lý luận trên cũng chứng tỏ rằng, mỗi khi hệ thống cầm quyền quyết định chính sách cải cách, thì việc cải cách đó phải toàn diện và sâu rộng trên mọi lãnh vực, không thể và không thế nào thành công khi công cuộc cải cách mang tính « nửa vời» như một số chính sách «đổi mới hay mở cửa», mà nhà nước Việt cộng đã thực hiện nhưng không hiệu quả, trái lại, mức độ thiệt hại vì phản ứng ngược lại mà hậu quả đó còn ảnh hưởng tới ngày nay trên một số phương diện kinh tế, chính trị và an ninh của quốc gia cũng như tình tự dân tộc!

Do vậy, có thể hiểu hai chữ Tây phương mà ông Cố vấn đề cập vào 50 năm trước, nghĩa là nói đến Triều đại nhà Nguyễn đã bỏ lỡ cơ hội khi người Pháp bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam! Nhìn từ khung cảnh chính trị thời đó để liên hệ đến thực trạng hôm nay, khi người Mỹ đang tuyên bố trở lại Đông Nam Á, và Việt Nam là quốc gia có địa lý chiến lược cũng như chứng cứ pháp lý mạnh nhất về Biển – Đảo mà Hoa Kỳ đang muốn liên kết..! Hay nói cách khác là Việt Nam đang đứng trước một cơ hội tốt.! Và nếu, người lãnh đạo quốc gia biết cách tận dụng cơ hội này thì Việt Nam sẽ thoát được vòng kiềm tỏa của Trung cộng..! Về chính sách đối ngoại qua quan niệm khai hóa và cải cách cho quốc gia thì lời của ông Ngô Đình Nhu càng chí lý càng tha thiết, rằng:

« (..) Đứng trước sự tấn công của Tây phương, con đường chết là con đường bế quan tỏa cảng ngăn cấm không cho Tây phương xâm nhập vào xã hội của nước bị tấn công; con đường sống lại là con đường mở cửa đón rước văn minh Tây phương (..) Bởi vì công cuộc phát triển dân tộc bằng Tây phương hóa là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của dân tộc. (..) Trong hoàn cảnh đó nếu người lãnh đạo không quả quyết tin vào công cuộc phát triển, nếu toàn dân không tin rằng công cuộc phát triển là con đường sống duy nhất của dân tộc, thì công cuộc phát triển không sao thực hiện được
.

Vì vậy cho nên, một điều vô cùng thiết yếu là sự tin tưởng rằng, công cuộc phát triển dân tộc bằng Tây phương hóa là một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được và ngoài công cuộc phát triển, dân tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai. (..)

Tại sao lý luận của ông Ngô Đình Nhu gần như trở thành một Định Nghĩa là, ngoài công cuộc Tây phương hóa thì Việt Nam không còn một lối thoát thứ hai?

Như trên đã nói, phần lãnh đạo và ngoại giao tuy quan trọng trong công cuộc giữ nước và kiến quốc. Nhưng, về lâu dài để một quốc gia nhỏ bé như Việt Nam có thể trụ vững trước một đất nước đầy tham vọng bành trướng như Trung Cộng, thì nội lực phát triển dân tộc mới là điểm chính.

Tuy nhiên, sau các phân tích lý lẽ chính trị nhằm tạo thành một luận điểm chung. Mà tin rằng, toàn dân Việt Nam hiện nay đều mong mỏi theo ý như ông Ngô Đình Nhu là phải : Tây hóa để chống Tàu.

Nhưng hoàn cảnh khắc nghiệt hiện nay của dân tộc Việt Nam là bị chế độ độc tài khống chế, và tập đoàn thống trị này đang hoàn toàn phụ thuộc và khiếp sợ bởi ảnh hưởng của Tàu Cộng.

Nếu quốc gia lâm vào hoàn cảnh như thế, thì liệu rằng trong luận cương chính trị của ông Ngô Đình Nhu có giải pháp gì nhằm khai thông sự bế tắc chính trị hiện nay để toàn dân cùng nhau giữ nước?

