17 thg 5, 2014

Ai đứng đằng sau giật dây?

Ngô Nhân Dụng

Ngay sau vụ công nhân biểu tình đốt phá ở Bình Dương, cả công an lẫn hệ thống tuyên truyền nhà nước đều xác định các biến cố này là “tự phát,” không ai tổ chức. Ðiều này khó hiểu, vì xưa nay mỗi lần như vậy thế nào họ cũng tố cáo những “thế lực thù địch” xúi giục và tổ chức.

Tại sao họ xác nhận về tính “tự phát” nhanh chóng, không cần phải nghiên cứu, điều tra một thời gian nào cả? Câu trả lời tự nhiên là: Họ không cần điều tra, vì họ biết đây không phải là những hành động tự phát. Ai ra lệnh cho cả guồng máy nói cùng một giọng nói dối như vậy?

Ðể trả lời những câu hỏi này, cần kiểm điểm coi các sự kiện đã diễn ra như thế nào.

Trước hết, có thể khẳng định rằng các cuộc biểu tình bạo động ở Bình Dương ngày Thứ Ba, 13 Tháng Năm, 2014, không do công nhân phát động mà họ đã bị sách động. Nhiều nguồn tin khác nhau trên mạng cung cấp các thông tin cho ta thấy điều đó. Chẳng hạn, một số chủ nhân người Trung Quốc đã cho công nhân được nghỉ làm việc trong buổi sáng hôm đó. Ðây là một chuyện bất thường, không có lý do nào cả. Cùng trong buổi sáng, một số người không phải công nhân đã vào các nhà máy kêu mọi người đi biểu tình. Công nhân hưởng ứng ngay vì trong lòng đã chứa sẵn uất ức; và họ nghĩ việc này không nguy hiểm vì được chính quyền khuyến khích. Tâm lý họ được chuẩn bị rồi, vì hai ngày trước đó ai cũng biết các báo, đài, loan tin về những vụ biểu tình chống Trung Cộng ở Hà Nội, Sài Gòn, Ðà Nẵng, Huế, vân vân, mà không ai bị đàn áp.

Hai chi tiết trên chứng tỏ có đám người lợi dụng tình cảm uất ức của công nhân, kêu họ đi biểu tình. Lại thêm các chi tiết khác bất thường hơn nữa. Chẳng hạn, trên các con đường đám biểu tình đi qua cảnh sát công an hoàn toàn vắng mặt. Có blogger nhìn thấy “một chiếc xe Matiz bí ẩn” mang cờ đỏ “búa liềm và ngôi sao” dẫn đầu đoàn biểu tình. Cờ búa liềm là biểu tượng uy quyền của đảng Cộng sản, các công nhân càng yên tâm tiến bước. Nhiều blogger ghi nhận có đám đầu gấu dẫn đầu đi lật đổ nhiều chiếc xe và container của các công ty, rồi đốt cháy, nhưng chúng không cướp của; chứng tỏ chúng đang thi hành những mệnh lệnh quan trọng hơn, chỉ nhằm khích động đám đông đốt, phá. Một nhạc sĩ đã ghi lại: “...một người đàn ông bí ẩn, mặc áo công nhân, phất tay liên tục,” hoặc “một anh người Bắc, đội nón bộ đội và đeo kính đen” ra lệnh cho đám người mang “dùi cui gỗ có hình dạng như điếu cày.” Việc đốt phá không phân biệt các nhà máy là của người Trung Quốc, Ðài Loan, Nhật Bản hay Hàn Quốc; chắc chắn do cố ý chứ không phải vô tình. Một chi tiết không biết xác thực tới đâu, cho biết: Những người chỉ huy “chạy trên các xe có biển số 36,” và trên xe mang theo “ống sắt, xà beng, cờ trống,” vân vân. Số xe 36 là của tỉnh Thanh Hóa.

