30 thg 4, 2010

Hình ảnh chiến sĩ QLVNCH 28-04-1975



Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

Saigon le 28-04-1975.
Jean Larteguy, nhà báo Pháp có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Saigon ngày 28/04/1975:

“ . . . Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy . Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ trong giờ phút sinh tử này Một trong các cấp ấy là một Đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao , ông trả lời :

- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chiến đấu tới giây phút cuối cùng. Ông hãy nói cho thế giới biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh. . .”

Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa
"Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".
Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không ?
Một thiếu úy trả lời :
- Chúng tôi biết chứ.
- Vì sao ?
- Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

Sau đó Jean Larteguy trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì ông viết ra về những người lính VNCH
Hình như những SVSQ này di tản từ Đalat xuống Huấn Khu Thủ Đức có nhiệm vụ gác các lô cốt trên quốc lộ 1 , bảo vệ Long Bình và tham gia trận chiến tại Tân Cảng (cầu xa lộ) sau đây xin mời các bạn vào You Tube xem lại trận đánh ngày 28/04/1975 2 ngay trước khi Saigon bị dứt điểm.

29 thg 4, 2010

Những Người Bạn Đồng Minh Dũng Cảm - HEROIC ALLIES


Harry F. Noyes III - Nguyễn Quân dịch

Đây là bản dịch từ nguyên tác có tựa Heroic Allies, Harry F. Noyes III. Tác giả là cựu chiến binh Việt Nam trong binh chủng Không Quân. Sau cuộc chiến trở về, ông lấy được văn bằng cao học về Nghiên Cứu Á Châu từ trường Đại Học Hawaii. Bài này được đăng trong tạp chí Vietnam, số tháng 8 – 1993.

Người Lính VNCH



Họ vóc dáng nhỏ con, nói chuyện líu lo như chim hót, ưa thêm nước mắm vào mọi món ăn, và thường hay nắm tay nhau.

Không lạ gì lính Mỹ khi qua viễn chinh ở vùng Đông Nam Á - hầu hết đều là trai trẻ, học thức bình thường, được rập khuôn trong một xã hội quá cao ngạo và quá ít hiểu biết về những nền văn hóa khác – khó lòng cảm thông được với những người chiến binh Miền Nam VN.

Điều đáng tiếc hơn nữa là nhiều cựu chiến binh lúc trở về lại đi gia nhập vào hàng ngủ của những nhóm gây rối, trốn lính và hoạt đầu chính trị để bêu xấu danh dự của một đạo quân nay không còn có thể tự đứng ra bào chữa được mình. Nhục mạ một đạo quân đã mạng vong trong chiến trận do nước Mỹ bỏ rơi là một hành vi đê tiện, không xứng danh là người chiến binh Hoa Kỳ.

Chắc một số người sẽ cho rằng đìều khẳng định của tôi là quá đáng. Vậy chứ tôi phải làm thế nào để bào chữa cho họ đây? Mọi người đều 'cho' họ là một lũ bất tài, phản trắc và hèn nhát, phải như vậy không?

Không, hoàn toàn sai. Bài viết này sẽ trưng ra một vài chứng cớ hùng hồn để đánh đổ cái huyền thoại thô bỉ này, đồng thời cũng sẽ khảo sát xem do đâu phát sinh ra huyền thoại ấy.

Dĩ nhiên phải công nhận là quân lực Nam Việt không toàn hão. Người chiến binh của họ phải chiến đấu với những kẻ lãnh đạo tồi, những quân nhân hèn nhát, chịu đựng những cuộc khủng hoảng, những biến cố tai ương, bất lợi. Quân lực Mỹ ở Đông Nam Á cũng không hơn gì đâu.

Trên một số phạm vi như cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và lãnh đạo, quân lực Nam Việt thua bên phía Mỹ. Nhưng có ai trông mong gì khác hơn từ một quốc gia đang phát triển, mới vừa thoát khỏi ách thuộc địa lại phải lao đầu vào một cuộc chiến sinh tử với một quân thù hùng mạnh được cả một khối Cộng Sản hỗ trợ?

Thực tế mà nói, những nhược điểm của Nam Quân cũng hệt như của quân Mỹ thời chiến tranh Độc Lập của Hoa Kỳ (American War of Independence), dù rằng nước Mỹ hồi cuối thế kỷ thứ 18 có nhiều điểm thuận lợi như: cái qui mô của cuộc Chiến Tranh Cách Mạng (Revolutionary War) nhỏ hơn và dễ chi phối hơn; quá trình thuộc địa Hoa Kỳ đã giúp hình thành được những chính quyền tự phát địa phương, cho phép đất nước này hun đúc nên những vị lãnh tụ tài ba thật sự; quân Anh không quá ngoan cố như quân BV; và quân đồng minh Pháp thời bấy giờ đã không bỏ rơi nước Mỹ non trẻ như kiểu người Mỹ bỏ rơi Nam Việt Nam.

Nhưng dù sao chăng nữa, cơ cấu tổ chức, tiếp liệu, quản trị và ngay cả lãnh đạo đi chăng nữa vẫn chưa phải là những phẩm chất để dựa vào đó mà phỉ báng quân lực Nam Việt.

Có hai câu hỏi đánh động đến đề tài tranh cải. Phải chăng người chiến binh Nam Việt thiếu chí khí, lòng quả cảm, sự can trường và lòng ái quốc mà người Mỹ đã nêu ra trong lời miệt thị và gán lên đầu họ mọi trọng tội vì đã đánh mất cái giá tự do của vùng Đông Nam Á? Quân Mỹ có khá gì hơn đồng minh của mình để dám khinh khi họ như vậy? Trả lời cho cả hai câu hỏi, tôi xin trân trọng khẳng định là 'Không!'