Câu hỏi thật khó như hai ngàn năm trước Lưu Bị hỏi Gia Cát Khổng Minh:

- «Liệu phải mất bao lâu thì Tiên sinh giúp ta bình thiên hạ?»

Vâng! Câu hỏi khó như lên trời; nhưng không có nghĩa là không có sự lý giải! Vì nếu cặn kẽ nhìn lại lịch sử những tháng ngày cuối cùng của chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa do chính ông góp tay dựng nên, t đó, liên hệ đến cục diện hôm nay của đảng cộng sản Việt Nam thì sẽ tìm ra câu trả lời của ông Ngô Đình Nhu, mà có thể luận giải là:

NẾU “THUỘC TÀU” KHÔNG “TÂY HÓA” THÌ SỤP ĐỔ CHẾ ĐỘ

Tuy điều kiện lịch sử cũng như thể chế chính trị của thời đó, và nay, tuy khác xa hoàn toàn. Nhưng có hai điểm giống nhau:

1) Sự áp lực khắc nghiệt mà lãnh đạo quốc gia đang + sẽ phải đối diện .

2) Cùng chịu chung (và vẫn là) sự tác động đến từ ngoại bang Trung – Mỹ!

Từ 2 điểm chính này, mà dường như, lịch sử đang lặp lại! có thể đặt ra vài câu hỏi để lạm xét vấn đề là:

Vì sao năm xưa ông Ngô Đình Nhu cùng thứ huynh của ông là Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải bị thảm sát ??? Ai cũng trả lời được câu hỏi này!

Nhưng nếu Tổng Thống Ngô Đình Diệm chuyện gì cũng gật đầu nghe lời ngoại bang thì có bị thảm sát không?

Vì sao sẽ không chết?

Vì sao ông không chịu gật đầu?

Lý luận để trả lời tùy theo quan niệm mà 47 năm rồi chưa dứt cơn bàn cãi!

Nhưng, hôm nay giới đương quyền Việt Nam cũng đang đứng trước: « Đèn Vàng»!

Hơn 60 năm rồi quẹo tới quanh lui cũng trong: «Đèn Đỏ»!

Bây giờ có Hoa Kỳ đưa tay bấm nút: «Đèn xanh»!

Chạy về phía nào đây!?

Cả dân tộc đều đồng thanh «Đèn Xanh» để dân chủ hóa và giữ nước!

Nhưng cái đầu của con tàu vẫn cứ lắc..lắc..lư ..lư.. .. Vì không muốn bỏ.. «Đèn Đỏ», nhưng cũng không muốn hụt mất.. «Đèn Xanh»!

Hiện trạng quốc gia Việt Nam cũng như vậy đó! Cái đầu tàu chính là các nhà lãnh đạo VNCS không muốn từ bỏ Trung Cộng vì sợ mất đảng và tư lợi!

Nhưng có lẽ rồi cũng đến lúc; mọi người trên con tàu ấy sẽ bước xuống để cùng nhau tiến xô đẩy con tàu! Nếu thế, và cục diện sẽ xảy ra như thế, thì chính giới đương quyền Việt Nam hiện đang và sẽ tự đặt mình vào lý luận của ông Ngô Đình Nhu, là:

« ..(..) Những người lãnh đạo bao giờ cũng hành động theo một triết lý chính trị mà họ đã nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang ra thực hành. Nếu khi đụng chạm với thực tế, những tư tưởng đang hướng dẫn hành động của họ đã tỏ ra sai lạc, hay vì hoàn cảnh bên ngoài đã biến đổi nên không còn phù hợp với những tư tưởng ấy nữa thì cần phải có một sự thay đổi ngay, nhưng thay đổi như thế nào?

Người lãnh đạo phải thay đổi tư tưởng, hay phải thay đổi người lãnh đạo? (..)

Càng phân tích về lý luận chính trị của cố vấn Ngô Đình Nhu để liên hệ với hiện chính Việt Nam thì càng hấp dẫn bởi tính hợp lý và linh động trong lý thuyết chính trị của ông!