Với các chi tiết được nhiều người quan sát đưa ra như trên, chúng ta có thể xác định: Công nhân đã được khích động đi biểu tình; nhưng các vụ cướp phá là do một đám khác cố ý gây ra, không phải do công nhân khởi xướng. Nhiều đồng bào trong nước cũng như ở hải ngoại đã kêu gọi các công nhân bình tĩnh, đừng đốt, đừng giết người Trung Quốc. Thực ra, không công nhân nào chủ mưu các hành động đó. Cho nên blogger Người Buôn Gió và Tiến Sĩ Nguyễn Quang A đã đặt câu hỏi: “Có ai đó đứng đàng sau giật dây cuộc bạo động.”

Họ có thể dễ dàng “đứng đàng sau giật dây,” thực hiện âm mưu của họ; vì họ biết dân Việt Nam đang sẵn sàng xuống đường chống Trung Cộng. Những kẻ giật dây đó là ai? Những người đó là ai? Âm mưu của họ nhắm mục đích nào?

Những kẻ chủ mưu phải là người có đủ uy thế hoặc quyền lực; có như vậy họ mới có thể yêu cầu các chủ nhân người Trung Quốc cho công nhân nghỉ làm việc. Hơn nữa, họ có khả năng sai khiến một đám quân đầu gấu chuyên nghiệp. Vì thế, có người tin rằng đám người “đứng đàng sau giật dây” thuộc hàng cán bộ cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam, từ trung ương hoặc địa phương.

Nhưng có người nào trong đảng Cộng sản muốn gây ra cảnh hỗn loạn như ở Bình Dương, lan ra Bắc đến tận Hà Tĩnh? Trong đám lãnh đạo cộng sản hiện nay có kẻ nào muốn gây loạn để lật đổ bọn nắm quyền, cho nhóm khác lên thay? Hoặc có người muốn gây loạn khiến quân đội phải can thiệp, sau đó quân đội sẽ lên nắm quyền? Chúng ta đã thấy đám côn đồ lợi dụng biểu tình đi đốt phá ở Bình Dương bị quân đội ngăn cản đã phải chuyển hướng qua Biên Hòa, chứng tỏ quân đội có khả năng dẹp loạn. Lần đầu tiên xe tăng đã xuất hiện trên đường phố Sài Gòn kể từ năm 1975 khiến dân chúng ngạc nhiên. Hiện tượng đó có chuẩn bị cho một chế độ quân phiệt lên thay chế độ cộng sản hay không?

Nhưng giả thiết “phá trong nội bộ” trên đây ngầm hiểu rằng những kẻ “đứng đàng sau giật dây” muốn thay thế cả bộ máy thống trị bằng một nhóm khác, với đường hoàn toàn lối mới. Hơn nữa, theo giả thuyết này thì những kẻ chủ mưu chấp nhận nguy cơ không ai kiểm soát được cảnh hỗn loạn lan tràn, dẫn tới cảnh chế độ tan rã.

Trong đảng Cộng sản có người nào hiện nay sẵn sàng làm liều như thế hay chưa? Người ngoài khó biết được. Nếu có, thì số người này rất ít, và chắc họ không có đủ quyền thế để có khả năng sai khiến, chỉ huy nhiều tay sai đầu gấu như thế, trong lúc đám công an đứng ngoài không can thiệp. Trừ khi chính các tay trùm công an chủ mưu. Bọn chỉ huy công an đã quen sử dụng côn đồ đàn áp đồng bào từ hàng chục năm nay.

Khi xét lại giả thiết nội bộ phá lẫn nhau để giành quyền, chúng ta thấy một điều khó tin nhất, là dù ai chủ mưu thì họ cũng phải thấy nhiều mối rủi ro, nguy hiểm. Thứ nhất là các phe tranh quyền sẽ chịu chung số phận nếu các cuộc bạo loạn khiến cả chế độ tan rã. Thứ hai là kinh tế sẽ suy sụp dù ai lên nắm quyền thay đám lãnh tụ hiện nay. Lâu nay Cộng sản Việt Nam vẫn khoe chế độ của họ tạo được “ổn định chính trị.” Nay thì ai cũng biết một xã hội không thể nào ổn định khi trong dân chúng chất chứa bao nhiêu bất công, oan ức. Có người nào trong đám lãnh tụ cộng sản, cả các tay chỉ huy công an, sẵn sàng chấp nhận hai thứ rủi ro đó hay không? Có lẽ bản năng sinh tồn sẽ ngăn cản không cho người ta làm liều như vậy.

