30 thg 1, 2013

CÒN ĐÂU NỮA QUÊ HƯƠNG ƠI !

Dư Thị Diểm Buồn

Cố hương tôi bây giờ tội nghiệp quá!
Biết chuyện nào thiệt, chuyện giả, tin ai?
Bởi chế độ mị dân và xảo trá...
Những việc oái oăm, nghịch lý thường ngày
Tàu dạy, dân Việt phải bần cùng hóa...
Bắt, cướp, giựt, giết... không cần lý tình
Di tích lịch sử ngàn đời bôi xóa...
Làm theo lịnh, còn quỳ lụy van xin!

Khi đói lừa cả anh, em, cha, mẹ...
Từ đất đai, tiền bạc, đến miếng ăn...
Bán buôn hùn hạp, gạt, gian, mánh khóe
Tráo trở, xảo nguyệt... kể chi công bằng...
Ăn cắp áo, cơm... của người khốn khó
Kẻ hảo tâm ngoài nước gởi về cho
Ở đâu cũng vất vảlàm mới có...
Giúp người túng cùng giá lạnh, chẳng no
Bao nhiêu trẻ em nghèo đành thất học
Vì nhà túng cùng thiếu áo, đói ăn...
Tuổi thơ không có, nói chi tuổi ngọc
Bán thân, nô lệ...đau đớn nặng quằn!
Cộng Tàu muốn nước ta thành cái quận
Sẽ xếp chung vào những nước chư hầu
Dùng mọi cách đểcầm quyền thao túng
Vào rừng tìm ngà, xuống biển mò châu...
Cộng gieo rắc giống quỉ, ma, ung, thúi...
Dối trá, bắt làm, bày, dạy, lưu manh...
Lừa đảo, gạt lường... truyền nghề móc túi
Ngàn năm Văn Hiến... hủy diệt tan tành!
Chúng mở hãng, xưởng, cầu, đường, phố sá...
Cưới vợ, gả chồng, dạy học chữ Hoa
Ăn mặc, tiếng nói, nhạc, phim... đồng hóa
Biến Việt thành Tàu... ngày sẽ không xa!
Bọn ác ôn âm mưu từng bắt, đổi
Những nước láng giềng: Đại Lý, Lệ Giang,
Yến, Sở, Mông... yếu hèn không chống nổi
Chao đảo phản bội chiếm đoạt lân bang...
Nay dân Việt trong tận cùng nghèo khó
Thiếu áo che thân, không có miếng ăn...
Cảnh sống cơ hàn, nhủi chui góc xó...
Tai nạn, đau... nhà thương không chỗ nằm
Bởi chế độ đầy mánh mun xảo trá
Văn hóa, tính ngưỡng,đạo đức... bỏ qua
Tạo xã hội Việt suyđồi, thoái hóa...
Để dễ trị dân buông xả, bê tha...
Đất nước nát tan, bởi cường hào đỏ
Luật của chúng lập ở núi rừng xanh!
Ngành, nghề chia chát cháu, con lớn, nhỏ...
Tiền của chiếm đoạt...đồng chí tranh giành
Như thế mới đúng theo đường lối đảng
Hờn oán ngút trời, tủi nhục riêng mang!
Ý đồ sát nhập Việt Nam thành Hán
Mạt thế... hiện hình cả lũ ác gian
Cộng sản Việt Nam tham ô vô độ...
Hút máu đồng bào... thân ấm phì da
Tội đồ bán nước, hại dân... thiên cổ!
Con cháu chúng sẽ ma bắt, họa tha...
Quê hương tôi ơi! Nay còn đâu nữa!
Thế hệ trẻ niềm tin đã rụi tàn...
Việt Nam gấm vóc là miền đất hứa
Dạ sầu khắc khoải... thương nhớ man man

DƯ THỊ DIỄM BUỒN

28 thg 1, 2013

Ai là tác giả hiệp định Paris

Ngô Nhân Dụng

Khi hiệp định Paris được ký kết, trước đây 40 năm, nhiều người vui mừng, vì ít nhất dân Việt Nam sẽ không chết vì chiến tranh nữa. Nhiều người còn hy vọng đó là một bước rẽ, mở con đường mới cho miền Nam Việt Nam.
Sau cùng, ai cũng biết, đó chỉ là một thủ thuật, dùng trong một giai đoạn, của đảng Cộng Sản Việt Nam trong chương trình chiếm quyền cai trị trên cả nước Việt Nam, với mục đích “đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội”.

Nhưng ngay cả nỗi vui mừng vì cảnh chết chóc chấm dứt cũng biến mất. Người Việt Nam trong vài năm tiếp theo không chết vì chiến tranh thường xuyên nữa, nhưng nhiều người vẫn chết vì sau đó cuộc chiến lại tiếp tục. Số quân nhân hai bên bị tử thương trong cuộc tổng tấn công của Cộng Sản năm 1975 cũng lớn gấp nhiều lần so với khi chiến tranh còn tiếp diễn. Số người chết trên đường vượt biển còn lớn hơn số thường dân chết trong một năm chiến tranh. Chưa kể nỗi đau thương của bao nhiêu gia đình bị đẩy đi vùng kinh tế mới hoặc có người bị đi tù cải tạo. Và chiến tranh lại tiếp diễn ở Campuchia với 50 ngàn thanh niên Việt Nam bỏ xác, và ở biên giới Hoa-Việt, mà con số thương vong không bao giờ được công bố.

Số phận của những người dân miền Nam Việt Nam đã được quyết định trước đó nhiều năm. Năm 1968, trong khi đang tranh cử tổng thống Mỹ, ông Richard Nixon đã cho cố vấn là Henri Kissinger đến gặp đại sứ Nga ở Washington đề nghị giới lãnh đạo Nga Xô đừng làm trò gì ảnh hưởng đến cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc. Kissinger trình bày trước lập trường của ông chủ mình về bang giao Nga-Mỹ; trong đó ông ta đặc biệt nhấn mạnh: Nếu đắc cử, ông Nixon sẽ rút quân khỏi Việt Nam; sau đó chế độ chính trị ở miền Nam ra sao không quan trọng, dù có một chính quyền Cộng Sản. Ðiều này, ông Kissinger còn lập lại khi đến thăm Ðại Sứ Anatoly Dobrynin sau khi ông Nixon thắng và chưa tuyên thệ nhậm chức.

Hiệp định Paris cũng chỉ là một văn kiện để giúp Tổng Thống Richard Nixon rút quân ra khỏi Việt Nam một cách chính thức, nghĩa là vẫn giữ được thể diện. Năm 1972 nước Mỹ bầu tổng thống, và ông Richard Nixon cần tái đắc cử, nhờ thành tích chấm dứt cuộc chiến tranh quá dài mà dân Mỹ bắt đầu thấy chán. Nixon sai Kissinger thu xếp để tiến tới hiệp định Paris trước khi dân Mỹ bỏ phiếu.

Trong cuộc thu xếp này, Nixon được Mao Trạch Ðông hỗ trợ. Trước năm 1970, Mao rất căm hận Nixon vì ông tổng thống Mỹ chỉ chú ý nói chuyện với Moskva mà không quan tâm đến Bắc Kinh; coi Mao chỉ là một lãnh tụ Cộng Sản hạng nhì. Trong một cuộc chuyện trò với Phạm Văn Ðồng, Mao hỏi: “Tại sao bọn Mỹ không làm rùm beng lên về chuyện có 100,000 quân đội Trung Quốc đang xây dựng đường xe lửa, đường bộ, và phi trường ở Việt Nam, mặc dù chúng biết sự kiện này?” Phạm Văn Ðồng nói vuốt đuôi: “Vì chúng nó sợ!” Nhưng chúng ta cũng biết rằng ngay từ khi chiến tranh bắt đầu, các chính quyền Mỹ đã cam kết với Trung Quốc là họ sẽ không bao giờ gửi quân đội Mỹ và cũng không để cho quân đội miền Nam tiến ra Bắc Việt. Chính quyền Mỹ lờ đi như không biết có quân đội Trung Cộng ở ngoài Bắc, vì nói ra sẽ làm cho bài toán rắc rối hơn, ngay trong khung cảnh chính trị nội bộ của Mỹ. Mao Trạch Ðông còn tỏ ý bất bình, nói với Phạm Văn Ðồng rằng “Tại sao bọn Mỹ chúng nó lại ước tính số binh sĩ Trung Quốc ở Việt Nam ít hơn sự thật như vậy?”

Tháng 11 năm 1970 Chu Ân Lai được lệnh bắn tin qua các nhà ngoại giao Rumania là nếu Nixon muốn thăm Trung Quốc thì sẽ được mời. Nixon bảo Kissinger đừng tỏ ý muốn đi vội vàng quá, cuối tháng 2 Kissinger mới bắn tiếng lại, tỏ ý thân thiện nhưng không nói gì đến việc Nixon có thể sang Tàu. Tháng 3 năm 1971, các cầu thủ bóng bàn Trung Quốc gặp các cầu thủ Mỹ ở Nhật Bản, và khi đi chung một chuyến xe buýt, tay vợt Mỹ Glenn Cowan đã bắt tay nhà vô địch Trung Quốc Trang Tắc Ðống (Zhuang Zédòng), nói muốn sang thăm Trung Quốc. Mao Trạch Ðông đã bắt lấy ý đó, ra lệnh mời các cầu thủ Mỹ qua Tàu! Sau đó, Kissinger đi đêm để chuẩn bị chuyến Nixon sang Tàu năm đầu 1972.

Trong chuyến thăm bí mật năm 1971, Kissinger đã hứa hẹn với Chu Ân Lai rằng Mỹ sẽ cung cấp cho Trung Quốc các tin tức tình báo về hoạt động của quân Nga ở vùng biên giới Nga-Hoa. Ông cũng cam kết Mỹ sẽ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, mà ông phác họa một thời biểu là trong vòng 12 tháng. Lúc đó là tháng 7 năm 1971, sáu tháng trước khi Mỹ ký hiệp định Paris, mà chính Kissinger cũng không biết chắc là sẽ có một hiệp định hay không. Vì vậy, Kissinger đã nói thẳng với Chu Ân Lai là dù không có thỏa hiệp nào thì chính phủ Nixon cũng đơn phương rút quân, và không bao giờ trở lại Việt Nam nữa, bỏ rơi luôn chính quyền miền Nam Việt Nam. Kissinger nói rõ ràng: “Sau khi hòa bình rồi, người Mỹ chúng tôi sẽ ở xa Việt Nam cả vạn dặm, còn Hà Nội thì vẫn ở đó.” Những chi tiết này được kể lại trong một sách của William Burr, năm 2002 (The Bejing - Washington Back Channel); kể chuyện các chuyến đi bí mật của Kissinger năm 1970, 71; sách này nằm trong tài liệu điện tử của cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ NSA; được thuật lại trong sách MAO, của Jung Chang và Jon Halliday, 2005.

Nixon đã toại nguyện, vì Mao sẵn sàng giúp ông tái đắc cử. Dưới sức ép của Mao, Bắc Việt chịu ký tên vào bản hiệp định Paris. Quân Mỹ rút về “trong danh dự”. Nhưng số phận Nixon lại bị quyết định do một xì căng đan chính ông ta gây ra; khiến ông phải từ chức khi Quốc Hội Mỹ chuẩn bị đàn hạch và truất phế, vào năm 1974. Người thương tiếc Nixon nhất lại là Mao Trạch Ðông. Mao nhắn tin qua bà Imelda Marcos mời Nixon qua chơi. Năm 1975, Mao sai mời con gái Nixon là Julie và chồng qua Tàu, Mao lại nói với cô con bảo nói với bố rằng “Tôi nhớ ông ấy lắm.” Tháng 2 năm 1976, Mao đưa một chiếc máy bay Boeing 707 sang tận Los Angeles đón Nixon qua uống trà; bảy tháng sau thì Mao chết.

Bản hiệp định Paris cuối cùng là kết quả của cuộc gặp gỡ giữa Nixon và Mao. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không thể làm gì được, khi nước đồng minh lớn nhất đã bỏ rơi. Cộng Sản miền Bắc đã được Moskva và Bắc Kinh báo cho biết trước Mỹ sẽ rút quân, trong khi vũ khí của Nga vẫn đổ sang ngày càng nhiều, họ nắm chắc phần thắng. Nhưng họ vẫn phải đặt bút ký vì Mao Trạch Ðông muốn tặng Nixon một món quà. Cộng Sản miền Bắc cũng cần một thời gian chuẩn bị để đánh một trận chót, cho nên hiệp định Paris cũng là một bước nghỉ chân.