Chứng cớ quá rõ ràng. Trận Tổng Công Kích Tết 68 coi như sẽ đập tan được ý chí chiến đấu của Nam Việt. Thay vì bỏ cuộc, quân NV đã kháng cự mãnh liệt và hữu hiệu: không một đơn vị nào tan rã hay tháo chạy. Ngay cả cảnh sát cũng chiến đấu, họ đương đầu với quân chính qui đối phương trang bị bằng vũ khí hùng hậu với chỉ bằng những khẩu súng Colts. Dựa theo báo cáo, sau trận này số người xin đăng lính cao đến nỗi chính quyền của quốc gia này phải đình hoản bớt việc thu nhận thêm tân binh.

Trong cuộc Tổng Tấn Công năm 72, quân trú phòng NV bị vây hãm tại An Lộc đã giữ vững được vị trí của mình trước một lực lượng ghê gớm của quân thù cả về người lẫn hỏa lực kinh hồn của đại pháo và hỏa tiễn. Sau trận này tôi được tiếp xúc với một cố vấn Mỹ để nghe tường thuật lại mẫu chuyện một tiêu đội lính NV trong vùng được cử công tác thanh toán ba chiến xa, đã hành động như thế nào. Họ chu toàn nhiệm vụ hạ được một chiếc, rồi quyết định tìm cách bắt sống hai chiếc còn lại. Theo tôi nhớ thì họ chộp được một chiếc còn một chiếc bỏ chạy, thế là mấy người lính chạy bộ rượt theo đến cuối đường. Việc thi hành thượng lệnh của mấy người lính này có thể không đúng tác phong quân kỷ, nhưng lối hành xử cho thấy tinh thần chiến đấu cao và thế chủ động mà mọi binh sĩ NV đều có. Dĩ nhiên điều tôi kể chưa đủ để bào chữa được cho lời tố giác tội hèn nhát.

Để minh chứng hơn, hãy nhìn vào Nam Việt Nam ở thời điểm cuối cùng vào năm 1975 khi đất nước này đang trong tình trạng tuyệt vọng khi biết rõ Mỹ không ra tay cứu giúp nữa (cả nhiên liệu lẫn đạn dược). Thế mà một đơn vị NV tầm cở một sư đoàn đã cầm chân được bốn sư đoàn BV trong suốt hai tuần giao tranh ác liệt tại Xuân Lộc. Chỉ riêng một trận này thôi sự anh dũng còn nổi bật hơn bất kỳ một chiến công nào có thể tìm thấy trong chiến sử Hoa Kỳ. Quân NV sau đó đành phải lui binh vì không quân của họ không còn bom để yểm trợ chiến đấu.

Có lần tôi xem được một phim tài liệu truyền hình do một phóng viên người Úc quay tường thuật về cuộc chiến. Khác với các phóng viên HK, anh ta dành hết thời gian bên cạnh các binh sĩ NV. Anh ta ghi rõ tinh thần chiến đấu của Nam quân bằng những thước phim của mình. Anh còn kể rằng anh từng ghé qua một làng do địch kiểm soát và nghe nói lại rằng lính CS còn sợ lính NV hơn cả lính Mỹ. Lý do chính là lính Mỹ bao giờ cũng ồn ào, nên khi nào lính Mỹ đến là họ biết ngay. Chỉ vậy thôi thì có gì họ phải kinh sợ nếu quân NV không là những chiến binh nguy hiểm.

Tuy vậy, chứng cớ quan trọng nhất chứng tỏ ý chí chiến đấu của quân nhân Miền Nam đến từ hai sự kiện hiển nhiên, những sự kiện vốn thường hay bị lãng quên hoặc che dấu để che đậy sự thất bại của người Mỹ ở Việt Nam.

Sự kiện thứ nhất: Chiến tranh VN đã khởi sự đâu đó bảy năm trước khi lực lượng chính của Hoa Kỳ đổ đến và sau đó lại tiếp tục thêm chừng năm năm sau khi quân Mỹ rút ra. Trong khoảng đó phải có ai đó đang chiến đấu mà kẻ đó là người Miền Nam chứ còn ai khác hơn.

Sự kiện thứ hai: Quân đội NV thiệt mất một phần tư triệu binh sĩ trên chiến trường. Theo tỉ lệ dân số thì tương đương hai triệu lính Mỹ chết (một con số gấp đôi tỗn thất của Mỹ trong tất cả các chiến tranh gộp lại). Cho rằng người ta không chịu chiến đấu thì sao họ lại chết nhiều như vậy.

Vậy thì do đâu mà NV phải chịu mang tai tiếng xấu?

Dĩ nhiên có lúc họ tỏ ra bất tài và hoảng loạn. Lính Mỹ cũng vậy thôi. Tôi biết một câu chuyện qua một đơn vị trưởng pháo binh HK rằng khi hay tin đại đội bộ binh bảo vệ mình bị địch đánh tan tành, các pháo thủ đâm hốt hoảng bắn loạn xạ khiến đám quân yểm trợ này hoảng loạn chạy có cờ giữa hai lằn đạn.

Một biến cố đơn thuần đó không thể đem ra mà gán cho cả quân lực HK là hèn nhát thì thỉnh thoảng có sự tan hàng của người đồng minh của nước Mỹ cũng không có nghĩa là tất cả chiến binh Miền Nam là hèn. Thế mà có kẻ lại suy nghĩ như vậy, qua cách nói bởi một số cựu chiến binh, bởi những chính trị gia muốn bào chữa cho một chính quyền Mỹ đã để cho Nam VN bị suy vong.

Sự thật được minh bạch hơn qua mẫu đối thoại sau đây phát xuất từ hai thế kỷ trước, khi một phụ nữ Anh hỏi viên công tước xứ Wellington rằng lính Anh có bao giờ bỏ chạy trên chiến trường không.

Viên công tước đáp, 'Ngoài chiến trường người lính nào cũng có bỏ chạy cả, thưa bà.