Cho nên nhiều người nghĩ rằng các cuộc bạo loạn vừa qua không do một phe nào trong đảng Cộng sản Việt Nam chủ mưu. Thay vào đó là giả thuyết chính hệ thống tình báo Trung Cộng đứng đằng sau giật dây các cuộc bạo động. Gián điệp Trung Cộng hiện đang len lỏi khắp nơi, hoạt động bên trong và bên ngoài chính quyền. Họ không cần ra mặt mà có thể đứng đàng sau giật dây cả đám công an, mật vụ và đầu gấu. Giả thiết này có vẻ đáng tin, khi chúng ta nhận ra rằng chính quyền Bắc Kinh rất có lợi khi các cuộc bạo loạn tuần qua xảy ra.

Tình báo Trung Cộng chắc chắn biết trước người Việt Nam sẽ sôi máu khi họ đưa giàn khoan dầu HD-981 vào chiếm biển nước ta. Một chứng cớ mới được tiết lộ cho thấy hai tháng trước đó, một xí nghiệp lớn của Trung Quốc đã được báo động. Chứng cớ này là một bản văn do công ty Hua Wei gửi cho các nhân viên của họ ở Việt Nam vào ngày 8 Tháng Ba năm 2014. Trong văn thư gửi qua Internet, ban giám đốc ra lệnh nhân viên của họ đang làm việc ở Việt Nam hãy về nước, và đưa gia đình ra khỏi Việt Nam để tránh nguy hiểm. Cuối văn thư còn ghi ba số điện thoại để liên lạc nếu cần cấp cứu.

Ðược hỏi về văn thư trên, ban giám đốc Hua Wei nói rằng việc họ báo động nhân viên là có thật, nhưng không liên can gì tới các biến cố HD-981, lúc đó chưa xảy ra. Nhưng tại sao họ lại biết những mối nguy hiểm từ hai tháng trước? Công ty Hua Wei mua bán trong 150 quốc gia khắp thế giới; cho nên họ phải nhận được những tin mật quan trọng mà các công nhỏ không biết. Người nào đưa tin cho họ, chắc phải thuộc hàng quan chức cao cấp của đảng Cộng sản Trung Hoa, biết trước kế hoạch HD-981. Họ có thể đoán rằng khi giàn khoan vào Biển Ðông thì người Việt sẽ phản đối mạnh mẽ.

Nhưng làm sao họ đoán trước được rằng cuộc chống sẽ đưa tới tình trạng đốt, phá các nhà máy và tìm giết người Trung Hoa. Mối hiểm nguy chết chóc là căn bản khiến Hua Wei gửi thư báo động. Chính quyền Bắc Kinh làm sao biết chắc sinh mạng người Trung Hoa sẽ bị đe dọa, trong khi kinh nghiệm cho họ thấy các cuộc biểu tình chống Trung Cộng trong hàng chục năm qua đều ôn hòa mà vẫn bị chính quyền Cộng sản Việt Nam đàn áp, ngăn cấm.

Họ có thể biết trước được nếu chính họ chủ mưu gây ra cảnh hỗn loạn. Ðiều này có thể tin được khi chúng ta suy nghĩ theo lối nhà trinh thám đi tìm thủ phạm một vụ giết người. Ai được lợi nếu nạn nhân chết, những người đó được xếp vào loại tình nghi.

Tình trạng hỗn loạn ở Việt Nam rất lợi cho chính quyền Trung Cộng. Nếu biết trước dân Việt Nam sẽ chống đối giàn khoan HD-981, thì phản ứng tốt nhất của Bắc Kinh là vô hiệu hóa các cuộc chống đối này trước dư luận, làm sao cho cả thế giới thấy dân Việt chống Trung Quốc là một lũ người bạo động, kém văn minh, không tôn trọng các quy tắc pháp luật và đạo đức. Muốn vậy, hãy đẩy cho phong trào chống đối chuyển sang tình trạng vô kỷ luật, tham tàn, phi pháp, và phi đạo đức. Khi đó cả phong trào phản đối của nhân dân Việt Nam sẽ bị vô hiệu. Cả thế giới sẽ bỏ rơi dân Việt Nam, chính quyền Trung Cộng được tự do hành động ở Biển Ðông.