Những người lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa chắc không ai biết gì về những lời Kissinger đã hứa với Dobrynin hay với Chu Ân Lai. Người dân miền Nam lại càng không biết gì cả. Bao nhiêu chiến sĩ đã bỏ mình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Bao nhiêu đồng bào tử nạn trên đường vượt biển. Nhắc lại 40 năm hiệp định Paris, chúng ta hãy thắp nhang tưởng nhớ họ, đó là cách kỷ niệm có ý nghĩa nhất. Bài học của một dân tộc nhược tiểu là đừng bao giờ vì các lý thuyết, tư tưởng trừu tượng, ngoại lai mà để đồng bào tàn sát lẫn nhau. Trong cuộc chiến tranh nào, người dân cũng đau khổ.

27 thg 1, 2013

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: "Sống mà không có tự do là chết"


Larry Berman - Trần Quốc Việt (Danlambao) lược dịch - "Đối với các ông chúng tôi không hơn gì là chấm nhỏ trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc đấu tranh, thì chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào vô phương, và rồi chúng tôi sẽ chết... Đối với chúng tôi, sự chọn lựa là giữa sống và chết. Đối với chúng tôi ký vào hiệp định, mà chẳng khác gì đầu hàng tức sẽ chấp nhận bản án tử hình, vì sống mà không có tự do là chết. Không, sống như thế còn tệ hơn cả chết!" - Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Vào ngày 18 tháng 10, Henry Kissinger bay trực tiếp từ Paris đến Sài Gòn để báo cáo Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về hiệp định hòa bình. Buổi họp ngày 19 tháng 10 kéo dài gần hai giờ. Sau khi lắng nghe Kissinger thuyết trình, ông Thiệu muốn có bản thảo hiệp định. Ông được trao cho bản tiếng Anh.

Cuộc họp trở nên xấu đi. Đầu tiên, ông Hoàng Đức Nhã, cố vấn cho Tổng thống Thiệu, chỉ được trao cho bản tiếng Anh. Ông Nhã phẫn nộ đáp lại: "Chúng tôi không thể thương lượng số phận của nước mình bằng tiếng nước ngoài!" Ông rất tức giận đòi có bản tiếng Việt. Ông Nhã muốn thấy bản tiếng Việt mà những người cộng sản đã trao cho Kissinger.

Kissinger nói, "À, chúng tôi quên." Ông Nhã đáp: "Ông muốn nói gì thế, ông quên ư?". Rồi ông Nhã chế giễu toàn bộ quá trình hội nghị và ông nói với Kissinger, "Ông muốn bảo tôi người Mỹ có thể hiểu tiếng Việt hơn người Việt? Chúng tôi muốn thấy bản tiếng Việt."

Về sau khi nhận được bản tiếng Việt, ông Nhã mới nhận ra rằng nhân dân Miền Nam được yêu cầu ký vào bàn hiệp định mà tương đương như bản tuyên bố đầu hàng.

Trong buổi họp ấy ông Nhã nhớ lại, "Kissinger nói giải pháp mới này khiến vị thế của Bắc Việt suy yếu hoàn toàn, và ngay cả Lê Đức Thọ còn ôm tôi khóc. Lúc đó tôi nhìn ông ta chăm chú mà lòng rất hoài nghi. Tôi nói, Lê Đức Thọ? Một tay cộng sản già giặn? Mà khóc sao? Rồi tôi nói đùa mà ông ta không thích. Tôi nói: Coi chừng nước mắt cá sấu đấy."

Sau này, ông Thiệu bảo ông Nhã, "Tôi muốn đấm vào miệng Kissinger."

Còn John Negroponte, trợ lý cho Kissinger, hồi tưởng lại cuộc họp ấy theo ngôn ngữ ngoại giao:

"Bầu không khí cuộc họp ấy rất căng thẳng và rất khó chịu. Chúng tôi đến Sài Gòn vào tháng 10 năm 1972 mang theo toàn bộ bản hiệp ước kết thúc chiến tranh mà có quan hệ trực tiếp, thật sự quan hệ gần như hoàn toàn đến sự tồn vong quốc gia của họ trong tương lai. Thế mà chúng ta yêu cầu họ ký ngay vào hàng cuối cùng. Vì thế bầu không khí rất căng thẳng, và Tổng thống Thiệu phản đối rất dữ dội bản thảo hiệp định."

Ông Nhã thức khuya để đọc bản dịch tiếng Anh và ông nhận ra rằng có những điểm mà "chúng tôi đã hoàn toàn bác bỏ trong các cuộc mật đàm trước, và chúng tôi đã nghĩ rằng phía Mỹ đã đổng ý với chúng tôi là không nêu ra những vấn đề ấy nữa, nhưng bây giờ chúng tôi thấy rằng những người cộng sản lại nêu ra những vấn đề ấy dưới hình thức này hay hình thức khác."

Chẳng hạn, bản thảo hiệp định đề cập đến ba quốc gia Đông Dương: Lào, Cambodia và Việt Nam. Như vậy, ngay từ đầu Việt Nam được mô tả như là một nước, chứ không phải hai nước. Nếu thế làm sao quân đội của nước mình rút ra khỏi nước mình được? Từ đấy, ông Nhã hỏi Kissinger chuyện gì đã xảy ra với "bốn quốc gia". Kissinger đáp là do đánh máy sai. Ông Nhã cười "Tôi biết tẩy các ông rồi. Số "3" không được viết ở đấy. Cái từ "ba" viết ra không phải là con số, nó là từ ba, B- A. Cho nên đây là điều chúng tôi không thích."

Kế tiếp, ông Nhã suy đoán rằng cái gọi là Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc thực tế chỉ là một "liên hợp trá hình vì những người cộng sản hơi thông minh hơn Hoa Kỳ." Bản tiếng Anh đề cập đến hội đồng như là "cấu trúc hành chánh" nhưng bản tiếng Việt lại ghi hội đồng là "cơ cấu chánh quyền", qua đó nên được dịch sang tiếng Anh "cấu trúc chánh quyền", như thế ám chỉ một cấu trúc từ trung ương đến cơ sở và bao gồm toàn bộ chính quyền từ hành pháp, lập pháp đến tư pháp. Đây là vấn đề chính đối với Miền Nam.

Cuối cùng sau khi trình bày xong, ông Nhã đưa ra 64 điểm cần phải thay đổi.

Cuộc họp diễn ra cực kỳ tranh cãi, nhưng Tổng thống Thiệu vẫn giữ nguyên lập trường. Ông Nhã báo cho Tổng thống Thiệu biết Kissinger đến Sài Gòn để phản bội miền Nam Việt Nam, và vì đây là vấn đề sinh tử cho nên Tổng thống cần nghĩ ra chiến lược nhằm đối phó với Kissinger.

Ông Nhã thuyết phục Tổng thống Thiệu hủy bỏ cuộc họp với Kissinger vào cuối ngày. Kissinger nổi giận, nói với ông Nhã "Tôi là Đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ. Ông biết không nên đối xử với tôi như kẻ sai vặt. Tôi phải gặp Tổng thống Thiệu tối nay." Ông Nhã cứng rắn đáp trả: "Đừng cảm thấy bị xúc phạm, tôi không bao giờ coi ông là kẻ sai vặt. Tổng thống không thể tiếp ông vì quả thực có cuộc họp với các tướng lãnh. Cuộc họp sẽ kéo dài bốn giờ."

Kissinger bấy giờ ắt hẳn nhận thức Tổng thống Thiệu sẽ từ chối ký hiệp định. Cho nên ông rời Sài Gòn sang Cambodia, nơi ông và Thủ tướng Lon Nol nâng ly chúc mừng "hòa bình ở Việt Nam". Khi ở Phnom Penh Kissinger khiến Lon Nol có ấn tượng rằng Tổng thống Thiệu chấp thuận hiệp định. Khi biết chuyện, Tổng thống Thiệu lại càng tức giận trước sự trân tráo của Kissinger.

Hòa bình vẫn còn mờ mịt. Vào ngày 21 tháng Mười Kissinger trở về từ Phnom Penh và đi thẳng đến gặp Tổng thống Thiệu. Trong tâm trạng "căng thẳng và rất khích động", Tổng thống Thiệu nghĩ bản hiệp định được đưa ra này thậm chí còn tồi tệ hơn hiệp định 1954: "Tôi có quyền nghi ngờ Mỹ đã âm mưu với Liên Xô và Trung Cộng. Vì các ông thừa nhận sự hiện diện của Bắc Việt ở đây, cho nên nhân dân miền Nam cho rằng Hoa Kỳ đã bán đứng họ và Bắc Việt đã thắng cuộc chiến."

Ông nói tiếp "Tiến sĩ Kissinger nói ngày hôm kia rằng Lê Đức Thọ bật khóc, nhưng tôi có thể đoan chắc với ông ta rằng nhân dân Miền Nam là những người đáng khóc, và người nên khóc là tôi... Nếu Mỹ muốn bỏ rơi nhân dân Miền Nam, đó là quyền của họ!"

Tổng thống Thiệu nói dù chuyện gì xảy ra ông cũng cảm ơn Tổng thống Nixon về tất cả những gì ông ta đã làm cho Miền Nam Việt Nam. Ông biết Nixon phải hành động vì quyền lợi riêng của mình và vì quyền lợi của nhân dân ông ta. Ông cũng phải hành động vì quyền lợi của nhân dân Miền Nam Việt Nam.

Kissinger nói với Tổng thống Thiệu con đường Tổng thống Thiệu đang đi sẽ là con đường tự sát. Tổng thống Thiệu đáp rằng có từ 200.000 đến 300.000 quân Bắc Việt ở miền Nam và Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc gồm có ba thành phần. "Nếu chúng tôi chấp nhận văn kiện như hiện nay, chúng tôi sẽ tự sát- và tôi sẽ tự sát."

Kissinger cố gắng lần cuối cùng để thuyết phục Tổng thống Thiệu. Kissinger nói trong vòng sáu tháng, nếu Tổng thống Thiệu không ký, quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ. Bất chấp những lời khẩn cầu của Kissinger, ông Thiêu vẫn từ chối ký hiệp định.

Kisinger nói với ông Nhã, "Tổng thống đã chọn con đường tử vì đạo. Nếu chúng tôi phải làm, Hoa Kỳ có thể ký hiệp ước hòa bình riêng với Hà Nội. Còn về phần mình, tôi nhất định không bao giờ đặt chân lại Sài Gòn. Sau vụ này. Đây là thất bại lớn nhất trong nghề nghiệp ngoại giao của tôi!"

"Chúng tôi rất lấy làm tiếc", Ông Nhã đáp lời, "nhưng ông phải nhớ chúng tôi có cả quốc gia để bảo vệ!"

Tổng thống Thiệu chỉ bản đồ nói, "Đối với các ông chúng tôi không hơn gì là chấm nhỏ trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc đấu tranh, thì chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào vô phương, và rồi chúng tôi sẽ chết... Đối với chúng tôi, sự chọn lựa là giữa sống và chết. Đối với chúng tôi ký vào hiệp định, mà chẳng khác gì đầu hàng tức sẽ chấp nhận bản án tử hình, vì sống mà không có tự do là chết. Không, sống như thế còn tệ hơn cả chết!"

Kissinger trở về Washington vào ngày 23 tháng Mười mà lòng tràn ngập thất vọng.

Ngày 24 tháng Mười Tổng thống Thiệu phát biểu với nhân dân Việt Nam trên hệ thống truyền thanh và truyền hình trong bài diễn văn hai giờ đồng hồ để bàn về hiệp định có thể có trong tương lai. Ông nói lý do chính người cộng sản muốn ngừng bắn là để đuổi tất cả người Mỹ đi nhằm để dễ dàng thôn tính Miền Nam. Ông cảnh cáo về nền hòa bình giả. Ông muốn đồng bào ông biết rằng ông không bao giờ cản trở nền hòa bình nào thật sự lâu dài và ông sẵn sàng từ chức một khi nền hòa bình ấy được bảo đảm.
Ông ngừng nói hai lần để lấy khăn tay lau mồ hôi trên trán.

Larry Breman là giáo sư chính trị ở Đại học University of California, Davis. Ông dùng nhiều tài liệu lưu trữ được coi là bí mật trước đây để viết tác phẩm này. Tác phẩm được coi là tác phẩm trung thực nhất bàn về Hiệp định Hòa bình Paris.