Một nghiên cứu qua loa trong quân sử cũng xác minh được điều này. Những trận đánh thời Nội Chiến (Civil War) cho thấy sự can trường lẫn sợ hãi liên tục khi lên khi xuống, cả những đơn vị phe Confederate lẫn Union thoạt đầu xông pha rất hăng hái, sau đó co cụm lại rồi bỏ chạy trước hỏa lực kinh hồn trước khi tập hợp lại tiếp tục chiến đấu. Chưa có đạo quân nào tự cho mình có nhiều hành động hy sinh anh hùng bằng hai đạo quân này, tuy nhiên họ cũng có lúc chạy tán loạn nơi một chiến trường quá đẫm máu.

Văn sĩ S. L. A. Marshall mô tả sự hoảng hốt bỏ chạy của một đơn vị bộ binh HK thời Đệ Nhị Thế Chiến khi quân cảm tử Nhật vừa tấn công vừa hò hét. Đơn vị thứ hai nằm lại quyết chiến và nhanh chóng tiêu diệt hết đám quân Nhật (chừng 10 tên) và vở lẽ ra là đa số bọn chúng không có võ khí.

Nếu sự việc tương tự xảy đến với một đơn vị Nam Việt, những tên tự xưng là học giả uyên thâm lập tức ra rả lập đi lập lại rằng ấy là chứng cớ rành rành về hành động khiếp nhược của quân đội Miền Nam.

Tại sao vậy? Chúng ta ắt đã ngầm có câu trả lời rồi. Mọi sự còn tùy là cái quân đội đó thuộc chủng tộc gì, nói thứ ngôn ngữ nào. Sự thật đốn mạt là cái quân đội Nam Việt phải chịu mang tai tiếng xấu bắt nguồn từ lòng kỳ thị chủng tộc lẫn tinh thần sô-vanh nước lớn của người Mỹ.

Tôi xin tự minh chứng về khuynh hướng bóp méo sự thật vốn tràn lan rộng khắp. Lúc vừa mới đặt chân đến Nam VN vào tháng Sáu năm 1969, lập tức tôi được chứng kiến những trường hợp bày tỏ thái độ ngu dốt và khinh miệt của một số người Mỹ dành cho người dân cũng như quân đội quốc gia này.

Các binh sĩ Mỹ trắng cũng như đen, luôn cả những người trong các dịch vụ thuộc dân sự như truyền thông báo chí thẩy đều như nhau. Thái độ căm ghét này dành cho xứ sở cùng dân tộc VN kinh khiếp thay lại có một sức mạnh truyền nhiễm kinh hồn.

Một viên đại úy Mỹ tôi được biết có trình độ tốt nghiệp đại học về ngành điện ảnh từ một trường có tiếng tăm (coi như họ được đào tạo để có cái nhìn chuyên môn hơn người thường). Có lần anh ta sau công tác tạm thời ở Thái Lan trở lại VN đã hết lời ca ngợi dân Thái.

'Dân Thái người ta họ cho con đi học đàng hoàng,' anh ta nói, 'khác với tụi nhỏ con của người Việt ở đây' . Khi tôi chỉ cho anh ta thấy không đâu xa mà ngay kế bên căn cứ còn có một trường học thì anh ta ngạc nhiên nhưng không hề tỏ ra ân hận về nhận xét của mình. Hằng trăm trẻ nhỏ trong đồng phục quần xanh áo trắng cắp sách đến trường mỗi ngày mà bất cứ ai có mắt đều nhìn thấy. Vậy mà tên làm phim này lại không.

Chua chát thay, dân VN vốn quí trọng sự học còn hơn dân Mỹ, họ đã nâng trình độ người đi học từ 20 lên đến 80 phần trăm dù chiến tranh đang dày xéo chung quanh (dù ngay cả các giáo viên vẫn thường xuyên bị sát hại bởi đối phương). Vậy mà vẫn còn bị tên làm phim này gán cho cái tội là một xứ sở không trường không lớp.

Vì phải viễn chinh nơi một xứ sở xa lạ, xa gia đình, người Mỹ này đã tự hun đúc cho mình một lòng thù ghét đất nước VN, hắn muốn tin rằng người Việt là đáng khinh. Do vậy, điều quan trọng đối với hắn là phải tin tưởng rằng người Việt không có trường học dành cho con cái họ; và chính cảm xúc đó làm mù đi thị giác của hắn.

Hãy nghĩ tưởng đến cảm tưởng của khối quân Mỹ ít học thức hơn khi phải trực diện với nền văn hóa xa lạ trong một môi trường đầy căng thẳng! Có lẽ ta không nên đổ lỗi cho các binh sĩ ấy về thái độ kém cõi của mình. Trời đất còn biết là giới chỉ huy HK chỉ nổ lực qua loa để giáo dục cho binh sĩ mình về đất nước VN và tính chất của cuộc chiến.

Tuy vậy, đó không phải là lý do để bào chữa cho các cựu chiến binh giả vờ cho là mình hiểu về những gì mình thấy ở VN. Ta phải tri ân các cựu chiến binh chiến tranh VN về đức tính quả cảm, sự hy sinh và lòng trung thành đối với tổ quốc. Nhưng tính quả cảm và sự hy sinh không đi đôi với sự hiểu biết. Chiến đấu ở VN không làm cho người lính thành những chuyên gia về đất nước hay cuộc chiến đó, cũng như có con không phải làm cho người mẹ trở thành một chuyên gia về khoa phôi thai (embryology).

Những gì người lính Mỹ làm ở VN không dạy cho họ chi hơn về nền văn hóa, xã hội, chính trị, vân vân và vân vân của Nam Việt. Một ít người Mỹ có học lỏm bõm được vài tiếng Việt; ngay cả có một vài đọc được sách báo VN; và chẳng bao nhiêu người đọc sách vở viết về xứ sở Việt Nam bằng Anh ngữ.

Ngoại trừ các cố vấn, ít người Mỹ nào làm việc gần gũi với những người Việt, có chăng họ có chung đụng với những người làm thư ký, giặt giũ, và nữ hầu bàn do quân đội HK mướn.