Nhưng Trung Cộng không chỉ nhắm mục tạo ra hình ảnh xấu xa nhất cho dân Việt Nam để họ chiếm cảm tình của thế giới loài người. Các cuộc bạo loạn còn có thể gây ảnh hưởng xa hơn, là phá hoại cả nền kinh tế Việt Nam. Các cuộc biểu tình chống Trung Cộng đã bị biến hóa thành những cuộc bạo động, cướp bóc và giết người. Nhưng nguy hiểm nhất là bọn chủ mưu đã đi tấn công cả các công ty không phải của người Trung Hoa trong lục địa. Một hệ quả thấy ngay, là chính quyền ở Hồng Kông, Ðài Loan, Singapore đã phản đối và cảnh cáo dân chúng của họ không nên tới Việt Nam. Nếu giới đầu tư ngoại quốc mất tin tưởng, rút lui khỏi Việt Nam, thì không biết bao giờ kinh tế mới phát triển?

Công ty Formosa Plastics Group đang thiết lập một nhà máy thép hàng lớn nhất tại tỉnh Hà Tĩnh, với số vốn đầu tư lên tới 20 tỷ đô la, là một công ty tư của Ðài Loan, không liên can đến Cộng sản Trung Quốc, nhưng vẫn bị đầu gấu tấn công và nhiều người bị giết. Làm sao các công ty khác tin tưởng được rằng họ chắc chắn tránh được tình cảnh đó?

Bây giờ chúng ta hiểu được một lời đe dọa trên một tạp chí của đảng Cộng sản Trung Quốc; khi họ báo trước rằng Bắc Kinh sẽ “dạy cho Việt Nam một bài học” khác. Bài học mới này là đánh cả nước Việt Nam bằng đòn kinh tế, thay vì dùng vũ lực như năm 1979.

Giả thuyết tình báo Trung Cộng là bọn đứng đàng sau giật dây các vụ bạo động có cơ sở đáng tin hơn là giả thuyết trong nội bộ đảng Cộng sản Việt Nam phá lẫn nhau.

Nhưng giả thuyết Trung Cộng chủ mưu vẫn có một “lỗ hổng” cần giải thích: Tại sao Trung Cộng lại phá hoại cả hình ảnh “ổn định giả tạo” và làm suy yếu nền kinh tế Việt Nam như vậy, mà không lo cả chế độ cộng sản ở Việt Nam sẽ tan vỡ? Nếu còn sống thì đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trung thành làm theo ý Bắc Kinh hơn bất cứ một chính phủ mới nào ở Việt Nam. Có lẽ nào Bắc Kinh sẵn sàng hy sinh đám đàn em của họ, sau khi đã nuôi nấng Cộng sản Việt Nam từ Hội nghị Thành Ðô năm 1990 đến nay?

Sự thật là Bắc Kinh không cần đến đảng Cộng sản Việt Nam nữa, họ sẵn sàng vứt bỏ, như vứt một đôi giầy cũ nát. Họ đã đạt được nhiều lợi thế sau khi ký kết các bản hiệp định về biên giới, trên đất liền và trên biển. Họ có nhiều quyền lợi cao hơn là duy trì một chế độ mang tên cộng sản ở nước láng giềng. Ngay cả những việc như khai thác bô xít, buôn lậu qua biên giới, vân vân, cũng chỉ là những quyền lợi kinh tế nhỏ, so với những quyền lợi lớn khi làm chủ được nhiều phần Biển Ðông hơn.

Cho nên, để đánh phủ đầu phong trào biểu tình phản đối vụ HD-981, và đánh đòn chí tử vào triển vọng đầu tư, phát triển ở Việt Nam, Trung Cộng có thể đã chủ mưu sai khiến đám đàn em trong Cộng sản Việt Nam gây bạo động, giết người trong các cuộc biểu tình, từ Bình Dương đến Hà Tĩnh. Những người tham dự cuộc biểu tình ngày Chủ Nhật, 18 Tháng Năm này phải hết sức bảo vệ trật tự, kỷ luật, và coi chừng đám đầu gấu sách động gây loạn.