Một điều ngạc nhiên nhưng khâm phục vô bờ khi nghiên cứu luận cương chính trị của bậc triết phu này, là ngay cả, lý thuyết gia như ông viết ra lập thuyết nhưng cũng không ngờ rằng: Đã có ngày … ! Chính tính mạng của ông phải trả lời các nan đề trong khối lý thuyết của chính ông!

Hiếm có tư liệu nói đến! Nhưng có thể võ đoán rằng, ông Cố vấn và Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã dứt khoát không suy nghĩ đến vế thứ nhất của câu hỏi là:

«Người lãnh đạo phải thay đổi tư tưởng».

Bởi rằng, nếu tham khảo thật kỹ toàn bộ từng chương, từng phần của: CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM, thì có thể nói: Trải dài trong 9 năm, từ lúc giúp thứ Huynh của ông là Ngô Đình Diệm xây nền móng thể chế Cộng Hòa, cho đến lúc chế độ sụp đổ, ông Ngô Đình Nhu đã có bắt đầu.. ! Nhưng chưa hoàn thành được một số điểm căn bản quan trọng mang tính chiến lược lâu dài do ông vạch ra, ngoại trừ thành công được một số mặt về bình định và dân sinh. Điều này cũng thật dễ hiểu vì chính phủ mà ông phụng vụ phải chịu quá nhiều áp lực, nhất là từ phía Hoa Kỳ, cũng như phá hoại từ Miền Bắc tác động vào!

Tuy nhiên, một quan điểm chính trị hết sức rõ ràng được thể hiện qua từng chi tiết trong việc hướng dẫn giữ nước và kiến quốc: Là ông Ngô Đình Nhu chỉ muốn dựa vào sự viện trợ của Hoa Kỳ để cường thịnh quốc gia trên toàn phương diện, và cũng từ nỗ lực của chính phủ cùng sự hợp tác của toàn dân, ông tin tưởng rằng Miền Nam cũng sẽ vững mạnh như Nhật Bản v.v..

Đồng thời, ông trọng kính kêu gọi lãnh đạo Miền Bắc hãy lợi dụng sự viện trợ dồi dào của Nga Sô và Trung Cộng để tái thiết quê hương, và chớ nên phá hoại miền Nam theo chủ trương xâm lấn của Trung Cộng. Trên tinh thần dân tộc đó, Ngô Đình Nhu cũng đã Kế Hoạch một công cuộc kiến quốc cho cả 2 miền, nếu thống nhất! ( nhận xét theo nội dung của Sách).

Hoặc, có thể kết luận rằng : Tư tưởng Ngô Đình Nhu hay Chính phủ của Ngô Đình Diệm mong muốn xây dựng quốc gia theo quan điểm: Chính Trị Trung Lập, vào thời đó.

Một quan điểm chính trị mà ngày nay đảng cộng sản Việt Nam đang muốn thể hiện, qua tuyên bố: 3 Không của Thứ trưởng quân đội Việt cộng Nguyễn Chí Vịnh khi trả lời báo chí, là:

1) Không tham gia các liên minh quân sự, hoặc đồng minh quân sự của bất cứ nước nào.

2) Không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam.

3) Không dựa vào nước này để chống nước kia.

Từ một số luận giải quốc sự thuộc quá khứ và hiện tại như vừa nêu để đầy đủ hiểu rằng: Dù năm xưa là Tổng Thống Ngô Đình Diệm, hay hiện tại là các lãnh đạo Việt Nam vẫn rơi vào tình trạng: Người Lãnh Đạo Không Thay Đổi Tư Tưởng, dù vì mục đích gì!

Qua một phần phân tích tuy hạn hữu nhưng cũng đủ để hiểu toàn bộ cục diện chính trị xưa, và nay, của từng thể chế đang chịu tác động bởi các cường quốc trong 2 giai đoạn lịch sử khác nhau của Việt Nam. Để rồi từ đó, có thể đặt ra một câu hỏi nghiêm khắc với lịch sử, cũng như với các nhà lãnh đạo Hà Nội, rằng:

Mọi khả năng nội lực hiện có của quốc gia dưới thể chế tự do năm xưa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cũng như mọi phương diện sẵn sàng của chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay, cả hai, có hội đủ mọi yếu tố để Quân lực được hùng mạnh, Ngoại giao được phóng khoáng, Kinh tế được tự lực, nhằm vững vàng tự chủ một quốc gia có quan điểm: Chính Trị Trung Lập???