Điều quan trọng hơn cả là ít quân nhân HK nào từng chứng kiến sự chiến đấu của binh sĩ NV. Ít ai có bao giờ xét đến thái độ khác biệt hiện hữu trong tâm tư những chiến binh nơi chiến trường ấy, quân Mỹ sang chiến đấu một năm rồi về, họ yên tâm là gia đình họ đều đang bình yên ở nơi chính quốc; trong khi người lính Miền Nam thì khác, hằng ngày họ phải lo lắng cho sự an nguy của gia đình mình, họ thừa hiểu rằng chỉ có cái chết hay chỉ có bị thương ở mức độ tàn phế họ mới ra khỏi được đời sống quân ngủ. Đương nhiên người Việt ắt phải dùng một thước đo riêng để quyết định cái gì là quan trọng hơn để chiến đấu.

Giới nhà báo không khá gì hơn. Thử xét xem về một cuộc tường thuật truyền hình thiên vị mà tôi đã được xem trong đó người phóng viên tố giác không quân NV mặc dù đã Việt Nam Hóa chiến tranh, đã không chịu bay, để cho KQ HK phải lãnh những sứ mạng nguy hiểm chống lại BV.

Nói cho đúng thì chính HK không chịu để cho NV bay ra Miền Bắc (ngoại trừ một vài phi vụ trong thời gian mở màng của các cuộc dội bom). Giới lãnh đạo HK muốn kiểm soát việc ném bom vì có thế HK mới có thế dùng nó như một công cụ để mặc cả trong bàn thương thảo.

Bởi không muốn NV xen vào việc ném bom, HK cố ý chuyển giao cho NV những trang bị không thích hợp cho các phi vụ đánh phá Miền Bắc. Nam Việt không có phi cơ chiến đấu, vũ khí, máy bay tiếp tế xăng trên không, hoặc cả những thiết bị điện tử cấn thiết cho những phi vụ ấy. Chính người Mỹ đã quyết định làm như vậy.

Người phóng viên nêu thắc mắc kể trên hoặc đã quá khờ khạo hoặc đã chọn sự tảng lờ để thực thi hành động báng bổ người đồng minh của HK. Căn cứ vào những lời lẻ vu khống cùng giọng điệu om sòm, tôi đi tới kết luận là sự thiếu kiến thức của anh ta hoàn toàn do cố ý.

Một dẫn dụ khác về tính thiên vị của giới truyền thông là vào thời điểm Khe Sanh bị bao vây. Nếu ta hỏi một ngàn người Mỹ có đơn vị tham chiến ở Khe Sanh, hầu hết ai nghe nhắc đến trận ấy hẳn đều biết TQLC Mỹ chiến đấu ở đó. Nhưng nếu có hơn một người trong số một ngàn người đó biết có một tiểu đoàn BĐQ NV cũng đã san sẻ sự cam khổ ấy thì quả là điều đáng ngạc nhiên. Trong khi ấy còn có những đơn vị NV khác cũng dự phần vào những cuộc hành quân yểm trợ bên ngoài căn cứ đang bị vây hãm này. Báo chí Mỹ coi đồng minh của HK như không đáng để tường thuật đến trừ khi họ phạm điều gì ô nhục, vì thế những chiến sĩ chiến đấu can trường kia trở nên những người hùng vô hình tại Khe Sanh.

Sự thiên vị này, lính Mỹ lẫn giới truyền thông HK đã đồng ca rõ rệt khi tường thuật về cuộc hành quân bất ngờ vào lãnh thổ Lào năm 1972.

Thử xem lại một tài liệu truyền hình được đưa ra một thập niên trước đây. Tài liệu này bao gồm cuộc phỏng vấn một số binh sĩ Mỹ trong khi chiến trận tại Lào đang diễn ra. Những quân nhân HK này, đứng bình yên bên lãnh thổ NV, có những lời nhận xét cay độc, kỳ thị dành cho các binh sĩ NV đang chiến đấu ở bên kia biên giới. Người phóng viên truyền hình này bày tỏ rằng lính Mỹ hiểu rõ tình hình hơn các tướng lãnh của họ.

Cuộc tấn công lên đất Lào dĩ nhiên là nguồn gốc của bức hình nỗi tiếng cho thấy hình ảnh một người lính NV đang đeo trên càng một phi cơ trực thăng để tìm cách vượt thoát. Hình ảnh này được liên tục tung ra trước công chúng Mỹ như là 'chứng cớ cho thấy người Miền Nam là đáng khinh tởm.

Quả thực đây là một thủ thuật xưa như trái đất để xuyên tạc sự thật bằng sức mạnh của hình ảnh. Những gì xảy ra bấy giờ đúng ra là như vầy: Quân NV gặp phải lực lượng đông đảo của đối phương trong khi quân Mỹ không yểm trợ được như đã hứa vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Có nhiều báo cáo cho biết phi hành đoàn trực thăng phải đạp những két đạn đại bác xuống đầu các đơn vị NV từ độ cao 5000 bộ trở lên chỉ với hy vọng quân NV sẽ nhận được. Các phi cơ này quả tình là không dám xuống thấp hơn.

Trong phạm vi vấn đề này, thử xem nhận xét của một sĩ quan HK, Đại Tá Robert Molinelli, người đã mục kích tận mắt, được đăng tải trong Armed Forces Journal (Tập San Quân Đội) số ngày 19 tháng Tư, 1971 như sau: 'Một tiểu đoàn NV gồm 420 người bị bao vây bởi một trung đoàn đối phương đông đến từ 2500 đến 3300 quân trong suốt ba ngày ròng. Phía HK không thể nào tăng viện cho đơn vị này. Họ phải chiến đấu đến gần cạn kiệt hết đạn dược mới bắt đầu phá vòng vây với vũ khí và đạn dược thu được của địch quân. Đơn vị này còn mang theo những đồng đội bị thương cũng như đã chết. Hình ảnh phi cơ trinh sát chụp được cho thấy rải rác chung quanh đơn vị này là xác của 637 quân địch.