16 thg 5, 2014

Trung Cộng toan tính gì?

Ngô Nhân Dụng

Việc đưa giàn khoan HD 981 tới “lô 143” trong vùng biển Việt Nam không thể là do một công ty CNOOC đề ra. Quyết định này phải xuất phát từ một tính toán của giới lãnh đạo Bắc Kinh. Tại sao Bắc Kinh muốn “gây sự” với Việt Nam vào thời điểm này? Họ tính toán những gì? Người Việt cần tìm hiểu các động cơ của Trung Cộng trong hành động ngang ngược này. Cần biết bên địch muốn gì để có thể đoán trước các nước cờ của họ trong thời gian sắp tới, ngõ hầu biết cách đối phó thích hợp.
Giàn khoan HD 981 mới bắt đầu hoạt động vào năm 2011; từ đó đến nay chỉ hoạt động ở ngoài khơi Hồng Kông mà không đi hơn. Trước đây Cộng sản Trung Quốc từng ký hợp đồng cho các công ty nước ngoài tìm dầu, khí trong vùng biển Hoàng Sa. Nhưng các công ty Âu Mỹ đã rút lui khi được Việt Nam cho biết đang tranh chấp chủ quyền tại đó. Trung Cộng hợp tác với các công ty ngoại quốc giầu kinh nghiệm và trường vốn thì có lợi hơn; vì các công ty Trung Quốc còn kém trong kỹ thuật tìm tòi dầu khí ở dưới đáy biển sâu. Công việc phức tạp, nhiều rủi ro vì chi phí cao mà kết quả không chắc chắn. Năm nay, Trung Cộng phải tự đem giàn khoan tới tìm dầu tại “lô 143.” Nhưng mục đích của hành động này không thuần túy để dò tìm dầu lửa. Giới lãnh đạo Bắc Kinh còn nhắm nhiều mục tiêu khác. Nếu trong sáu tháng, một năm, họ rút giàn khoan về, vì vùng biển này không đáng công sức và phí tổn, thì nhiều mục tiêu khác, từ gần tới xa, cũng đã đạt được. Chúng ta không thể giả thiết họ chỉ nhắm vào một mục tiêu trước mắt.

Kế hoạch của Bắc Kinh về lâu dài gồm hai mặt. Về chính trị, họ muốn làm chủ vùng biển Ðông Nam Á, gây ảnh hưởng trên các quốc gia trong đó. Về kinh tế họ muốn chiếm đoạt các tài nguyên, đặc biệt là các mỏ dầu và khí đốt vì nhu cầu nền công nghiệp đang lên; đồng thời kiểm soát con đường hàng hải thiết yếu đối với kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan và Hàn Quốc. Nói chung, mục tiêu của họ là mở rộng biên cương ảnh hưởng về phía Nam, tiếp tục tham vọng của các đế quốc từ thời nhà Tần, nhà Hán cho tới nhà Ðại Thanh.

Người Việt Nam đã có kinh nghiệm về tham vọng của các triều đình phương Bắc. Trong quá trình bành trướng về phương Nam từ hơn 200 năm trước Công Nguyên cho tới thế kỷ thứ 20, đế quốc Hán tộc chỉ phải dừng lại khi gặp một “nút chặn” ngăn cản. Nút chặn đó dân tộc Việt, với tinh thần tự chủ và óc quật cường, Ðứng Vững suốt một Ngàn Năm bị đô hộ. Người Việt Nam cần giải thích cho các nước Ðông Nam Á biết vai trò “nút chặn” của dân tộc mình. Việt Nam đã tạo một hàng rào bảo vệ các nước khác không bị người Hán tràn lấn phương Nam trong hai ngàn năm qua. Các nước Ðông Nam Á phải đoàn kết cùng dân Việt đề kháng chống tham vọng của đế quốc Hán tộc.