Ai nắm chắc được rằng, nếu bị Tây phương cấm vận một lần nữa, thì kinh tế Việt Nam vẫn ổn định cho người dân, không rơi vào tình trạng như Bắc Hàn?

Ai dám vỗ ngực nói rằng, nếu bị xâm lăng thì Quân đội Nhân dân sẽ đánh tan Trung Cộng khi mà kỹ nghệ quốc phòng chưa chế tạo được một loại vũ khí nào; dù là vũ khí cận chiến như Lựu Đạn, Súng ngắn, đạn dược, quân y?

Nếu ấp úng trả lời trước các câu hỏi này rồi, thì từ đó có thể niệm ra khi người lãnh đạo không chịu thay đổi tư tưởng, thì ắt hẳn lý luận tiếp theo của ông Ngô Đình Nhu phải xảy ra là :

PHẢI THAY ĐỔI NGƯỜI LÃNH ĐẠO

(Tức là: phải thay đổi thể chế)

Cố vấn Ngô Đình Nhu luận rằng: «… Kinh nghiệm chỉ rằng không bao giờ người lãnh đạo thay đổi tư tưởng trong lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ phải mất rất nhiều thì giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lý chính trị mà họ chủ trương. Nay nếu nó không phù hợp với hoàn cảnh, họ phải có đủ thì giờ để một là xét vì sao triết lý đó không phù hợp, và hai là, để tìm triết lý khác thay thế vào. Điều mà họ không thể làm được nếu họ vẫn bị hành động lôi cuốn. Vì vậy cho nên yêu cầu một người lãnh đạo thay đổi tư tưởng của họ đang khi hành động là một việc không bao giờ thực hiện được. Giả sử mà họ có thay đổi được thì, việc lãnh đạo sẽ gặp một nguy cơ lớn hơn nữa. Bởi vì thay đổi hấp tấp và không suy nghiệm như vậy, người lãnh đạo sẽ không còn chính là họ nữa, và đương nhiên hiệu quả trong hành động của họ sẽ kém bội phần. Như vậy chỉ còn cách là phải thay đổi lãnh đạo (..)

Tất cả lý lẽ của ông Ngô Đình Nhu rất hợp lý và rõ ràng … !

Nhưng!

Lực lượng nào có thể thay đổi được người lãnh đạo khi chính họ không chịu thay đổi tư tưởng để giữ nước!?

Như đang biết, hiện tại giới lãnh đạo đương thời Việt Nam nằm giữa hai gọng kềm Trung – Mỹ, kèm theo cái «đinh nhọn» là phong trào chống Tàu của trí thức! Hiện cảnh chính trị này cũng giống như những tháng cuối cùng của năm 1963, ông Ngô Đình Nhu và Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng phải đứng giữa 2 gọng kìm Hoa Kỳ – CSVN, kèm theo cái «răng nanh» là các nhóm đối lập..!

Xét lại một đoạn lịch sử năm xưa để nhận định chính tình Việt Nam hôm nay là: Nếu không có thế lực bên ngoài nhúng tay thì dù các phong trào đối lập mạnh đến đâu, có khi …kể cả quân đội tự lực đảo chánh thì kết quả chưa chắc đã thành công!

Vậy, ai có thể móc nối với quân đội?

Và, có nên tạo điều kiện và ủng hộ cho lực lượng này không?

Cũng từ các lý luận nêu trên, cho dù phải đi qua bước nào, thì rốt cuộc, lời của ông Ngô Đình Nhu đã nói là: Tây phương hóa nhưng phải giữ được bản chất dân tộc là mục đích sống còn mà tin rằng mỗi con dân Việt Nam đều khát vọng!