Đơn vị này chỉ còn 253 người trong tình trạng khả thi chiến đấu khi họ chạy đến được một đơn vị NV khác. Một số ít trong số 17 kẻ hoảng sợ đã bám càng trực thăng để thoát thân. Số còn lại, tất cả đều không.

Giờ đây, chắc có người cho rằng đeo càng trực thăng để thoát cho nhanh, dù rằng dễ làm mồi cho hỏa lực phòng không mà phi cơ lại bay cao và nhanh. Nhưng ngoài chuyện ấy ra, một trường hợp cá biệt, việc lui binh trong khi đang giao chiến ác liệt (một chiến thuật khó khăn nhất trong binh pháp) lại bị phóng đại thành một lời buộc tội cho cả một quân đội, một quốc gia và tệ hơn nữa cả một dân tộc?

Câu trả lời rằng đó là do chính lòng kỳ thị chủng tộc. Vì lẽ những người bám càng trực thăng là người ngoại chủng. Thử hỏi kẻ đó là người Mỹ hay người Anh thì sao, cam đoan không sai rằng ta sẽ cảm thông cho là người đó đang phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngã.

Minh chứng cho điều này có thể thấy người Mỹ đã phản ứng như thế nào đối với lính Anh trước cuộc triệt thoái của họ hồi thời gian đầu Thế Chiến Thứ Hai.

Nơi đây cũng có những hình ảnh tủi hổ xảy đến cho lính Anh ở Dunkirk cũng như tại một số nơi khác. Ở Dunkirk một hạ sĩ quan để tái lập trật tự phải chĩa súng đại liên vào đồng ngủ của mình đang hốt hoảng trèo lên tàu. Trên một tàu khác, các binh sĩ dùng báng súng dộng liên hồi vào người một sĩ quan để ngăn không cho ông này leo lên tàu qua ngỏ tháp súng. Tại đảo Crete, một lữ đoàn quân Tân Tây Lan đã tạo một vòng đai an toàn với lưỡi lê chĩa ra ngoài ngăn không cho các quân Anh đang hoảng loạn tràn ngập lên được tàu mình.

Tuy thế, hình ảnh nước Anh đơn độc chống lại Hitler năm 1940 lại là một hình ảnh hào hùng. Điều này được minh chứng bởi sự kiện hoàn toàn hiển nhiên, ngay cả những biến cố đơn lẻ như vừa nêu bật ở trên vẫn không làm lu mờ được cái hình ảnh toàn cảnh về đức tính can trường và xả thân cứu nước của dân tộc này.

Quả thật quân Nam Việt đã tỏ ra xuất sắc vào những ngày cuối cùng của Miền Nam qua sự bảo vệ Xuân Lộc vô cùng anh dũng.

Tuy rằng có nhiều lý do như vậy. Thẳng hoặc có nhiều lý do để tin rằng, nếu có sự ủng hộ trung thành của phía người Mỹ ắt Nam Quân sẽ chứng tỏ cho thế giới thấy thêm nhiều Xuân Lộc khác nữa, và có lẽ họ cũng đã cứu được đất nước họ không bị mất.

Vấn đề được nêu ra không phải là khả năng chiến đấu của quân Nam Việt như thế nào nhưng mà xét xem người Mỹ sẽ hành xử ra sao nếu tình huống tương tự xảy đến với họ.

Sự thật là quân Mỹ nếu bị HK bỏ rơi như chính NV đã phải chịu, có lẽ họ cũng sẽ không khá chi hơn.

Hãy nhớ rằng: năm 1974 Hoa Kỳ đã cắt viện trợ cho Nam Việt một cách thê thảm một vài tháng trước khi đối phương mở cuộc tấn công sau cùng. Kết quả của sự cắt viện trợ là chỉ một ít nhiên liệu và đạn dược gửi sang cho Miền Nam. Các phương tiện để vận chuyển cả trên không lẫn trên bộ đều phải bị bỏ xó vì không có cơ phận thay thế. Quân lính NV đi hành quân không có bình điện để liên lạc vô tuyến, y tá trên chiến trường không có đủ y dược cụ căn bản. Trong những ngày tháng sau cùng của cuộc chiến, quân Nam Việt phải chiến đấu thắc lưng buộc bụng, họ được phép bắn ba viên mỗi ngày, khẩu phần này áp dụng cho cả súng trường lẫn đại bác.

Tình trạng tồi tệ đến nỗi ngay chính Văn Tiến Dũng, người chiếm được Miền Nam cũng chấp nhận sự thật là khả năng lưu động và hỏa lực của đối thủ của mình chỉ còn phân nửa trước đây. Vậy thì ngoài sự thiếu thốn vật chất này ra, sự chiến đấu kiểu nhà nghèo này cũng tác động lớn lên tinh thần chiến đấu của người lính NV.

Quân BV với trang bị đầy ắp, với những chiến xa tối tân, với những xe cơ giới chở quân hiện đại, họ đã đánh thẳng vào Miền Nam suy sụp này bằng cuộc tấn công phủ đầu.

Phải, quân NV đã gát lại, đã vứt bỏ chiến cụ (không vứt cũng coi như vứt vì có cơ phận đâu mà thay), cả đạn dược cũng bị bỏ lại (số lượng mà họ đã chắt chiu dành dụm được, mang theo đến phút cuối cho tới lúc biết là đã quá muộn màng rồi không có cơ hội để bắn hay mang theo được nữa, họ thừa biết họ sẽ không bao giờ có thêm để mà bắn). Vậy thì lỗi nơi ai? Họ hay người Mỹ?

Phải, quân NV đã triệt thoái khỏi các tỉnh phía bắc một cách vụng về và khá muộn màng, đưa đến tình trạng hỗn loạn và suy sụp. Nhưng làm thế nào chính quyền Miền Nam có thể bỏ mặc dân chúng sớm hơn được, trước khi áp lực địch quá lớn buộc họ phải làm thế?