Sau ngàn năm Bắc thuộc, đế quốc vẫn tiếp tục xâm lăng trong thế kỷ 15, nhà Minh, và thế kỷ 18, nhà Thanh. Trước khi Ðại Chiến Thứ Hai chấm dứt, ông Tưởng Giới Thạch xin đồng minh cho ông đưa quân vào nước ta, từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, để tước khí giới quân Nhật đầu hàng. Trong thời dân Việt đánh Pháp, Mao Trạch Ðông viện trợ đảng Cộng sản Việt Nam để thực hiện kế tràn xuống Ðông Nam Á. Năm 1952, Mao bác bỏ chủ trương đánh chiếm các thành phố vùng đồng bằng của đảng Cộng sản Việt Nam. Mao cho mở mặt trận ở Lào và Campuchia; để cộng sản ba nước Việt, Miên, Lào liên kết lại, do các cố vấn Trung Cộng chỉ đạo. Cùng lúc đó các đảng cộng sản Thái, Mã Lai, Indonesia được Trung Cộng giúp đỡ; thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ vùng Ðông Nam Á. Ðảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục theo con đường bành trướng cũ, mặc dù bây giờ họ không còn tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản nữa.

Mục tiêu lâu dài của Bắc Kinh vẫn là chiếm ảnh hưởng trùm trên vùng Ðông Nam Á, như ao cá sau nhà của họ. Họ cần tháo gỡ cái “nút chặn” trên con đường bành trướng của người Hán trong hai ngàn năm qua, là một nước Việt Nam độc lập. Hành động đưa giàn khoan dầu HD 981 tức Hải Dương Thạch Du (Haiyang Shiyou 981) vào vùng biển nước ta trước hết là một thử thách khả năng đề kháng của người dân Việt Nam còn mạnh tới mức nào. Ðó cũng là một cuộc trắc nghiệm xem đảng Cộng sản Việt Nam phản ứng ra sao. Chính sách của Bắc Kinh vẫn là “mềm nắn, rắn buông,” tùy phản ứng của đối thủ mà thay đổi.

Ngoài thử thách nhắm vào người Việt, Bắc Kinh còn muốn thăm dò phản ứng của thế giới khi chứng kiến cảnh Trung Cộng trâng tráo chèn ép một nước láng giềng nhỏ hơn. Trước hết, họ muốn xem phản ứng của chính quyền Mỹ ra sao trong một tình thế khó xử. Ông Obama mới khẳng định những liên hệ quân sự của Mỹ với các nước Nam Hàn, Nhật Bản, và Philippines. Trong khi dư luận đang bàn tán về chính sách Mỹ “chuyển trục sang Á Châu” thì Trung Cộng gây hấn với Việt Nam để các nước Ðông Nam Á thấy rõ Mỹ không hề phản ứng mạnh. Ngoài ra, Bắc Kinh nhân dịp này cũng thách đố các nước ASEAN xem họ có dám đứng ra bênh vực một nước hội viên đang bị xâm lấn hay không.

Có thể nói, Trung Cộng đã trắc nghiệm thành công. Họ thấy phản ứng rất nhẹ, gần như hờ hững của Mỹ và các nước ASEAN, khi nghe chính quyền cộng sản Việt Nam kêu cứu.

Nước Mỹ không có nhu cầu can thiệp vào quan hệ Việt Trung. Trong thập niên 1950, sau khi Cộng sản Bắc Hàn tấn công Nam Hàn, Mỹ muốn ngăn chặn không cho khối cộng sản nuốt chửng các nước Ðông Nam Á, nên giúp miền Nam Việt Nam. Nhưng khi Nga Xô và Trung Cộng công khai chống lẫn nhau, chính quyền Mỹ đã giao thiệp trực tiếp với Bắc; Việt Nam không còn là một địa điểm chiến lược quan trọng nữa. Năm 1974, khi Hải Quân Trung Cộng tấn công chiếm Hoàng Sa của nước ta, hạm đội Mỹ ở ngay bờ biển Philippines vẫn không can thiệp, họ còn làm ngơ không cứu các quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bị đắm tàu. Năm nay, chắc chắn Mỹ phải biết trước việc Trung Cộng đưa HD 981 tới vùng biển nước ta, vì giàn khoan này phải di chuyển trong hàng chục ngày, đi từ đâu, theo hướng nào, chắc chắn vệ tinh nhân tạo của Mỹ đã chụp hình cho các cơ quan tình báo Mỹ phân tích nhưng họ không hề báo động cho chính quyền Việt Nam cũng như Philippines; cũng không tiết lộ tin tức cho các nhà báo.