Nguồn: Lược dịch từ tác phẩm Không Hòa bình, Không Danh dự (No Peace, No Honor) của giáo sư Larry Berman, chương 9, nhà xuất bản The Free Press, 2001.
Bản tiếng Việt:

Trần Quốc Việt
danlambaovn.blogspot.com



25 thg 1, 2013

THƯ GỬI CON CHÁU

GIÁO SƯ NGUYỄN VĂN PHÚ

Thưa lão hữu,
Trong những dịp chuyện trò với nhau ở trụ sở trong khi chờ đợi các con đến đón, chúng ta đã đồng ý với nhau về 1 số vấn đề và lão hữu bảo tôi nên viết các điều ấy ra để cho con cháu đọc, vì lão hữu tay run quá, muốn viết cũng không được. Đặc biệt là năm nay tròn 30 năm tỵ nạn, cho nên cần làm sáng tỏ một số việc cho các con, nhất là các cháu, hiểu. Mấy tháng vừa qua rồi, tôi đã gắng tuân theo lời của lão hữu; nay coi như việc làm đã tạm xong. Để dễ trình bày ý kiến, tôi viết dưới dạng một bức thư của bố mẹ gửi cho các con. Kính mời lão hữu nhàn lãm, rồi sửa đổi và bổ túc cho, đa tạ.

Các con thân yêu,

Nay, bố mẹ tuổi đã 80, thế cũng là khá thọ so với các thế hệ trước bố mẹ. Bố mẹ đã nhiều lần nói chuyện với các con về một số vấn đề, nhưng không phải lúc nào cũng có đủ các con cùng nghe.. Hơn nữa, không chắc các con đã nhớ hết những lời nói của bố mẹ. Vì thế mới có lá thư này để tóm tắt những ý kiến chính mà bố mẹ muốn gửi đến các con. Còn các cháu thì chỉ nói mà ít đọc được tiếng Việt, nên các con hãy liệu cách truyền đạt lại ý của bố mẹ và giảng giải cho các cháu biết, chẳng những biết mà phải hiểu kỹ những điều bố mẹ viết ra đây ngày hôm nay.

Biết Ơn. Các con ạ, trên đường tỵ nạn cộng sản, tìm tự do, chúng ta dã bỏ lại tất cả, tài sản, bàn thờ và mồ mả tổ tiên. Khi đến định cư nơi quê hương thứ hai này, chúng ta đã được chính quyền và dân chúng đón tiếp và giúp đỡ. Hiện nay, đời sống của chúng ta đã ổn định. Chúng ta phải biết ơn đất nước này và hãy tìm cách góp phần làm cho đất nước này tươi đẹp hơn, giàu mạnh hơn để đền đáp phần nào cái ơn đó.

Lý Do Tỵ Nạn. Các con cần giảng rõ cho các cháu biết lý do nào đã khiến cho gia đình chúng ta tới đây cùng với hàng vạn gia đình khác, đó là: chúng ta tỵ nạn Cộng sản, đi tìm Tự Do. Các cháu được sống trong xã hội dân chủ, tự do từ lúc sinh ra nên không thể tưởng tượng nổi tính dối trá và các thủ đoạn nham hiểm của Cộng sản. Các cháu khó có thể tin được tại sao con người đối với nhau mà lại tàn ác như vậy (có thể cho các cháu coi phim "Journey from the Fall-Vượt Sóng", do Trần Hàm đạo diễn, khởi chiếu 30-4-2005). Cộng sản hành động rất ác nhưng nói rất khéo và che đậy rất giỏi! Vì thế phải giải thích cho các cháu hiểu, không phải để hận thù mà là để biết sự thật. Có một câu mà nhiều người hay nhắc: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm.”

Quê Cha Đất Tổ. Dù công việc bận rộn đến mấy, các con hãy dành thì giờ nghiền ngẫm những trang lịch sử và địa lý Việt Nam, để biết nguồn gốc dân tộc, sự hình thành đất nước, những bước thăng trầm, những nỗi vinh nhục, những khôn ngoan và lầm lỗi của ông cha ta. Và từ đó chúng ta rút ra những bài học. Có những trang lịch sử oai hùng, mà cũng có những trang lịch sử đẫm nước mắt. Có khi nước ta bị đô hộ khổ nhục cả ngàn năm, mà cũng nhiều khi dân ta anh dũng vùng lên phá xiềng xích, giành tự chủ. Lại cũng có khi người mình đi xâm chiếm tàn phá nhiều nước khác, thí dụ gần đây nhất là mười năm tàn phá Cao Miên, gây nên căm hờn của nước láng giềng và để lại cái nghiệp nặng mà các thế hệ sau sẽ còn phải gánh chịu!

Lịch Sử Gần Đây. Nuớc ta bị Pháp đô hộ từ cuối thế kỷ 19. Khoảng 1940, đại chiến thế giới bùng nổ. Ở nước ta, Nhật đảo chánh Pháp 9-3-45. Vua Bảo Đại tuyên bố hủy bỏ hiệp ước bảo hộ ký với Pháp, rồi giao cho Ông Trần Trọng Kim thành lập chính phủ đâu tiên của nước Việt Nam độc lập. Phe Trục gồm Đức, Ý, Nhật thua Đồng minh gồm Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Hoa. Ngày 19-8-45, Việt Minh cướp chính quyền của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Nhưng không được bao lâu, Pháp tìm cách quay lại. Cuộc toàn quốc kháng chiến chống Pháp bắt đầu ngày 19 tháng 12, 1946. Khi phe Việt Minh lộ rõ bản chất Cộng sản, các đảng phái quốc gia trước nguy cơ bị họ tiêu diệt dần, đã trở về vùng quốc gia là nơi đã thiết lập một chính quyền khác với chính quyền vùng kháng chiến mà thực chất là cộng sản. Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève 1945 chia đôi đất nước: miền Bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa. Miền Bắc công khai theo khối Cộng sản, tiến hành xâm lăng miền Nam bằng võ lực và che mắt thế giới bằng con bài Mặt Trận Giải Phóng Mìên Nam. Miền Nam được Hoa Kỳ và đồng minh của khối tự do ủng hộ đê ngăn sự bành trướng của Cộng sản. Khi quân xâm lăng mạnh thì Hoa Kỳ đổ quan vào miền Nam, bắt đâu vào 1960, và chiến tranh trở nên khốc liệt.

Năm 1972, sau khi Liên Xô và Trung Quốc trở thành đối nghịch thì tổng thống Nixon đến Trung Quốc ký Thỏa hiệp Thượng Hải. Hoa Kỳ không cần đến “tiền đồn chống Cộng” nữa nên bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa! (Soạn phẩm khi đồng minh tháo chạy của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng cho biết những sự thật phũ phàng về sự bội ước và tháo chạy của Mỹ.) Theo Hiệp định Paris 1973: Hoa Kỳ rút quân khỏi miền nam Việt Nam, chỉ để lại một số cố vấn mà thôi, còn quân Bắc Việt vẫn ở lại! Cộng sản Bắc Việt tiếp tục xâm lăng miền Nam với nhiều viện trợ của cộng sản quốc tế. Việt Nam Cộng hoà dù tự vệ can trường đến mấy, mà không đủ vũ khí, xăng dầu... thì chắc chắn là kém thế. Ngày 30 tháng tư 1975, thủ đô Sài Gòn thất thủ. Cuộc di cư tỵ nạn cộng sản, tìm Tự Do bắt đầu. Từ đây trở đi, chính các con biết khá nhiều chi tiết.

Suy Xét Thông Tin và Sử Liệu. Thời buổi này, thông tin rất nhiều, quá nhiều. Người ta viết về Việt Nam, về chiến tranh Việt Nam nhiều lắm, có cả phim ảnh nữa, nhưng trung thực thì chẳng được bao nhiêu. Có người viết trung thực nhưng chỉ nhìn được một khía cạnh của vấn đề, hệt như “những anh mù sờ voi”. Có người cố ý bẻ cong sự thật, nhằm đạt mục đích riêng của mình. Có người - kể cả nhà tu - còn bịa đặt thêm chuyện để vu khống người khác! Tệ nhất là khi kẻ cầm quyền hay tay sai của họ viết sử. Nhà văn Alex Haley đã viết ở dòng cuối tác phẩm "Roots" (Nguồn Cội): “Rốt cuộc, chính kẻ chiến thắng là kẻ viết sử.” Cho nên, bố mẹ ân cần dặn các con và nhất là các cháu rằng khi đọc tài liệu, sách vở và coi phim về Việt Nam thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, dù là của tác giả nào, kể cả Âu-Mỹ, cũng phải hết sức thận trọng và suy sét thông minh.

Theo bố mẹ thì cuộc chiến 1954-1975 ở nước ta là chiến tranh Nam Bắc, là nội chiến, là chiến tranh ủy nhiệm, là đối đầu giữa hai khối Cộng sản và Tự do; khí giới nước ngoài, máu dân Việt mình. Đối với người việt nam, đó là chiến tranh tự vệ. Còn cộng sản Bắc Việt thì tuyên truyền và giáo dục quần chúng rằng đó là chiến tranh chống Mỹ-Ngụy và thống nhất đất nước. Kẻ thắng kiêu ngạo và tàn ác, người thua uất hận trong tủi nhục. Mấu chốt của sự chia rẽ trầm trọng trong dân tộc ta nằm ở điểm ấy (kể ra thì dân tộc ta còn nhiều sự chia rẽ khác nữa). Chưa thay đổi được hai cách nghĩ đó thì chưa nói tới hòa hợp dân tộc được! Hàng triệu người đã chết, tuy đất nước được thống nhất mà lòng người đến nay vẫn còn chia rẽ.

Về Thăm Việt Nam. Có vài vị hỏi bố mẹ đã về thăm Việt Nam chưa. Câu trả lời là chưa, vì lý do sức khoẻ. Đã có rất nhiều người về Việt Nam, mỗi người một lý do, mỗi người một mục đích, mỗi người một cách nhìn! Về để chăm sóc cha già mẹ yếu, thăm nuôi người thân, về để sửa sang phần mộ tổ tiên, về để giảng dạy cho sinh viện, để nhìn lại quê hương, những điều ấy là chính đáng. Về để cứu trợ nạn dân của các thiên tai hay giúp đỡ đồng bào nghèo túng mà không vì danh vì lợi, cũng là việc tốt. Về để ăn chơi, để du lịch rẻ tiền, để cầu danh lợi, để xin vài tấm bằng khen, thì không nên.

Sau này, khi trong nước thay đổi thật sự, các con có thể đưa các cháu về thăm quê hương. Bố mẹ biết trước rằng các cháu sẽ không xúc động lắm đâu vì con người ta phải có kỷ niệm, phải có gắn bó thì mới xúc động được. Các con hãy cố hướng dẫn các cháu yêu đất nước, dân tộc và đồng bào Việt Nam, đừng để cho các cháu chỉ là những khách du lịch bình thường. Còn việc các con hay các cháu sẽ về làm ăn sinh sống tại Việt Nam thì bố mẹ nghĩ rằng điều đó khó xảy ra.

Hiện tình đất nước. Nếu có ai nói rằng Việt Nam nay đã tiến bộ (đa số người dân nay đã được ăn cơm thay vì ăn cơm trộn bo bo, có nhiều xe gắn máy và xe hơi thay cho xe đạp...; chẳng lẽ sau 30 năm im tiếng súng mà không có tiến bộ!) thì đó là một vài tiến bộ so với chính Việt Nam chứ nếu đem so sánh Việt Nam với các nước láng giềng thì đáng xấu hổ về nhiều mặt (như Cao Miên mà cũng còn có đảng đối lập). Muốn biết sự thật ở Việt Nam đằng sau những "binh đinh" cao ngất, những "ô-tô con" bóng loáng, những khách sạn năm sao, những sân "gôn" tân kỳ, thì phải theo rõi tin tức trong nước để thấy sự băng hoại trầm trọng về nhiều phương diện (nhất là về giáo dục), sự hiện diện của Tư bản đỏ, của quốc nạn tham nhũng, sự phung phí tài nguyên quốc gia, và phải đích thân đến thăm đồng bào nơi các vùng xa xôi nghèo khó. Chúng ta cần biết sự thật, không tô hồng mà cũng chẳng bôi đen!

Để tạm hiểu hiện trạng nước ta, các con tìm đọc bài nói của tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên viện trưởng Viện Nghiên Cứu Quản lý Trung ương Hà Nội. Ông ta thuyết trình các sự thật cho các cán bộ cao cấp nhất của cộng sản Việt nam nghe. Bài nói này gần đây mới được tiết lộ ra ngoài. Bài giới thiệu viết: "Mọi người phải chú ý tới những con số cho thấy sự thật phũ phàng về nền kinh tế Việt Nam. Ông Doanh cho thấy cả tình trạng yếu kém của nền kinh tế lẫn tính chất phi dân chủ của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Từ đó ông dám nói thẳng cả cơ cấu chính trị cũng hỏng, phải thay đổi" (Ngô Nhân Dụng, nhật báo Người Việt, ngày 30-3-2005).