Đã có lúc Nam VN hy vọng B-52 trở lại để giúp họ chặn bớt làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Khi biết rằng điều ấy sẽ không xảy đến, tinh thần chiến đấu của họ bị suy sụp cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Không còn nhuệ khí chiến đấu, nhiều binh sĩ quay ra đào ngủ - làm thế không phải vì họ hèn nhát hay không có tinh thần hy sinh để bào vệ đất nước mình, nhưng vì họ không muốn xả thân cho một sự nghiệp biết chắc là đang trên đà phá sản trong khi gia đình họ đang khẩn thiết cần đến mình.

Quân Mỹ liệu sẽ làm gì khá hơn được chăng nếu cũng lâm vào tình huống như Nam VN hồi 1975? Liệu quân Mỹ có chiến đấu ngon lành với quân xa, truyền tin đều hỏng, hệ thống quân y què quặc, thiếu thốn nhiên liệu và đạn dược, và không yểm thì nhỏ giọt hoặc hầu như không có. Với một tình trạng bết bát như thế mà phải đối đầu với một kẻ địch có quyết tâm cao, hùng mạnh, trang bị tối tân, sung mãn. Tôi e là không thắng nổi.

Liệu NV có thắng được trận 1975 nếu chính phủ Mỹ vẫn giữ vững sự cam kết, và tiếp tục chi viện cho NV không kém với chi viện mà khối CS dành cho Miền Bắc?

Câu trả lời là không biết được. Ít ra họ có một cơ hội để đọ sức, cái cơ may mà người Mỹ phản trắc đã tước mất của họ. Hiển nhiên là họ có thể chiến đấu hữu hiệu hơn. Cho dù họ có bại trận họ cũng ngã gục một cách hào hùng trong một trận đánh lưu danh muôn thuở cho hậu duệ, để tiếp tục chiến đấu dưới hình thức du kích chiến rập khuôn theo kiểu Afghanistan.

Cho dù NV có đại bại, sự ủng hộ hết mình của Hoa Kỳ ít ra cũng khiến họ có thể nhún vai mà nói rằng dù sao họ cũng đã giúp đở hết mình rồi. Đằng này người Mỹ chưa có hết mình giúp đở. Những kẻ nào muốn trốn tránh sự thật ấy bằng cách quay ra báng bổ NV và quân đội ấy là không phải lẽ.

Trước một tội ác tày trời bỏ mặc cho nhân dân Miền Nam rơi vào tay CS, người Mỹ sau này quay ra đi làm điều tốt kể ra đã quá muộn màng. Nhưng nếu biết nhìn lại và công nhận mình đã sai lầm khi sĩ nhục lương tâm của người Miền Nam ấy thì chưa có muộn đâu. Cũng chưa muộn màng gì nếu ta biết khởi đầu vinh danh đúng mức những thành tích họ đã đạt được cùng những hành động hào hùng họ đã tạo nên để bảo vệ cho lý tưởng tự do.

By Harry F. Noyes III

Nguồn : nguoiviet online

28 thg 4, 2010

Sự thật luôn giải phóng cho con người

Hà Văn Thịnh

Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kandinsky

Đọc bài Diễn văn nhan đề “Tự do, sự thật và hòa giải” của cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczynski, (BVN, 25.4.2010), bài diễn văn mà người viết ra nó không bao giờ còn có dịp đọc nó, dường như mắt tôi đã phải chớp rất nhiều lần, tôi cảm thấy rất mệt mỏi, và rất buồn khi viết những dòng này.

Điều đầu tiên của sự xót xa là ký ức tôi lập tức xuất hiện hai câu thơ trong bài Khóc ông Stalin của Tố Hữu (xin mở ngoặc là vì lâu quá rồi nên có thể không chính xác hoàn toàn câu chữ): Thương cha, thương mẹ thương chồng / Thương mình thương một thương ông thương mười (!). Khi Tố Hữu viết những dòng ấy, ông đang ở cái thời đã vào Trung ương trên Việt Bắc nhưng còn khá lâu mới “Làm bí thư hoài có bí thơ” nên có lẽ ông không biết hết những tội ác mà Stalin đã gây ra? Đó là những tội ác mà mới đây Tổng thống Nga Medvedev khẳng định tại Washington D. C. Khi còn là sinh viên, chúng tôi đã được dạy lịch sử Liên Xô, Trung Quốc… bằng 90% sự dối trá và phản lịch sử. Thì ra, cái dối trá đã được ươm mầm từ lâu lắm rồi…

Trong bài Tổng thống của dân, Mạc Văn Trang cho biết Ba Lan có diện tích xấp xỉ Việt Nam, dân số 38,6 triệu người, GDP năm 2007 là 604 tỷ USD. Thời điểm đó GDP của Việt Nam là 60 tỷ USD với dân số khoảng 85 triệu người. Nếu tính theo GDP đầu người/năm thì Ba Lan giàu hơn Việt Nam 20 lần. Sự giản dị và tiết kiệm của vợ chồng cố Tổng thống đã thành huyền thoại khi người dân gọi Kaczynski là “củ khoai tây”, còn vợ là “con chuột xám” (trang phục toàn những thứ ít tiền). Tại sao một Tổng thống của một đất nước giàu có hơn Việt Nam 20 lần, lại chấp nhận đi chiếc máy bay cũ kỹ để đến nỗi bị tai nạn thảm khốc? Câu hỏi đó ai cũng trả lời được và càng đau xót hơn khi nhìn thấy ở nơi khác, nước khác, quan chức tha hồ phè phỡn, vơ vét cho đầy túi tham hàng triệu USD, để mặc cho người dân ngắc ngoải, đau buồn. Một con người vì dân, của dân như Tổng thống Zaczynski luôn tôn thờ sự thật và, ông chết cũng chỉ vì sự thật.