Ðối với quyền lợi của nước Mỹ, những tài nguyên nằm dưới đáy Biển Ðông thuộc chủ quyền nước nào không quan trọng. Ðiều quan trọng là dù nước nào làm chủ, các công ty Mỹ được tham dự vào công việc khai thác bình đẳng với các quốc gia khác. Và Mỹ muốn bảo vệ đường hàng hải được an ninh không bị gián đoạn. Trái với lời tuyên truyền của Bắc Kinh, nước Mỹ không có nhu cầu ngăn cản việc phát triển kinh tế của Trung Quốc. Ngược lại, khi các nước giầu có hơn thì sẽ mua hàng hóa đắt tiền của Mỹ nhiều hơn. Sau Thế Chiến Thứ Hai, Mỹ không ngăn cản mà còn giúp cho các nước đối thủ cũ là Ðức và Nhật Bản phục hồi kinh tế. Người Mỹ tin tưởng vào sức mạnh kinh tế của họ, sức mạnh đó đặt trên hệ thống giao thương tự do. Trong chính sách ngoại giao, các dân tộc không có bạn mà cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi quốc gia mà thôi.

Cho nên, đối với biến cố giàn khoan HD 981 phản ứng của chính phủ Mỹ vẫn chỉ nằm trong đường lối cũ của họ. Chính phủ Mỹ không có ý kiến về chủ quyền trên các hòn đảo tranh chấp; họ chỉ yêu cầu không gây nổ súng, không làm giao thông đường biển mất an ninh. Và họ kêu gọi các cuộc tranh chấp phải được giải quyết bằng pháp luật. Bắc Kinh không mong gì hơn.

Phản ứng của các nước ASEAN còn đáng thất vọng hơn nữa. Ðáng lẽ trong hội nghị ở Naypyitaw, thủ đô Miến Ðiện các nước này phải tỏ ra đoàn kết với Việt Nam hơn. Nhưng bản thông cáo chung của hội nghị cũng nói những điều tổng quát không khác gì thái độ của chính phủ Mỹ. Chúng ta không thể chỉ trích thái độ hững hờ của các nước Ðông Nam Á. Từ xưa đến nay, chính quyền Việt Nam lúc nào cũng nhất thiết theo chủ trương chỉ nói chuyện “song phương” với Trung Cộng. Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra hoàn toàn hững hờ trước các cuộc tranh chấp giữa Trung Cộng và Malaysia, Philippines. Ðến khi “giặc vào nhà” mới kêu cứu, nhưng vẫn vừa tố cáo vừa xin hòa.

Trung Cộng đã thắng khi các nước ASEAN và Mỹ không có một hành động nào cụ thể. Họ có thể tiếp tục kéo dài tình trạng giằng co hiện nay ở Lô 143 trong một thời gian dài nữa. Ðây là hành động “dạy cho đảng Cộng sản Việt Nam một bài học,” nhưng theo cách mới. Nhưng Trung Cộng có thể kéo dài trò mèo vờn chuột này cho đến bao giờ?

Chính dân Việt Nam sẽ quyết định. Trong ngày Chủ Nhật vừa qua, dân chúng Việt Nam đã được phép biểu tình công khai “chống Trung Quốc xâm lược.”
Ðảng Cộng sản bất đắc dĩ phải cho phép, vì không cho không được. Nhưng các cuộc biểu tình, từ Nam ra Bắc, đã mở ra những cánh cửa mới cho những người Việt yêu nước! Ai cũng biết, từ mười năm nay những người Việt tham dự biểu tình chống Trung Cộng xâm lăng cũng chính là những người tha thiết muốn cho dân tộc được hưởng cuộc sống tự do dân chủ. Người đi biểu tình chống Trung Cộng đã bị đảng Cộng sản đàn áp bao năm qua. Ðiếu Cầy, Tạ Phong Tần, tới Ðinh Nguyên Kha, vân vân, nay vẫn bị tù, cho nên muốn chống Trung Cộng xâm lược thì phải chống cả bè lũ độc tài lệ thuộc 16 chữ vàng.