Ông Doanh kể lại rằng một chuyên viên tài chánh quốc tế đã đặt câu hỏi với ông như sau: "Chúng mày giỏi thế mà chúng mày nghèo lâu đến thế, là thế nào? Trí tuệ như thế này, truyền thống như thế này, sao mày ăn xin hoài thế? Chúng mày cứ đề ra mục tiêu là đến bao giờ chúng mày đừng đi ăn xin nữa, có được không?" Thật là mối nhục chung cho cả nước! Nước ta đâu có hèn kém, dân ta đâu có lười biếng. Do đâu mà khổ nhục đến thế? Do độc tài đảng trị !

Thái Độ Chính Trị. Không những đồng bào hải ngoại đòi bãi bỏ độc đảng, thiết lập đa nguyên đa đảng, mà ngay cả những đảng viên cùng những phần tử tiến bộ ở trong nước cũng đòi như vậy. Cần hiểu rằng: chống độc tài, độc đảng, chống tham nhũng, chống đường lối sai lầm của cộng sản, không phải là chống nước Việt Nam mà là mong cho nước Việt Nam khá hơn, tiến hơn.

Nếu ai có nghĩ rằng cộng sản ngày nay đã "đổi mới" một chút thì nên biết rằng do sự xụp đổ của cộng sản Đông Âu, do sự đấu tranh ở trong và ngoài nước, do áp lực quốc tế và do nguy cơ tan rã của đảng nên cộng sản Việt Nam bắt buộc phải đổi mới về kinh tế (mà không đổi mới về chính trị)! Tuy mình không làm chính trị nhưng mình phải có thái độ chính trị, mình phải tiếp tục ủng hộ các cuộc đấu tranh sao cho đất nước có dân chủ Tự Do thật sự.

Tổng bí thư của cộng sản Việt Nam đã nhận rằng cộng sản Việt Nam có "phạm nhiều sai lầm". Chúng ta hỏi: sai lầm sao không sửa, sao không công khai xin lỗi các quốc dân, sao không trả lại ruộng đất nhà cửa cho các tư nhân và các giáo hội, sao không bồi thường cho các nạn nhân của vụ cải cách ruộng đất, của vụ Nhân Văn Giai Phẩm, của các đợt cải tạo công thương nghiệp, sao không bồi thường và xin lỗi những người bị bắt đi tù "học tập cải tạo"? Sự thực thì ai ai cũng muốn xóa bỏ hận thù, nhưng cộng sản Việt Nam cần phải hành động cụ thể cho nhân dân trông thấy. Nói "xoá bỏ hận thù, khép lại quá khứ, nhìn về tương lai" xuông thôi thì ích gì? Nói "đại đoàn kết" mà lại do đảng lãnh đạo (điều 4 hiến pháp Cộng sản) thì ai mà tin được!

Chuyện trong gia đình. Bây giờ, nói chuyện trong nhà. Bố mẹ thuộc thế hệ trước, nuôi nấng các con theo quan niệm thời bố mẹ, cũng như ông bà nuôi nấng bố mẹ thời ông bà. Một vài lúc nào đó, các con có thể nghĩ rằng bố mẹ đã quá khắc khe với các con. Thời buổi ấy là như vậy. Mong các con quên đi những gì mà bố mẹ đã vô tình làm các con buồn lòng. Hãy nhớ rằng bố mẹ không đua đòi ăn chơi, không chi tiêu hoang phí, lúc nào cũng giữ đời sống mực thước, và bố mẹ đã cố gắng làm việc và dành dụm để các con được sống đầy đủ, được học hành cẩn thận, dưới mái ấm của gia đình.

Vì tài sản bố mẹ đã bị CS cướp hết rồi nên khi sang tới đất mới này, đời sống của chúng ta khá khó khăn. Bố mẹ đã nhận làm những công việc thật mệt nhọc. Các con đã chịu khó đi làm vất vả trong các dịp hè, và đã cố gắng học hành chăm chỉ, đến nay thì "đâu vào đấy" cả. Các con không bao giờ được tự mãn, nghĩ rằng mình tài, mình giỏi. Cái tài, cái giỏi nếu có chỉ là một phần thôi, còn các phần khác là nhờ các thuận duyên, nhờ âm đức của tổ tiên và của chính mình, từ các kiếp trước và kiếp này. Các con phải luôn luôn sống đạo đức để bồi đắp cho cái nghiệp lành của mình, hệt như người dùng xe hơi phải lo "sạc điện" cho cái bình ắc-quy vậy. Gieo nhân lành thì sẽ hái quả lành. Luật nhân quả là một luật của trời đất, không sai được !

Trong gia đình riêng của các con, bố mẹ khuyên: vợ chồng phải cư xử với nhau trong sự tương kính, phải nhường nhịn lẫn nhau. Không thể tránh được vài đụng chạm đâu, hãy khéo léo và bình tĩnh mà giải quyết mọi việc. Nóng giận là hỏng.

Còn đối với con phải thương yêu nhưng không được nuông chiều. Cần phải kiểm soát bạn bè của các cháu và phải liên lạc với cha mẹ của bạn bè các cháu để tìm hiểu cho chắc chắn: hư hỏng vì bạn bè trong xã hội này là một sự kiện rất phổ biến ! Tivi, game, chat... phải hạn chế, còn thể dục thể thao thì nên khuyến khích. Bản thân các con phải lo xếp thì giờ tập thể dục, sống một cuộc sống thăng bằng. Hãy rút kinh nghiệm của bố: lúc trẻ, bố miệt mài làm việc nhiều quá nên nay về già, bị cơ thể "hỏi tội," đau lên đau xuống hoài.

Trong đời sống hàng ngày, phải luôn tiết kiệm và bảo vệ môi trường sinh hoạt vì tài nguyên thế giới chỉ có hạn, chúng ta cần nghĩ đến thế hệ mai sau. Dùng thứ gì cũng không được phí phạm, kể từ tờ giấy lau tay! Thỉnh thoảng, hãy cho các cháu coi hình chụp hay phim ảnh những trẻ em đói rét và cho các cháu biết rằng trên trái đất này còn rất nhiều người cực khổ.

Khi anh chị em cư xử với nhau, phải nhớ kỹ mấy câu "anh em như thể tay chân", "chị ngã em nâng", "một giọt máu đào hơn ao nước lã", "một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ". Bí quyết áp dụng chữ "xả." Hãy bỏ qua hết mọi khuyết điểm của anh chị em mình. Các con mà chia rẽ thì bố mẹ sẽ đau khổ vô cùng.

Trong xã hội này, vì bận rộn quá, người ta chỉ đủ thời giờ lo cho gia đình riêng nên có khi lơ là với đại gia đình, dù thâm tâm không muốn như vậy. Các con hãy đề cao tình đoàn kết trong đại gia đình. Với các con gái và con dâu, bố mẹ nhắc: các con hãy giúp chồng giữ liên lạc tốt đẹp với anh chị em và họ hàng nội ngoại.

Tiếng Việt tại nước ngoài. Có vài điều đáng bàn. Các cháu là công dân nước này, với mọi bổn phận và quyền lợi của một công dân. Cuộc sống thực tế trong trường học cũng như ngoài xã hội bắt buộc các cháu phải nói Anh hay Pháp ngữ, và phải nói và viết thật giỏi, nếu không thì sẽ khó hoà đồng, bị lạc lõng và bị thua kém! Đi học, các cháu nói tiếng Anh hay tiếng Pháp (hay cả hai). Về nhà, các cháu thường nói với nhau bằng hai thứ tiếng ấy. Tuy các con thường bắt các cháu nói tiếng Việt trong gia đình, bố mẹ vẫn cảm thấy tiếng Việt các cháu hãy còn kém. Nói tiếng Việt đã yếu, viết tiếng Việt còn tệ hơn, vì các cháu có tập đọc và viết chữ Việt thường xuyên đâu! Một vài giờ tiếng Việt vào cuối tuần ở trung tâm Việt ngữ với các cô giáo rất tận tâm chưa đủ các cháu khá hơn. Chỉ riêng việc học cách xưng hô theo tiếng Việt đã là khó nhất thế giới rồi!

Đồng bào ta ở hải ngoại luôn luôn nhắc đến việc bảo tồn tiếng Việt. Bố mẹ cũng nghĩ như vậy. Nhưng xét cho cùng, một đứa trẻ không thể kể là hai đứa trẻ (Việt & Canada hay Việt & Mỹ) nhập lại làm một được! Nếu ép quá thì sức của chúng chịu không nổi. Còn thể thao, còn âm nhạc nữa chứ. Vậy ta phải khéo chọn đúng liều lượng, đừng biến đứa trẻ thành "cái máy học"! Các cháu sẽ phải vươn lên ở đất nước này. Các con cần phải chuẩn bị sao cho chúng sống thích hợp với môi trường và sống thoải mái tại đây.

Xã Hội Âu Mỹ. Xã hội này là một xã hội tiêu thụ quá mức. Các con không nên để mình bị lôi cuốn dễ dàng vào các trò tiếp thị khéo léo nhằm xúi giục chúng ta mua hàng thả dàn. Chúng ta dễ bị ảnh hưởng của quảng cáo, ngay cả trong khi chúng ta đang bị các nhà băng và các hãng bảo hiểm bao vây, chi phối. Các con cần "thiểu dục, tri túc" tức là "ít ham, biết đủ", chỉ mua thứ cần thiết, không có không được mà thôi! Nhà, xe cũng vậy: an toàn và đủ dùng cho sinh hoạt hàng ngày là được rồi. Tránh nợ nhiều. Thảnh thơi thì hơn! Bố mẹ không nói lý thuyết xuông đâu, xã hội bây giờ xuống dốc về đạo đức, về tâm linh, chỉ vì hướng ngoại nhiều quá, lo về vật chất nhiều quá, ích kỷ quá, chẳng tìm thấy hạnh phúc ở đâu cả! Bớt ích kỷ, hãy nghĩ đến đồng loại, phải biết chia sẻ với đồng loại.

Riêng Phần Bố Mẹ. Già thì bệnh, bệnh rồi sẽ . . . ra đi! Quy luật tự nhiên là vậy. Đến ngày ấy, các con hãy lo tổ chức tang lễ cho bố mẹ được trang nghiêm nhưng đơn giản. Nếu chôn cất mẹ ở một nghĩa trang thì sau này, khi phải đi làm ăn nơi khác, các con sẽ thắc mắc vì ở xa không trông nom được phần mộ. Bố mẹ chọn cách hỏa táng, thuận tiện hơn, mà khỏi phải chiếm đất, vì đất rất cần thiết cho các thế hệ sau. Có thể đem rải tro của bố mẹ lên núi hay xuống sông, xuống biển. Cát bụi trở về cát bụi, có gì đâu! Thay vì đãi đằng ăn uống, các con hãy dùng tiền bạc đóng góp vào việc có ích lợi chung. Đừng e thẹn thiên hạ chê cười; mọi người sẽ hiểu và tán thành. Có một chi tiết như thế này, nếu chẳng may, bố mẹ ngã bệnh và phải chịu một "đời sống thực vật," các con hãy can đảm chọn giải pháp rút ống trợ sinh; kéo dài làm chi, chỉ gây khổ cho mọi người!

Bàn thờ gia đình. Trong hoàn cảnh ngày nay, khó lập bàn thờ ngay trong nhà. Nhớ đến tổ tiên, ông bà nội ngoại, cha mẹ, các con có thể bày nơi trang trọng nhất ở trong nhà để tỏ lòng tôn kính và để tự hứa không bao giờ tổn hại gia phong. Đến ngày giỗ, xếp một bàn nhỏ, bày một chén nước trong, vài bông hoa thơm, mấy trái cây tươi và một nén nhang (nhang điện cũng được) là đủ, vì lòng thành các con, các cháu mới là quý. Bố mẹ nói "các cháu" là có ý nhắc các con cần cho các cháu biết ý nghĩa ngày giỗ của dân tộc Việt Nam. Vào những ngày giỗ, các con hãy nghĩ thiện, làm lành nhiều hơn các ngày khác, hãy chia sẻ chút đỉnh cho người nghèo, hãy gom quần áo dư để dành cho các hội từ thiện. Nếu anh chị em nhân ngày giỗ mà về họp mặt một nơi thì thật là tốt vì tình thân gia đình sẽ nhờ đó mà tăng lên.

Mong các con đọc kỹ thư này, suy nghĩ đến nơi và cố gắng thực hành những lời dặn.

Hôn các con của bố mẹ!

Bố mẹ cám ơn các con đã luôn luôn tận tâm săn sóc bố mẹ từ bao nhiêu năm nay và đã lo toan đầy đủ để cho bố mẹ được thoải mái, vui hưởng tuổi già.

Hôn các con thật lâu!
Hôn các cháu thật lâu!

Bố mẹ!