21.768 người dân, binh lính, sĩ quan, linh mục, mục sư… Ba Lan đã bị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ra Quyết định ngày 5.3.1940 với chỉ thị rất rõ ràng họ “không thể cải tạo”. Cái “uyển ngữ” tàn nhẫn trên đây đã được thi hành vào tháng 4.1940 bằng những phát đạn bắn vào gáy (!). Cuộc đời sao có thể lại có sự dã man đến thế? Lòng ích kỷ và mù quáng của quyền lực, của tư tưởng bảo vệ sự ích kỷ đó bằng mọi giá, bất chấp dân tộc, bất chấp con người nó hung hiểm và độc ác biết chừng nào! Nỗi đau của tôi được nhân lên gấp bội khi chính những thi hành án là những chiến sĩ hồng quân. Trong số họ không ít người là đảng viên cộng sản.

Trong bài Diễn văn trên, cố Tổng thống Ba Lan đã tôn vinh một sinh viên tên là Joseph Balka – người đã dám đòi công bố sự thật Katyn* năm 1949 – sau đó bị tù giam 3 năm vì những nhà cầm quyền của Nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan cho rằng sự thật đó làm ảnh hưởng đến quan hệ Ba Lan – Liên Xô. Xem ra, chuyện xưa và chuyện nay, bài học của quá khứ để soi vào hiện tại chẳng khác nhau là bao. 3 năm tù đày của người sinh viên đó, phải mất 40 năm mới chứng minh được (1989), và như cố Tổng thống Ba Lan đã khẳng định: “Sự thật – vũ khí cuối cùng để chống lại vũ lực – đã chiến thắng!”

Rất nhiều câu hỏi và ngẫm suy được đặt ra qua bài Diễn văn sẽ trở thành bất tử này. Tại sao Cộng hòa Nhân dân Ba Lan được xây dựng trên nền tảng của “sự dối trá Katyn” và Cộng hòa Ba Lan hôm nay được xây dựng theo nguyên tắc “sự thật Katyn” lại khác nhau nhiều thế? Tại sao lịch sử thế giới hiện đại do các nhà sử học Việt Nam xuất bản lâu nay lại không viết lại? Nếu chúng ta có lương tâm sử học – vì, nguyên tắc đầu tiên của nó là “kể lại chính xác về tất cả những gì đã xảy ra” bị bóp méo, xuyên tạc – thì tại sao chúng ta vẫn cứ chấp nhận? Sử học mà không có sự thật thì chẳng một ai tin, chẳng một ai dựa trên cái “nền tảng” lố bịch đó để xây dựng thành bài học, để định hướng thành chân lý. Tại sao bao nhiêu thế hệ sinh viên, trước, cùng thời và sau chúng tôi cứ phải nghe mãi những điều dối trá?…

Khép lại bài viết này trong tâm trạng hoang mang và bối rối vô cùng vì những gì tôi đã biết, đã đọc lâu nay chỉ có vài phần trăm sự thật; trong tai tôi cứ như đang “nghe” được câu mà Lech Kaczynski đã viết trong bài Diễn văn: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất, luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp”.

Xin thắp một nén hương vì Lech Kaczynski!

* Thoạt tiên cụm từ này chỉ vụ thảm sát khoảng 4400 sĩ quan Ba Lan bị giam ở trại Kozelsk trong khu rừng Katyn gần làng Gnezdovo, cách không xa Smolensk. Về sau, nó bao hàm cả việc giết hại khoảng 22.000 công dân Ba Lan, tù binh ở các trại Kozelsk, Starobelsk và Ostashkov và tù nhân ở các nhà lao ở Tây Belarus, Tây Ukraina, bị bắn theo lệnh Stalin trong khu rừng Katyn và tù nhân ở Kalinin (Tver), Kharkov và các thành phố khác của Liên Xô (Theo Wikipedia).

27 thg 4, 2010

Trên chiến trường xưa

Phạm tín an ninh

Hơn ba mươi năm sau, cùng với bốn anh em trong đơn vị xưa, chúng tôi trở lại Kontum tìm thăm nơi an nghỉ của những đồng đội cũ. Trong những năm 72 và 73, đơn vị chúng tôi đã có hơn hai trăm anh em vĩnh viễn nằm lại nơi này để giữ vững miền địa đầu, cửa ngõ quan trọng nhất vào Tây Nguyên, nơi có bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn nằm không xa phía dưới - Thành phố Pleiku.

Dừng chân dưới chân núi ChuPao, nhớ tới những trận đánh khó khăn ác liệt với những toán địch quân bị xích chân trong những hầm núi đá, cố bám trụ những cái "chốt", nhằm cắt đứt QL 14, con đường huyết mạch nối liền Kontum với Pleiku, và hình dung tới từng khuôn mặt của những anh em đã không bao giờ còn trở lại, một số đã gởi xác thân lại cho rừng núi nơi này, tôi xót xa khi nghĩ là mình còn mắc nợ họ. Món nợ máu xương không bao giờ trả được.

Ngày ấy chiến trường ác liệt, có nhiều người lính phải hy sinh ngay khi vừa mới bổ sung cho đơn vị, mà ban quân số chưa kịp nhận hồ sơ lý lịch. Đa số rất trẻ, độc thân, và gia đình ở tận những miền xa, nên mồ mả không có ai chăm sóc. Hơn ba mươi năm rồi, qua bao nhiêu thăng trầm biến đổi, có lẽ hầu hết các nghĩa trang trong thành phố đã bị giải tỏa từ lâu, và nếu có được cải táng ở một nơi nào đó, chắc trên mộ bia không còn ghi đơn vị cũ. Chúng tôi đến đây như để tìm lại chút kỷ niệm và mong được vơi đi chút nào lòng trắc ẩn, chứ chuyện tìm lại được mồ mả của anh em và hy vọng rất mong manh.