Những cuộc biểu tình khắp nước từ Chủ Nhật vừa qua giống như một vị thần trong chuyện cổ tích đã thoát ra khỏi cây đèn thần của Aladin. Không ai có thể nhét vị thần vào trong cây đèn trở lại được nữa. Phong trào này sẽ gia tăng cường độ, càng đàn áp càng mạnh hơn. Tiêu biểu trong phong trào này, nhà báo Huy Ðức viết rằng đã tới lúc đảng Cộng sản Việt Nam phải xét lại chính sách giao thiệp với Bắc Kinh, và từ bỏ không bắt chước mô hình kinh tế của Trung Cộng. Huy Ðức thấy biến cố giàn khoan 981 có thể là động cơ thúc đẩy đảng Cộng sản quay đầu trở lại với dân tộc Việt, đánh đuổi quân xâm lược Bắc Kinh.

Với đà phát triền của phong trào chống đối, này, sẽ tới lúc đảng Cộng sản Trung Quốc thấy họ phải ra tay cứu mạng các đàn em trong đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu không đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tự tan vỡ hoặc bị lật đổ. Trung Cộng sẽ thấy duy trì một chế độ cộng sản dễ bảo ở Hà Nội là con đường ít tổn phí nhất trên con đường gây ảnh hưởng trong vùng Ðông Nam Á. Ngược lại, nếu tiếp tục con đường uy hiếp, tới lúc nước Việt Nam có một chính quyền thật sự do dân chúng bỏ phiếu bầu lên, thì chính quyền đó chắc chắn sẽ “khó bảo” hơn. Con đường tồi tệ nhất là xâm lăng bằng vũ lực. Sẽ tốn tiền bạc, mạng sống, và phải đối đầu với một dân tộc đã quen đánh du kích từ thời Triệu Quang Phục. Xâm lăng Việt Nam sẽ khiến tất cả các nước vùng Á Ðông và Ðông Nam Á bắt đầu một cuộc chạy đua vũ trang để tự vệ. Tất cả các nước đó sẽ giảm bớt việc thương mại với Trung Quốc; kinh tế nước Trung Hoa sẽ đứng khựng lại. Các nước Ðông Nam Á sẽ cùng Mỹ và các nước Âu Châu viện trợ vũ khí cho người Việt kháng chiến.

Cho nên, nếu trong những ngày tháng tới dân Việt tiếp tục biểu lộ tinh thần quật cường, nếu Cảnh sát biển Việt Nam tiếp tục kiên nhẫn và dũng cảm bảo vệ mặt biển di sản của tổ tiên, thì sẽ tới ngày chính Bắc Kinh sẽ phải xuống thang. Không thể đoan chắc ngày nào chuyện đó sẽ xảy ra. Vì tất cả tùy thuộc thế cân bằng lực lượng; giữa khả năng đề kháng của dân tộc Việt và tham vọng lớn nhỏ của các hoàng đế nhà Hán nhà Ðường. Người Việt đang sống lại kinh nghiệm của tổ tiên trong hai ngàn năm đối đầu với các bạo chúa phương Bắc; lại nghe tiếng sóng Bạch Ðằng, tiếng ngựa hí ở Ải Chi Lăng. Các hoàng đế nhà Minh, nhà Thanh đã từng phải bỏ tham vọng thôn tính nước Việt, tìm đường gỡ thể diện tháo lui. Nhưng dù Trung Cộng rút lui sớm hay muộn, vị thần trong cây đèn đã thoát ra ngoài, dân Việt không thể nào cúi đầu chịu nhục nữa.

12 THÁNG ANH ĐI