Letter to my children and grandchildren
Nguyễn Văn Phú
Translated by Minh Châu

Dear old friend,

While waiting for our children to pick us up from our monthly meeting at the Seniors’ Association, you and I had, on several occasions, the opportunity to discuss and to agree on a number of important points. You urged to me to put our thoughts on paper to share with our descendants because, as you said, your hands tremble so much these days that you are having difficulty holding the pen. Moreover, this year marks the 30th anniversary of our self-exile as refugees and we both thought it would be useful to transmit a clear message to our children and especially our grandchildren. During these last few months, I endeavored to accomplish the task you assigned. Today, my work may be considered complete. For ease of presentation, I wrote this article in the form of a letter by a father to his children. Please review it at your convenience. I would very much appreciate any corrections and improvements.
****

My beloved children,

Your mother and I are both in our eighties now, longevity virtually unknown to the earlier generations. Over the years, we have had many occasions to talk to you about a number of important subjects, but you were often not all present at the same time to share the same conversations. Moreover, you may not have entirely retained our message. Hence, this letter to summarize the key points that your mother and I wish to impart to you. For your children who speak Vietnamese but do not read it very well, we ask that you find the best way to communicate our thoughts to them and offer them the necessary explanations. It is not enough to merely take note of what we put today in writing for you. Please make an effort to really grasp the fundamental meaning of our message.

Gratefulness — My beloved children, in fleeing the communist regime in search of freedom, we had to leave everything behind: our properties, our ancestral shrine, as well as our ancestors’ final resting place. The authorities and the people of this adopted land opened their arms and their hearts to help us rebuild our lives. Now that we are relatively well established, we should be grateful and show it by doing our best to help make this nation even greater, stronger and more prosperous.

The cause of our exodus — You must be sure to explain clearly to your children the reasons which pushed our family as well as hundreds of thousands of others to choose a life of selfexiled immigrants in a foreign country: we fled communism, in search of freedom. Your children have the great fortune of living in a democratic society. Having known nothing but freedom since they were born, they would never imagine the full extent of the duplicity and the cruelty exerted by the communists. They would find it difficult to believe the atrocities to which men can submit men. (In due time, you may let them watch the movie Journey from the Fall, directed by Tran Ham, which premiered on April 30, 2005.) The communists are cruel in action, but very cunning in words and especially skilled in the art of concealment! Hence the need to really explain things to your children to ensure they have a full understanding of our background, not to incite hatred in them, but so they can be aware of the truth. We often repeat this saying amongst ourselves: “Don’t listen to what the communists say, just examine what they do.”

Our native land — Regardless of how busy you are, take the time to reflect on the history and the geography of Viet-Nam in order to understand the origin of our people and the creation of our homeland. Learn about the vicissitudes that our people experienced, including the moments of glory and the times of humiliation. Appreciate the wisdom and accomplishments of our forefathers as well as their mistakes. These are all lessons that we should learn and communicate to our descendants. The pages of our history books are alternatively filled with glorious achievements and painful tears. There was a time when our country had to bear the humiliation of Chinese occupation during a thousand years. Then, our heroic people rose to break the subversive bonds of domination and reclaimed our independence. Our past also included periods when we invaded and destroyed other countries. The most recent incident is the destructive ten-year occupation of Kampuchia, which incited the hatred of a neighboring country and created unwholesome karma, the fruits of which future generations will have to bear.

Recent historical events — Our country became a French colony around the end of the 19th century. In 1940, a World War erupted. In Vieät-Nam, on March 9, 1945, the Japanese overturned the French in a military coup. Emperor Bảo Đại enacted the abolition of the treaty of protectorate concluded with France and entrusted to Mr. Traàn Troïng Kim the formation of the first government of the independent state of Viet Nam. On the global scene, the countries of the axis — Germany, Italy and Japan — were overcome by the Allies — England, France, the United States, the USSR and China. In our country, on August 19, 1945, the Viet Minh revolutionary forces seized the power held by the Tran Trong Kim government and proclaimed the creation of the Democratic Republic of Vieät Nam. As France sought to restore its domination, on December 19, 1946, a war of national resistance was declared in view of defending our independence. At that time, the Vieät Minh revealed its true communist nature and initiated a campaign to eliminate the nationalist groups. Faced with the danger of being gradually eradicated, the nationalist parties pulled back into special zones controlled by another non-communist government..

After the battle of Điện Biên Phủ, the Geneva agreement of 1954 divided our country into two: the North became the Democratic Republic and the South, the Republic of Vieät-Nam. The North pledged open allegiance to the communist bloc and immediately launched the process of conquering the South by force, an act which it dissimulated to the eyes of the world by operating behind an organization of its creation, called the Front of Liberation of the South. At 3 that time, South Vieät-Nam accepted the support of the United States and the allied forces of the free world created to stop the expansion of communism. In the 1960s, as the invading forces from the North grew in numbers and in strength, the United States started pouring their own troops into the South, and the war intensified.

In 1972, after the rupture of relations between the USSR and China, President Nixon went to China and signed the Shanghai agreement. Consequently, no longer needing an “outpost in the fight against communism”, the United States dropped their support of the Republic of Viet Nam! [The book “Khi Đồng Minh Tháo Chạy (When the Allies Ran Away)” by Dr. Ngưyễn Tiến Hưng reveals the disappointing truths about the betrayal of the Americans in their shameful flight.] According to the Paris agreement signed in 1973, the United States was to withdraw their troops from South Viet-Nam and only leave in place a number of military advisers, while the North Vietnamese troops remained fully stationed in the South! The Communists of North Viet-Nam were therefore free to continue their unabated invasion of the South with the considerable assistance of the international communist bloc. Despite the courage shown in its war of self-defense, because of the serious lack of ammunition and fuel, South Viet-Nam was pushed into an untenable situation. On April 30, 1975, Saigon, the capital of the South, fell. In the months and years following that date, the world witnessed the exodus of the Vietnamese men, women and children fleeing communism, in search of freedom. I trust you already know the next chapters of our story with sufficient details.

Historical data and information — We live in an era of information and we are indeed swamped by a glut of data about everything. Much has been written about Vieät-Nam and the Vieät-Nam War, including photos and movies, but we found a serious shortage of books and films that are objective and truthful. There are of course a few authors who did try to provide an honest account of the war. Unfortunately, each of them only succeeded in relating one particular aspect of the truth, in the manner of the blind men in the ancient fable who tried to describe an elephant by each touching a part of its body. Moreover, many authors knowingly bend the truth to fit their personal justification or neurosis about the war. Still others, including certain monastic figures, make up stories for the purpose of slandering. The worst misrepresentations are found when those in power or their scribes engage in History writing. Alex Haley wrote in the last lines of his book Roots: “… preponderantly the histories have been written by the winners”. This is why we insist that you, and especially your children, should be extremely cautious and discerning in reading the books or viewing the films about Viet-Nam produced in the end of the 20th and the beginning of the 21st century, regardless of the authors and their nationalities.

From your parents’ perspective, the conflict that took place in our country from 1954 to 1975 was a war that opposed the North to the South, a civil war, a war by proxy resulting from the confrontation between the communist bloc and the free world, a war delivered with the weapons of the foreign countries and the blood of the Vietnamese people. For the South Vietnamese, it was a war of self-defense. Meanwhile, in the North, through propaganda and education of the masses, the communists portrayed it as a war delivered against the American puppet regime to reunify the country. The Northern winners had been arrogant and cruel; the defeated Southerners swallowed their pain and their anger, and bowed their heads in humiliation. There lies the heart of the deep chasm dividing our people (even though in all truth, there are many other reasons for the division). As long as one does not succeed in changing these two opposing views, it would be useless to speak about national reconciliation! Millions of dead people, a reunified country, but the Vietnamese people still remain deeply divided in their heart.

Visiting Viet-Nam — Many people asked us whether we had returned to Viet-Nam. Our response has always been: “Not yet, because of our health.” Many have returned to Viet-Nam, each for their own particular reasons. Needless to say, we all long to be reunited with our homeland, but everyone has a personal view about the pros and cons of the matter! Returning to the country to care for one’s aging or sick parents, to help one’s family, to restore one’s ancestral tombs, to teach young students, to visit one’s country, these are valid reasons to go. Returning to the country to bring solace to victims of natural disasters, to selflessly help compatriots in need, these are also commendable motives. But returning to enjoy sensual pleasures, to take advantage of cheap tourism, or to seek monetary gains and official distinctions, then it is better to abstain.

Later, if the country has shown some real improvements, you may want to bring your children to visit our homeland. But we predict that they will not be particularly moved — one may not feel any emotion if there are no memories which associate one with something. Thus, in raising your children, please try to provide guidance and help them appreciate our native land, our people, our compatriots, and make sure they do not behave as vulgar tourists. As for the probability of your returning to live in Vieät-Nam, we do not expect the prospects to be very positive.

The real situation in the country — If somebody tells you that the country has made progress — that the majority of the population are now able to eat rice with every meal, compared to the mix of rice and oats of the post-1975 era; that motorbikes and cars have mostly replaced bicycles — know that in truth, such progress only reflects the normal evolution of any country (after all, it would be unthinkable that after thirty years of peace, no growth or progress were achieved!). However, in terms of real democratic progress, if we compare Vieät-Nam to its neighbors, we cannot help feeling shame for the country’s failure in many aspects (even Kampuchea has an opposition party!).

If you want to know the real Viet-Nam beyond the tall buildings, the shiny cars, the luxurious five-star hotels, the modern golf courses, then seek information from inside the country to see the extensive breakdown in many sectors (education, in articular), the excesses of “red capitalism”, the plague of widespread corruption, and the waste of our nation’s natural resources. And don’t forget to visit our compatriots who live in desolate poor regions in the back country.. We need to look objectively at the actual situation without any make-up, that which is painted neither in pink nor in black.

For a clear view of the situation in our country, refer to a speech by Dr. Lê Đăng Doanh, former Director of the Central Institute of Research on Management in Haø-Noäi. In this speech, Dr. Doanh voiced the whole truth to the highest communist leaders. This document recently made its way abroad. In a presentation which is made of this text, one can read: “We should all pay attention to the numbers that point to the sad reality of the economic situation in Viet-Nam. Mr.. Doanh underlines the weaknesses of the economy and the antidemocratic nature of the communist regime in Viet-Nam. He affirms unequivocally that the political infrastructure is obsolete and should be changed.” (Ngo Nhân Dung, in Nguoi Viet Daily, March 30, 2005).
Mr. Doanh relates the following story. An expert in international finances asked him the following question: “Clever as you claim to be, how come your country is still poor after such a long period? With your intelligence and your proud tradition, why do you beg all the time? Why don’t you give yourself a goal in time after which you will resolve to stop asking for alms? Is this possible?” How humiliating for us all! Our country is not populated only by incompetents; our people are not lazy; why this utter misery? It is all due to the dictatorship of the Party!

Having a political attitude — Our fellow expatriates are not the only ones who demand the abolition of the unique-party regime; some members of the Communist Party and progressive elements in the country are also clamoring for the same. Understand this: the fight against dictatorship, against a single party regime, against corruption, against the erroneous policies of the Communists, is not a fight against Vieät-Nam; it is, quite to the contrary, an effort to move forward so that the country can improve and grow.

Some may say that the Vietnamese Communists did implement some change with the “đổi mới” or modernization program. Know that whatever modest change there was, it was the consequence of the collapse of communism in Eastern Europe, of the fight against oppression by the Vietnamese people inside the country and abroad, and of international pressure. It was the threat of the disintegration of the Party which drove the Communists to institute economic modernization (with no modernization whatsoever on the political level). Even though we do not “do politics”, we must nevertheless adopt a political attitude; we must continue to support the effort to bring about effective democracy and freedom to our country.

The Secretary General of the Communist Party recognized that the Vietnamese Communists “committed several serious errors.” The question that begs to be asked is this: if errors have been made, then why not correct them? Why not offer to the people a public apology? Why not return the wrongfully taken land and properties to their individual owners and religious institutions? Why not compensate the victims of the land reform, of the repression against the intellectuals and artists in the Nhan Van Giai Pham period, and of the waves of reforms in the industry and commerce sectors? Why not redress the harm done to those sent to the so-called “reeducation camps” and beg their forgiveness? In truth, everyone wishes to put aside hatred and resentments, but it is up to the Communists to demonstrate some constructive behavior that would convince the people of their good-will. It is utterly useless to simply say “let us erase hatred and resentments, let us forget the past and look towards the future” without doing anything concrete to turn the idea into policy and practice. To call for Ñaïi Ñoaøn Keát or Great Union on the one hand, and to place the proposed reconciliation under the stewardship of a unique, all controlling Party (Constitution, article 4) on the other hand - how would you expect anyone to trust such empty words?