Người ta có thể hoài nghi… rồi loại bỏ… và đả phá chủ thuyết Mác – Lê! Bởi đôi khi, chính 2 ông Mark- Lenin này cũng chẳng biết mình viết ra cái gì đây; để hôm nay người đời phải lập bia tưởng niệm hơn 100 Triệu nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng với lý thuyết chính trị của Ngô Đình Nhu thì rất có giá trị, vì «bảo chứng» cho giá trị đó chính là tính mạng của ông. Hay, trọng kính nhận xét cách khác rằng: Ngô Đình Nhu bị thảm sát nên Lý Thuyết Chính Trị của ông sẽ sống mãi đời đời!

Kết thúc bài viết, xin gởi đến đoạn tâm chí cuối cùng của bậc quốc sĩ chí hiền đã xếp bút trong Đại chánh tác của mình, rằng:

«(..) Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay và trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề của dân tộc Việt Nam, trong thời kỳ này chỉ có thể tìm được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí dân tộc (..) Đương nhiên là vị trí dân tộc mà chúng ta quan niệm không thể là một vị trí dân tộc bế quan tỏa cảng, hẹp và nông như dưới các triều đại quân chủ xưa kia. Vị trí dân tộc mà chúng ta quan niệm là một vị trí dân tộc nằm trong khung cảnh thế giới, với tất cả các dây liên hệ tinh thần và vật chất cần phải có (..) Và vì vậy cho nên, chúng ta thành khẩn mong mỏi các nhà lãnh đạo Miền Bắc, kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của dân tộc, không còn nên sự tiếp tục trụ đóng vào phương tiện cộng sản nữa (..

Đang dịp húy nhật của nhà tư tưởng. Xin hãy cầu nguyện nhân mùa lễ tạ ơn!

Kính chào.

Nguyễn Duy Thành

2 thg 11, 2011

LÁ CỜ



LÁ CỜ
Quan Dương
( tháng 04 năm 2010 tại
Tượng Đài Việt Mỹ thành phố Houston , TX )

Thuở lên rừng xuống biển trèo non
Bạn như tôi
không ai tính đường chiến bại
Giờ sợi tóc đã bạc theo sương gió
như vậy đâu có nghĩa đầu hàng

Tự hỏi lòng.
( hỏi để nhói lòng thêm )
Trí cạn sức cùn theo dòng cơm áo
Đâu chẳng lẽ cuối đời đành thúc thủ
không thể tháo ra một nút thắt cho đờỉ

Kẻ ác tiếm danh lại được thế giới cấp môn bài
Điều nghịch lý nhưng là điều có thực
Nhục đã đủ cạn đau dòng nước mắt
Họ còn muốn độc quyền trùm cờ đỏ lên dân

Dẫu bây giờ gươm đã gãy, súng buông
Kẻ ác truy bức ta tận cùng nghịch lý
Số mệnh đã đành !
Nhưng có thể nào di lụy
cái nghịch lý này để lại đời sau ?

đâu phải kẻ thù giăng địa võng thiên la
là có nghĩa ta không tìm ra sức mạnh
Sáng thức dậy dưới bầu trời lộng nắng
Thấy tung bay phất phới lá cờ vàng

Lá cờ vàng ba sọc đỏ nằm ngang
Màu máu, màu da của dân tôi ba miền trộn lại
Là quê hương là lời sông núi
Là máu xương mấy chục triệu đồng bào

Là lời gào khẩn thiết hai tiếng : tự do
Bao lớp người đi bao lớp người gục ngã
( có cuộc chiến nào không kèm theo cổ lụy
không có khát vọng nào là được biếu không )

"Hãy quì xuống các sinh viên sĩ quan"
Khi đứng dậy vươn vai thành Phù Đổng
Tổ quốc trong ta còn bao điều uất nghẹn
Bụi thời gian đâu dễ nhạt lòng son

"Hãy đứng lên các tân sĩ quan"
Cơn dâu biển là vết nhơ lịch sử
Hãy học lại bắt đầu từ quá khứ
Để trang cuối cùng ta viết tiếp đời sau

Đất nước tôi hiện có hai lá cờ
và một câu tự hỏi
Lá cờ nào là lá cờ chính nghĩa
Dân tộc tôi sẽ có câu trả lời

12 THÁNG ANH ĐI