Our family — Let’s now talk about our family. Your mother and I belong to an older generation. We raised you in accordance with the standards of our generation, just like your grandparents raised us according to the standards of their time.
You must have at times found us too strict. We simply followed the norm of our times. We hope that you will forget any unhappiness that, unaware, we may have inflicted upon you. Know that we did not seek an extravagant lifestyle, that we were never wasteful and that we lived well within the ethical and moral guidelines of our culture. We worked hard and saved every penny to provide for our family so that you could have a relatively comfortable life, a good education and a warm and happy home.

Because we had been despoiled of all our assets by the Communists, we experienced a rather difficult beginning on arrival in this country. Your mother and I had to accept very harsh working conditions. And you also, you had to work hard and diligently during your holidays in order to complete your studies. Today, everything seems to have fallen in place quite nicely. You should try never to be self-satisfied or to think of yourself as the best. Remember this: “When you look up, you will find that everyone is better, when you look down, you will see that everyone is worse.” Your personal talent, if any, counts only to some extent, the remainder results from the combination of favorable circumstances and the intangible benefits inherited from your ancestors and from your own actions in former lives and in this life. Always cultivate a virtuous life in order to improve your karma, in the same manner as a motorist must recharge the battery of his car. One reaps what one sows. Such is the universal law of cause and effect which leaves no one untouched!

Regarding your small family unit, here is our advice: between husband and wife, it is important to respect one another, to share and to compromise. Frictions are inevitable; resolve problems with patience, calm and wisdom. Anger is bad council, avoid it at all cost.

With respect to your children, love them without spoiling them. Be sure to keep an eye on their social circles. Establish contacts with the parents of their friends in order to obtain a fuller and deeper understanding of who they are. In our society today, bad peer influence is such a widespread phenomenon! The time spent watching television, playing video games or “chatting” on the Internet should be limited. On the other hand, it is important to encourage the practice of some physical activities and sports. This also applies to you personally. Be sure to include physical exercise in your routine in order to balance your activities. Let your father’s health condition be an inspiration to you. In my youth, I spent countless hours tied to my work. As a consequence, today, in my old age, my body “demands justice”, and I am frequently ill.

In your daily life, be thrifty (but not miserly). Make an effort to protect the environment because the resources of the world are limited; we must think of the future generations of our descendants. Do not waste anything, not even the Kleenex that you use to clean your hands. From time to time, let your children view the photographs and the films showing little children who are suffering terribly from hunger and cold; this will help them learn that in this world, a great many still live in misery.

Between brothers and sisters, keep in mind the following Vietnamese proverbs: “Brothers and sisters should be linked like hands and feet”; “when an elder sister falls, the little sister must help her up”; “a drop of blood is more valuable than a pond of water”; “when a horse is sick, the whole stable stops feeding”. The secret to maintaining good relationships between brothers and sisters may be found in one word: “forgiveness”. Do not hold rigor with your brothers and sisters for their defects. Any discord between you would be extremely painful to us.

In this society, as everyone seems to be short of time and can barely take care of his own immediate family, the extended family is somewhat neglected, much to our regret. Please make an effort to emphasize the tight relationship and unity in the extended family. To our daughters and daughters-in-law, we have a special request: help your husbands to maintain good relations between your brothers and sisters, as well as with all relatives on both the paternal and the maternal sides of the family.

Speaking Vietnamese — Some points need to be mentioned here. Your children have grown up as citizens of our host country with all the related rights and duties. Their daily life at school and in society forces them to speak and to write English and/or French impeccably, or they would run the risk of not being able to fully integrate in their social environment, of being insulated and missing out on opportunities for success and growth. They communicate with each other quite fluently in the two languages. Even though you do encourage them to speak Vietnamese at home, we feel their command of our language is rather weak. Their conversation skills are lacking, and their writing skills are even worse.. This is understandable because they never dedicated enough time practicing reading and writing in Vietnamese! To help your children acquire any meaningful command of our language, it is simply not enough to spend a few hours each weekend at the language school with a teacher, as dedicated as she may be. Just think: in Vietnamese, the nomenclature, the hierarchy and the forms of address for various members of the family are one of the most complicated in the world!

Our fellow expatriates often point out the need for maintaining the use of the Vietnamese language. We agree with them. But to really think about it, a child cannot be the fusion of two children (Vietnamese and Canadian, or Vietnamese and American.) If too much pressure is exerted, the children will not bear it. In addition, we have to make time for their other interests such as sports, music, etc. Therefore we must make intelligent choices and establish a proper balance to avoid transforming your children into “studying machines”. Your children will be making progressive achievements in this country. Help them be prepared and adapted to their environment in order to ensure a satisfactory quality of life.

The Western society — We live in a society of excessive consumption. Don’t let yourself be caught by skilful marketing techniques which encourage you to consume without control. Surrounded by wants and needs, we become the easy preys of publicity; at the same time we are being conditioned and influenced by the banks and the insurance companies. Practice this motto: “Minimize your wants, be content with little.” Buy only what you need. This rule is also applicable to the houses and cars you buy; these should be well within your means and should provide the security and the basic functionality needed in your daily life. That’s enough. Avoid too much debt. This will lead to a much better worry-free life. Please understand that our advice is not mere theory. Today’s society is slipping lower and lower in many moral and spiritual aspects. The reason, in our opinion, is that when people are so focused on the appearances, they become egoistic, attached to material possessions, and cannot find happiness anywhere. To be truly happy, one needs to be less selfish. One must think of fellow human beings and learn to share with others.

Your old parents — With old age comes illness, and then one day, the old and the sick must depart… for good! That’s the universal law of life! When this day arrives for us, please make sure that our funerals are solemn but simple. Burying us in a cemetery may pose some problems for you, should you be required in the future to move away for your work. It would be difficult and impractical to take care of our tombs in this city. We prefer the cremation solution, which is more practical and does not require our bodies to be entombed. We believe future generations will need the land more than us. You could disperse our ashes on the mountain, in a river, or even in the ocean. We will return to dust, that’s all! Instead of spending on a funeral reception, please save the money to contribute to some worthy causes of collective interest. Do not be concerned that you would be criticized for this untraditional funeral. In time, people will understand and will approve.

One more important point: if, by misfortune, we should be sick and require life support in a vegetative state, please have the courage to remove our artificial life support system. Why prolong such a state which can only be a major burden to everyone?

The family shrine — Given today’s limited living space, it is not very easy to install a family shrine at home. To keep the memory of your ancestors, of your grandparents, both paternal and maternal, and of your parents, you may display photographs in the most suitable place of your house to show your respect and to reaffirm your commitment to never dishonor your ancestral tradition. On the anniversary of our death, prepare a small table on which you will lay out a cup of pure water, some scented flowers, fresh fruits and an incense rod (an electric rod would do as well). This would be sufficient. It is the expression of your love and that of your children that would be most meaningful and valuable to us on that day. We did mention “your children” to point out the need to make sure they understand the significance that we, Vietnamese, ascribe to the celebration of the anniversary of death of members of the family. During these special days, concentrate on good thoughts, do a few more acts of kindness compared to other regular days, give charity to the poor, donate clothes or food to charitable organizations. On these occasions, it would be wonderful if all brothers and sisters get together to renew and strengthen our family bonds. Please make an effort to organize such family reunions.

We hope that you will read this letter carefully, that you will meditate on it and that you will try to carry out our recommendations. We thank you all for having always taken good care of us for so many years, and to have done all that’s required so that we can enjoy our old age in serenity.

With much love to you all, our beloved children and grandchildren, and a thousand kisses.

Father and Mother
Lettre à mes enfants et petits enfants
Nguyễn văn Phú
Traduit par Nguyễn Ngọc Quỳ

Cher vieil ami,

Lors des conversations que nous avons eues ensemble à notre siège, en attendant que nos enfants viennent nous chercher, nous nous sommes mis d’accord sur un certain nombre de points. Vous m’avez instamment demandé de les coucher sur le papier à l’intention de nos descendants car, disiez-vous, vous souffriez du tremblement des mains au point de ne plus pouvoir tenir la plume.. Qui plus est, cette année marque le 30ème anniversaire de notre exil comme réfugiés, et il nous a paru utile à tous deux, de clarifier, pour nos enfants et surtout pour nos petits enfants, un certain nombre de points. Durant ces derniers mois, je me suis efforcé de me conformer à vos objurgations, si bien qu’aujourd’hui, mon travail peut être considéré comme à peu près achevé. Dans un souci didactique, je me propose de présenter les choses sous forme de lettre de parents adressée à leurs enfants. Je vous invite à l’examiner à loisir et vous remercie des corrections et compléments que vous voudrez bien y apporter.
*****

Mes enfants bien aimés,

Maman et Papa sommes maintenant octogénaires, atteignant ainsi une longévité appréciable par rapport aux générations qui nous ont précédés. Nous vous avons, à maintes occasions, entretenus d’un certain nombre de sujets, mais vous n’étiez pas souvent tous réunis pour nous écouter. De plus, il n’est pas certain que vous ayez retenu tous nos propos. Aussi, cette lettre a-t-elle été rédigée pour résumer les principales idées que nous souhaitions vous faire parvenir. Pour vos enfants qui parlent le vietnamien mais ne le lisent pas très bien, nous vous demandons de trouver la meilleure façon de leur transmettre nos pensées et de leur donner toutes les explications utiles. Il ne s’agit pas seulement de prendre connaissance de ce que nous mettons aujourd’hui par écrit pour vous, mais encore d’en bien pénétrer le sens.

De la gratitude. - Mes enfants, en fuyant le communisme pour rechercher la liberté, nous avons dû tout laisser derrière nous : nos biens, l’autel et les tombes de nos ancêtres. Dans cette deuxième patrie, les autorités et la population nous ont bien accueillis et nous ont aidés à nous installer. Maintenant que notre situation s’est bien stabilisée, nous devons être reconnaissants envers ce pays et nous efforcer de contribuer à le rendre encore plus rayonnant, plus prospère et plus puissant, témoignant ainsi quelque peu de notre gratitude.

Des raisons de notre exode. - Vous devez expliquer clairement à vos enfants les raisons qui ont poussé notre famille ainsi que des dizaines de milliers d’autres à venir nous installer ici : nous fuyions le communisme, à la recherche de la liberté. Vos enfants ont la chance de vivre dans une société démocratique. Goûtant à la liberté dès leur naissance, ils ne pourraient jamais s’imaginer jusqu’où peuvent aller la duplicité et la cruauté des communistes. Ils auraient du mal à croire que des hommes puissent être aussi féroces envers d’autres hommes (On peut leur faire voir le film « Voyage sur l’océan », réalisé par Trần Hàm et qui est sorti en salle le 30-4-2005.) Les communistes sont très cruels en acte mais très habiles en parole et excellent dans l’art de la dissimulation ! D’où la nécessité de bien faire comprendre les choses à vos enfants, non pas tant pour susciter la haine que pour leur faire connaître la réalité. On se répète souvent cette phrase : « N’écoutez pas ce que disent les communistes, regardez bien ce qu’ils font. »

Du pays de nos ancêtres.- Si occupés que vous soyez, prenez le temps de méditer sur l’histoire et la géographie du Việt Nam, afin de connaître les origines de notre peuple, la formation de notre nation, nos vicissitudes, nos moments de gloire comme nos heures d’humiliation, les actes de sagesse de nos pères comme leurs forfaits. Il convient d’en tirer toutes les leçons.

Les pages de notre histoire sont remplies alternativement de gloire et de larmes. A certaine époque, notre pays a dû subir le joug d’une occupation humiliante durant mille ans; à d’autre moment notre peuple a su se soulever héroïquement pour briser ses chaînes et reconquérir son indépendance. Il nous est arrivé de nous lancer dans la conquête et la destruction d’autres pays; l’exemple le plus récent en est l’occupation destructrice du Cambodge pendant dix ans, provoquant la haine d’un pays voisin et laissant ainsi un poids très lourd dans notre karma, que les générations futures auront à assumer.

De l’Histoire récente.- Notre pays a été colonisé par la France à la fin du 19ème siècle. Vers 1940, éclata une guerre mondiale. Dans notre pays, les Japonais renversèrent les Français, par un coup d’Etat, le 9-3-1945. L’empereur Bảo Đại décréta l’abolition du traité de protectorat conclu avec la France et confia à M. Trần Trọng Kim la formation du premier gouvernement du Việt Nam indépendant. En définitive, les pays de l’Axe, Allemagne, Italie et Japon, furent vaincus par les Alliés, Angleterre, France, Etats-unis, URSS, Chine. Le 19-8-1945, le Việt Minh s’empara du pouvoir détenu par le gouvernement Trần Trọng Kim et proclama la création de la République démocratique du Việt Nam. Mais peu de temps après, la France cherchait à rétablir sa domination. Le 19-12-1946 une guerre de résistance nationale se déclara contre les Français. Mais lorsque le Việt Minh révéla sa vraie nature communiste, les partis nationalistes, face au danger de se faire progressivement anéantir, se replièrent vers la zone nationaliste contrôlée par un gouvernement différent de celui de la zone de résistance, d’essence communiste. Après la bataille de Điện Biên Phủ, les Accords de Genève de 1954 ont partitionné le pays en deux : le Nord devenait la République Démocratique et le Sud, la République du Việt Nam. Le Nord se réclamait ouvertement du bloc communiste et entama sans tarder le processus de conquête du Sud par la force, qu’il dissimulait aux yeux du monde entier, derrière sa créature que fut le Front National de Libération du Sud. Le Sud Việtnam reçut l’appui des Etats-unis et des alliés du monde libre pour faire pièce à l’expansion du communisme. Lorsque les troupes d’invasion du Nord prenaient trop d’ampleur, les Etats-unis firent débarquer leurs soldats dans le Sud. A partir de 1965, la guerre s’intensifia. En 1972, après la rupture consommée entre l’URSS et la Chine, le Président Nixon se rendit en Chine et y signa les Accords de Shanghai. Dès lors, les Etats-unis n’ayant plus besoin de leur avant-poste contre le communisme, laissèrent tomber la République du Việt Nam ! (L’ouvrage « Lorsque les Alliés s’enfuient » du Dr. Nguyễn Tiến Hưng révèle des réalités affligeantes sur la trahison et la fuite des Américains.) Selon les Accords de Paris de 1973, les Etats-unis devaient retirer leurs troupes du Sud Việt Nam, et ne pouvaient laisser sur place qu’un certain nombre de conseillers militaires alors que les troupes Nord việtnamiennes elles, restaient stationnées au Sud ! Les communistes du Nord pouvaient ainsi poursuivre leur invasion du Sud avec l’aide considérable du bloc communiste international. Le Sud Việt Nam, quel que soit le courage avec lequel il livrait sa guerre d’autodéfense, s’est trouvé acculé, en raison du rationnement de munitions et de carburants, dans une situation intenable. Le 30-4-1975, Sàigòn, la capitale, tomba. Commençait alors l’exode des réfugiés fuyant le communisme, à la recherche de la liberté. La suite, vous la connaissez avec suffisamment de détails.

De l’analyse des informations et des documents historiques.- De nos jours, il y a pléthore d’informations. On a écrit énormément sur le Việt Nam, sur la guerre du Việt Nam avec en plus des photos, des films. Mais peu d’ouvrages ou de réalisations vraiment rigoureux.. Des auteurs honnêtes existent mais qui n’arrivent à rendre compte que d’un aspect de la réalité, tels les aveugles de la fable bouddhiste qui cherchent à décrire l’éléphant en le palpant. D’autres déforment sciemment la vérité pour des visées personnelles. D’autres encore, - des religieux de surcroît -, affabulent dans le but de calomnier. Le pire, c’est lorsque les tenants du pouvoir ou leurs sbires se mettent à écrire l’Histoire. Alex Haley l’a écrit dans les dernières lignes de son ouvrage « Racines » : « En fin de compte, l’Histoire est écrite par les vainqueurs. » C’est pourquoi, nous vous demandons instamment à vous et surtout à vos enfants, d’observer une extrême prudence et d’exercer une intelligence vigilante lorsque vous abordez les documents écrits ou les films sur le Việt Nam au 20ème siècle et au début du 21ème siècle, et ce, quels qu’en soient les auteurs, même européens ou américains. Pour nous, vos parents, le conflit qui a eu lieu dans notre pays, de 1954 à 1975, fut une guerre entre le Nord et le Sud, une guerre civile, une guerre par procuration résultant de l’affrontement entre le bloc communiste et le monde libre, une guerre livrée avec les armes des pays étrangers et le sang du peuple việtnamien. Pour les populations du Sud, c’était une guerre d’autodéfense. Pour les communistes du Nord, conditionnés par la propagande et le dressage des masses, c’était une guerre livrée contre la clique Américano-fantoche pour réunifier le pays. Les vainqueurs s’étaient montrés arrogants et cruels, les vaincus eux, ravalaient leur sourde haine et leur humiliation. Là gît le cœur des divisions profondes de notre peuple (à vrai dire, il existe d’autres motifs de division.) Tant qu’on n’arrive pas à faire changer ces deux façons de percevoir les choses, il serait vain de parler de réconciliation nationale ! Des millions de morts, un pays réunifié, mais les Việtnamiens restent encore profondément divisés dans leur cœur.

Des visites au Việt Nam.- Certaines personnes nous ont demandé si nous étions déjà rentrés au Việt Nam. Notre réponse a été : « pas encore, et pour des raisons de santé. » Beaucoup de monde sont rentrés au pays, chacun y va de sa raison personnelle, de son but, de sa façon de voir les choses ! Retourner au pays pour prendre soin de ses parents âgés ou malades, pour s’occuper de ses proches, pour entretenir les tombes de ses ancêtres, pour donner des cours aux étudiants, pour revoir son pays, voilà des motifs légitimes. Rentrer pour porter secours aux victimes des catastrophes naturelles ou pour aider des compatriotes dans le besoin, de façon désintéressée, voilà une bonne action. Mais rentrer pour festoyer ou pour s’amuser, pour faire du tourisme à bon marché, pour rechercher honneur ou avantage voire pour quémander quelque distinction officielle, alors il vaut mieux s’en abstenir. Plus tard, si le pays changeait effectivement, vous pourriez ramener vos enfants visiter notre patrie. Mais nous pouvons vous dire à l’avance qu’ils ne seront pas particulièrement émus, - on ne saurait éprouver une quelconque émotion si l’on n’a pas de souvenirs qui vous attachent à quelque chose. Tâchez d’amener vos enfants à aimer notre pays, notre peuple, nos compatriotes, et faites en sorte qu’ils ne se comportent pas en vulgaires touristes. Quant à l’éventualité de vous voir vous installer et vivre au Việt Nam, nous pensons qu’elle est peu probable.

De l’état actuel du pays.- Si quelqu’un vous dit que le pays a fait des progrès (la majorité de la population arrivent maintenant à se procurer du riz pour leurs repas, au lieu du misérable mélange de riz et d’avoine; les motos et les voitures remplacent les vélos … ; c’est quand même impensable qu’après trente années de paix, il n’y ait aucun progrès !), sachez qu’il s’agit, en vérité, d’un constat de l’évolution du pays sur sa propre trajectoire. Car si l’on compare le Việt Nam avec les pays voisins, on doit avoir honte sur de nombreux sujets (même le Cambodge a un parti d’opposition !). Si vous voulez connaître la réalité du Việt Nam qui se cache derrière les buildings, les voitures rutilantes, les palaces cinq étoiles, les terrains de golf dernier cri, informez-vous sur la situation à l’intérieur du pays. Pour vous rendre compte de la déliquescence avancée de multiples secteurs (en particulier l’éducation), de l’existence d’un capitalisme rouge, de la corruption comme fléau national, de la gabegie des ressources de la nation. Et rendez donc visite aux compatriotes vivant dans des régions reculées et misérables. Nous avons besoin de connaître la vérité sans fard, celle qui n’est peinte ni en rose ni en noir. Pour vous faire une idée précise de la situation de notre pays, procurez-vous l’exposé du Dr. Lê Đăng Doanh, ancien directeur de l’Institut Central de Recherche sur la Gestion à Hà Nội. Il a dit la vérité aux plus hauts dirigeants communistes. Ce document vient de parvenir à l’étranger. Dans une présentation qui est faite de ce texte, on peut lire : « Chacun doit prêter attention aux chiffres qui rendent compte de la triste réalité de l’économie việtnamienne. M. Doanh pointe du doigt les faiblesses de l’économie et la nature antidémocratique du régime communiste au Việt Nam. Partant de là, il affirme sans détour que les structures politiques sont obsolètes, qu’il faut les changer » (Ngô Nhân Dụng, in quotidien Người Việt du 30-3-2005). M. Doanh rapporte une anecdote : un expert des finances internationales lui a posé la question suivante: « Doués comme vous êtes, comment se fait-il que vous êtes restés pauvres pendant si longtemps ? Avec une telle intelligence, une telle tradition, pourquoi mendiez-vous tout le temps ? Fixez-vous donc une date limite à partir de laquelle vous cesserez de demander l’aumône. Est-ce possible ? » Quelle humiliation pour nous tous ! Notre pays n’a pas que des incapables, notre peuple n’est pas fainéant; pourquoi cette misère innommable ? Eh bien ! c’est à cause de la dictature du Parti !

De l’attitude politique.- Non seulement les compatriotes à l’étranger exigent l’abolition du Parti unique, mais des membres du parti communiste mêmes, ainsi que les éléments progressistes dans le pays la réclament. Comprenez bien : lutter contre la dictature, contre le parti unique, contre la corruption, contre la ligne erronée des communistes ce n’est point se dresser contre le Việt Nam, c’est, bien au contraire, plaider pour que le pays puisse s’améliorer, progresser.

Certains pensent que les communistes việtnamiens ont changé pour un peu de « renouveau ». Il faut savoir que c’est la conséquence de l’effondrement du communisme en Europe de l’Est, de la lutte des Vietnamiens à l’intérieur et à l’extérieur du pays, de la pression internationale; c’est la menace de désagrégation du Parti qui a acculé les communistes à des changements économiques (sans changer, pour autant, sur le plan politique). Même si nous ne faisons pas de politique, nous devons néanmoins avoir une attitude politique, nous devons continuer à soutenir les luttes en vue d’instaurer dans notre pays une démocratie et une liberté effectives. Le Secrétaire Général du parti communiste a reconnu que les communistes việtnamiens « avaient commis de nombreuses erreurs. » Nous posons la question : si erreurs il y a eu, pourquoi ne pas les corriger, pourquoi ne pas demander publiquement pardon au peuple, pourquoi ne pas restituer les terres et les propriétés bâties aux particuliers et aux institutions religieuses ; pourquoi ne pas indemniser les victimes de la réforme agraire, celles de la répression contre les intellectuels et artistes dans l’affaire Nhân Văn-Giai Phẩm, celles des vagues de réforme de l’industrie, de l’artisanat et du commerce ? Pourquoi ne pas accorder réparation à ceux qui ont été envoyés en « camps dits de rééducation » et leur demander pardon ? En vérité, tout le monde souhaite jeter haine et rancunes à la rivière, mais il appartient aux communistes d’accomplir des actes concrets pour que le peuple puisse les constater de visu. Clamer : « effaçons haine et rancunes, tournons la page du passé, regardons vers l’avenir » sans rien faire de concret ne rime à rien. Appeler à la « Grande Union » et la placer sous l’égide du Parti (article 4 de la Constitutiơn.) : à qui donc veut-on de la sorte inspirer confiance ?

Des affaires familiales.- Parlons maintenant de nos affaires de famille. Nous, vos parents, appartenons à une génération antérieure et nous vous avons élevés suivant les normes de cette génération, tout comme vos grands-parents nous avaient élevés d’après les normes de leur époque. Parfois, il vous arrive sûrement de penser que nous avons été trop sévères. Mais, c’était normal en ce temps-là. Nous espérons que vous oublierez les peines, qu’à notre insu, nous avions pu vous infliger. Gardez bien présent à l’esprit que nous n’avons pas cherché à mener la grande vie, que nous n’avons rien gaspillé, que nous avons mené une existence faite de mesure et de raison, que nous nous sommes efforcés de travailler et d’économiser pour vous permettre de ne manquer de rien, de poursuivre des études sérieuses, dans une atmosphère familiale chaleureuse. Parce que nous avions été spoliés de tous nos biens par les communistes, nous avions vécu un début fort difficile à l’arrivée dans ce pays; nous avions dû accepter des emplois vraiment pénibles. Et vous aussi, vous aviez travaillé dur pendant vos vacances et fait de sérieux efforts pour vos études. A l’heure actuelle, tout paraît s’arranger, par la grâce du Ciel, de Bouddha et de nos ancêtres. Ne cultivez jamais l’autosatisfaction. Ne vous considérez jamais comme supérieurs et talentueux. Rappelez-vous : « Si l’on regarde au-dessus de soi, on se voit minable ; si l’on regarde au-dessous de soi, on constate que personne n’est à sa hauteur ». Votre talent personnel, s’il existe, ne compte que pour partie, le reste résulte d’heureux concours de circonstances, des bienfaits intangibles hérités de vos ancêtres et de vos vies antérieures voire de votre vie actuelle. Cultivez en permanence une vie vertueuse afin d’améliorer votre karma, à l’instar de l’automobiliste qui doit penser à recharger la batterie de sa voiture. Qui sème le bon grain récolte de bons fruits. Telle est la loi de la causalité universelle qui ne souffre d’aucune erreur ! En ce qui concerne votre petite famille, voici nos conseils : entre époux, il faut vous respecter l’un l’autre, savoir faire des concessions mutuelles. Des frictions sont in&e

24 thg 1, 2013

Thiên Đàng - Địa Ngục

Trước kia có vị đại từ thiện, một hôm trong mộng được Diêm Vương dẫn đi thăm quan địa ngục, trong địa ngục phát hiện mọi người đang cãi nhau. Vốn là ở địa ngục có một cái bàn lớn, trên bàn bày một số món ăn, mỗi người cầm một cái thìa rất dài. Do thìa quá dài nên không có cách nào đưa thức ăn vào miệng, mà dùng tay thì không với được thức ăn nên mỗi người đều hí hoáy nghĩ cách đưa thức ăn vào miệng với cái thìa dài trong tay. Nguyên nhân cãi nhau là thao tác chiếc thìa quá dài mà va chạm với nhau

Tiếp theo, ông ta lại lên thăm viếng cõi cực lạc. Thật kỳ lạ, quang cảnh nơi đây không khác gì địa ngục, cũng một chiếc bàn lớn, với các món ăn và những chiếc thìa rất dài. Điểm duy nhất khác nhau là mọi người ở đây ăn uống với nhau một cách vui vẻ. Tại sao vậy? Vì mọi người dùng chiếc thìa rất dài đó để xúc thức ăn cho nhau, do đó, mọi người đều có thể ăn được, không ai tranh chấp hay gây khó dễ.
Thực ra Thiên Đàng và Địa Ngục không có gì khác biệt. Chính cách thức mà chúng ta nhìn nhận và cư xử với nó đã tạo nên sự khác nhau. Nếu chúng ta sống với nhau bằng tình yêu thương, biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau thì chúng ta sẽ nhận lại chính những điều tốt đẹp đó và cánh cổng đang chờ đợi chúng ta chính là Thiên Đàng. Ngược lại nếu chúng ta chỉ biết nghĩ cho riêng mình thì chẳng khác nào chúng ta đang sống trong Địa Ngục.

Mechichi- Sưu tầm.

Triệu Con Tim - Hợp Ca Asia và Ca Đoàn Ngàn Khơi

19 thg 1, 2013

6 cách để yêu chính mình

Đức Trí
Yêu chính mình là bước khởi đầu cho một cuộc sống vui vẻ hơn và dễ dàng thành công hơn, theo Nguyệt San "Canadian Living".

Khi biết yêu chính mình, bạn sẽ cảm thấy vui vẻ hơn. Khi ấy những người xung quanh bạn cũng vui vẻ hơn, theo bà Shannon Skinner, nhà thuyết trình truyền cảm hứng và là người thực hiện chương trình truyền hình online “Extraordinary Women TV with Shannon Skinner” (tạm dịch: Những người phụ nữ khác thường cùng Shannon Skinner) tại Toronto, Canada.

Đây là chương trình gồm các cuộc trò chuyện giữa bà Shannon và những người phụ nữ thành công ở nhiều nơi trên thế giới. Họ có thể là doanh nhân, chính trị gia hay thậm chí chỉ là những người phụ nữ bình thường nhưng có lối sống khác thường và thành công trong cuộc sống.

Từ những cuộc trò chuyện đó, bà Shannon chia sẻ một số bí quyết sau để phụ nữ có thể yêu chính mình, bước khởi đầu cho một cuộc sống vui vẻ và thành công.

1. Mở rộng trái tim mình bằng cách biết ơn
Cảm giác tiêu cực về người khác và những chuyện xảy ra trong quá khứ dễ làm chúng ta đóng cửa trái tim mình. Hãy sống với lòng biết ơn và quan sát mọi việc quanh mình, trái tim của bạn sẽ rộng mở.

Mỗi đêm bạn hãy cố gắng viết ra 3 điều mà bạn cảm thấy biết ơn cho ngày hôm đó. Đó có thể chỉ là những điều đơn giản.
Bài tập này sẽ giúp bạn cân bằng tâm trí mình và giúp bạn mở rộng trái tim mình để đón nhận những điều tốt đẹp. Nhờ vậy, bạn sẽ chỉ tập trung vào những điều tốt đẹp và quên đi những điều không vui.

2. Tin vào bản thân

Cách tốt nhất để tin vào chính mình là làm cho mình đáng để tin cậy. Hãy làm bất cứ điều gì khiến bạn tin vào khả năng của chính mình. Bạn có thể thử thách bản thân, cho dù đó chỉ là một điều nhỏ nhặt, chẳng hạn như quyết định phải mặc gì, đặt món ăn gì ở nhà hàng. Hãy tin vào suy nghĩ của mình và tự quyết định thay vì hỏi ý kiến người khác.

Cứ mỗi khi bạn tự quyết định một điều gì, bạn sẽ cảm thấy tin vào chính mình hơn. Dần dần, bạn sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi phải quyết định những vấn đề quan trọng.

3. Yêu khuyết điểm lẫn ưu điểm của mình

Khi bạn biết ưu điểm và khuyết điểm của mình, bạn sẽ tìm thấy sự cân bằng. Những đặc điểm này có thể giúp bạn tiến bộ hơn nhưng cũng có thể làm bạn tụt hậu.

4. Hãy thường xuyên hẹn hò với chính mình

Bạn nên cố gắng thu xếp để tận hưởng những khoảng thời gian bạn ở một mình. Chúng sẽ giúp bạn cảm thấy tươi trẻ trở lại, phục hồi năng lượng, suy nghĩ rõ ràng hơn để nhận ra những gì quan trọng với bạn.

Bạn có thể đi dạo một mình và cho phép mình mơ mộng. Bạn có thể ngồi trên ghế đá công viên trong một buổi trưa nắng đẹp và đọc cuốn sách mà mình thích. Hãy tự mua hoa cho mình hay thưởng cho bản thân một suất mát xa.

Các mối quan hệ sẽ tốt đẹp hơn khi chúng là món quà tặng trong cuộc đời hơn là điều cần phải có để hoàn thiện cuộc đời.

5. Tìm đến những gì có thể truyền cảm hứng cho bạn

Bạn có thể đang phải đối mặt với chuyện không vui, chẳng hạn như mất người thân, chia tay người yêu hay mắc bệnh...

Nhưng một khi bạn được truyền cảm hứng, niềm vui sướng và sự đam mê sẽ lấn át những cảm xúc tiêu cực. Điều duy nhất bạn cần làm là tìm ra được những gì có thể truyền cảm hứng cho bạn. Khi bạn gặp khó khăn, hãy giữ gìn những gì khiến bạn cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.

6. Nghe theo trái tim mình

Hãy tin tưởng vào trực giác của mình để nhận biết điều đúng - sai. Hãy làm theo những gì con tim mách bảo và không phán xét. Một khi bạn đã biết yêu chính mình, bạn sẽ trở thành nguồn cảm hứng của người khác và của chính bản thân bạn.

____________________________

10 cách để sống hạnh phúc

Theo Men's Health

Một cuộc sống hạnh phúc là cuộc sống mà mọi thứ đều đi theo đúng quỹ đạo của nó. Bạn không phải lo âu về tình hình sức khỏe, tiền bạc, tình cảm… và còn hằng hà sa số những phiền muộn khác. Để đạt được điều đó, hãy tập cho mình quen dần với những quan niệm sống sau:

1. Biết sống lạc quan

Hãy nhìn cuộc đời theo hướng tích cực nhất, coi mọi khó khăn, cản trở chỉ là “chuyện nhỏ” đối với bạn. Khi đạt được điều đó, tự khắc, bạn sẽ cảm thấy mình có đủ năng lượng và sự tự tin cần thiết để đạp bằng mọi trở ngại trên đường đời. Một chút khiếu hài hước cùng một nụ cười rạng rỡ và “tỏa ánh sáng” sẽ giúp bạn trở thành người đàn ông hấp dẫn trong mắt phái yếu .

2. Biết chọn đúng người bạn tri âm

Hạnh phúc khi tìm kiếm được người có thể chia sẻ mọi tâm sự với mình thật tuyệt vời. Đó là người sẽ luôn bên bạn mỗi lúc khó khăn, động viên bạn những khi thất bại, bởi vì, anh ta tin chắc rằng bạn cũng sẽ làm như thế trong tình huống ngược lại.

Tin tưởng vào mối giao hảo bạn bè là yếu tố để bạn có một cuộc sống hạnh phúc – một cuộc sống không tồn tại những tư tưởng ích kỉ cá nhân, ganh đua và đố kị. Tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng cũng là yếu tố mang lại sự cân bằng hạnh phúc trong cuộc sống của bạn.

3. Biết nhìn xa trông rộng

Đàn ông được xem là những người thích hợp để “làm việc lớn”. Do đó, đừng để những điều nhỏ nhặt có thể làm bạn chùn bước. Hãy coi việc phát triển công danh sự nghiệp là mục tiêu quan trọng trong cuộc đời mình, dù có phải đổ bao công sức phấn đấu, thậm chí kết hôn muộn một chút thì cũng chẳng hề hấn gì.

4. Biết cảm ơn

Khi nhận được sự giúp đỡ của những người xung quanh, hãy thật lòng cảm ơn họ vì điều đó. Hãy cảm ơn người bạn thân vì đã sát cánh bên bạn suốt quãng đời học sinh, cảm ơn người đồng nghiệp vì đã cùng bạn hoàn hành tốt một dự án, cảm ơn người bạn đời của mình vì sự sẻ chia những buồn vui trong cuộc sống . Một lúc nào đó, hãy tặng ông lão hành khất bên đường vài đồng bạc lẻ để cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc khi giúp đỡ người khác.

5. Biết hưởng thụ cuộc sống

Bạn đã làm việc hăng say trong suốt thời gian qua và đây chính là lý do thích hợp để bạn có thể tự thưởng cho mình một chuyến nghỉ dưỡng, khám phá một địa điểm du lịch mà mình đã ao ước từ lâu. Hãy dành thời gian rảnh rỗi để làm bất cứ điều gì bạn thích mà vẫn chưa có dịp thực hiện.

Cuộc sống còn quá nhiều điều thú vị và thật đáng tiếc cho những ai không biết cách hưởng thụ nó. Người ta chẳng bảo bạn nên “ quẳng gánh lo đi mà vui sống ” đấy thôi.

6. Biết tự chăm sóc tốt cho cơ thể

Sức khỏe là vốn quí của con người. Hãy tập cho mình một thói quen ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng kết hợp cùng việc rèn luyện đều đặn để có một cơ thể khỏe mạnh. Nếu có điều kiện, hãy tham gia vào một câu lạc bộ thể thao vì tính đoàn kết, giúp đỡ nhau trong tập thể sẽ tạo động lực cho quá trình tập luyện của bạn.

7. Biết thay đổi những thói quen có hại cho cuộc sống

Nhận thức rõ và loại bỏ dần những thói quen xấu của mình như việc thức quá khuya để xem tivi, ăn uống, sinh hoạt không điều độ, làm việc tùy hứng…Luôn động viên mình rằng những thay đổi này sẽ biến chuyển bạn trở thành một con người mới, năng động và sống có ý nghĩa hơn.

8. Biết hòa đồng cùng những người xung quanh

Để tồn tại trong một xã hội gồm nhiều cá thể riêng biệt, bạn cần giữ được mối dây liên kết với mọi người xung quanh mình nếu không muốn trở thành một “Robinson trên đảo hoang”. Hãy hồi tưởng lại niềm vui khi bạn nhận được thiệp chúc mừng sinh nhật từ một đứa bạn thân đã lâu không gặp. Vậy thì, hãy nhấc điện thoại lên để gọi điện hỏi thăm và trở thành người mang niềm vui bất ngờ này đến cho những người thân của mình!

9. Biết mơ mộng

Ai cũng có những ước mơ, tham vọng cho riêng mình. Một khi đã hình thành những mục tiêu cần đạt được trong tương lai, tự khắc, bạn sẽ tìm thấy động lực để phấn đấu và biến ước mơ đó trở thành sự thật.

10. Biết tha thứ

Tha thứ cho những lỗi lầm của người khác cũng là một cách để bạn tìm thấy niềm vui trong cuộc sống. Đừng để sự tức giận, cáu gắt tạo ra những áp lực cho cuộc sống của bạn . Hãy để tinh thần mình thật thanh thản mà vui sống, bạn nhé!


__._,_.___

12 THÁNG ANH ĐI