Cả thành phố Kontum bây giờ đã đổi khác. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được các địa danh ngày trước. Những B12, B15, Thành DakPha, Đồi Sao Mai, Bệnh Viện Dã Chiến. Nơi có những bản doanh, căn cứ từng mang tên những người anh, người bạn anh hùng của tôi đã nằm xuống để bảo vệ Kontum: Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm…Chúng tôi tìm đến một số nhà quen lúc truớc. Tất cả không còn. Những người chúng tôi gặp đa số mới vào từ miền Bắc. Người Kontum xưa giờ chắc cũng đã tứ tán bốn phương trời. Tội nghiêp cho người dân Kontum bất hạnh. Bao nhiêu năm tháng hứng chịu chiến tranh, có lúc thành phố bị mỗi ngày hàng ngàn quả đạn pháo, vậy mà họ vẫn ở lại, vẫn cùng với những người lính chúng tôi giữ vững thành phố này trong suốt những thời kỳ ác liệt nhất. Nhưng rồi cuối cùng, giữa tháng 3/75, Kontum bị bỏ rơi tức tưởi khi không còn bóng dáng quân thù. Những người lính ở đây được lệnh tử thủ, ngăn chặn miền địa đầu tam biên cho Pleiku di tản. Tôi từng được nghe người Kontum kể lại chuyện những người lính hào hùng, tự sát vào giờ thứ 25, khi Kontum bị lọt vào tay giặc. Nghĩ tới đó, lòng tôi thấy nghẹn ngào, nước mắt cứ trào ra.

Đúng như chúng tôi dự đoán, tất cả mọi nghĩa trang trong thành phố, nơi bạn bè tôi được chôn cất, không còn nữa, người ta đã giải tỏa để xây lên một số cơ sở công quyền và những khu giải trí.

Chúng tôi tìm đến Tòa Giám Mục, cũng là nơi mà đơn vị chúng tôi đã phải đổ khá nhiều máu xương để tái chiếm trong Mùa Hè Đỏ Lửa. Một vị linh mục đứng tuổi, tiếp chúng tôi niềm nở. Ông cho biết là, mồ mả trong chttp://songvequan.blogspot.com/ác nghĩa trang lúc xưa đã được cải táng và chuyển đến địa điểm mới, nằm trên cây số 9, đường lên Tân Cảnh. Tuy nhiên chỉ có những ngôi mộ có thân nhân nhận lãnh và tự cải táng thì mới có mộ bia, còn những ngôi mộ khác thì không biết ra sao. Ngài còn tốt bụng, sẵn sàng hướng dẫn chúng tôi đến đó. Cây số 9, gần căn cứ Non Nước, nơi ngày xưa đơn vị tôi đã bao lần cùng với các chiến sĩ thiết giáp hào hùng của Chi Đoàn 1/8 KB đẩy lui những đợt tấn công biển người của địch, giữ vững cửa ngõ vào thành phố Kontum.

Mất gần hai tiếng đồng hồ, đi khắp nghĩa trang, chúng tôi vẫn không tìm ra bia mộ nào có cái tên quen. Nhiều ngôi mộ không có bia. Đưa vị linh mục trở lại Tòa Giám Mục, cám ơn và chia tay ngài. Đã hơn 12 giờ trưa, chúng tôi tìm một nơi nào đó để ăn cơm. Nhớ tới quán ăn Bạch Đằng và Thiên Nam Phúc ngày xưa, nơi có mấy cô chủ quán dễ thương, mà đám lính tráng chúng tôi thường ghé lại đây ăn uống sau những tháng ngày dài hành quân trong núi, một anh bạn hỏi thăm đường đến đó. Nhưng quán bây giờ đã đóng cửa và những người xưa cũng đã trôi dạt về những nơi nào đó. Bọn tôi rủ nhau ra bờ sông Dakbla, dọc theo con đường về làngTân Hương, nơi lúc xưa có mấy cái quán nhỏ để những ngày tương đối bình yên, bọn tôi ra ngồi uống cà phê, ngắm dòng sông chảy ngược, tạo huyền thoại một thời này, mà nhớ tới vợ con hay người tình đang ở đâu đó, để rồi sau lúc chia tay chẳng biết ngày mai ai còn ai mất. Dọc theo bờ sông bây giờ là những hotel, nhà hàng, nhà trọ và biệt thự của các ông quan lớn. Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra được một cái quán ăn bình dân, nhưng khá sạch sẽ, nằm dưới tàng của một cây trứng cá.

- Buổi trưa nên vắng khách. Bà chủ vui vẻ vừa đón chúng tôi vừa giải thích.

Chúng tôi chọn một cái bàn nhỏ gần bờ sông. Xa xa phía bên kia là làng Phương Hòa thật dễ thương ẩn mình dưới những vườn cây. Nhìn mấy bờ đê bên bìa làng, tôi nhớ tới cái chết của người phi công anh hùng Phạm văn Thặng. Tôi đã chứng kiến phi vụ thật can trường này. Anh là trưởng phi tuần gồm hai chiến đấu cơ AD-6 , đánh bom vào một mục tiêu có nhiều ổ súng phòng không của địch. Anh lao phi cơ xuống thật thấp bắn chính xác, tiêu hủy mục tiêu, tạo một đám cháy và nhiều tiếng nổ phụ, rồi bay lên từ trong đám lửa ấy. Đang trên đường bay về, anh phát hiện có nhiều đạn phòng không bắn lên từ một khu vực khác. Anh quay trở lại, lao phi cơ xuống trút hết những quả bom còn lại, rồi bay vút lên không trung. Đúng lúc ấy, máy bay anh bị trúng đạn. Cánh bên phải phát hỏa. Anh phi tuần phó bay kèm theo, bảo vệ và hối thúc anh nhảy dù ra. Bộ binh chúng tôi cũng sẵn sàng tiếp cứu. Nhưng anh từ chối, bảo là nếu anh nhảy dù ra, phi cơ sẽ rớt xuống khu dân cư trong thành phố. Anh cố gắng bay qua bên kia bờ sông, đáp khẩn cấp (crash) xuống khu ruộng trống phía dưới. Anh điều khiển thật tài tình, nhưng vì phi cơ đã hư hỏng, không còn theo ý muốn, đâm vào một bờ đê và phát nổ. Anh Phạm văn Thặng đã anh dũng hy sinh. Điều cảm động hơn, khi người đại diện của Sư Đoàn đến nhà anh để chia buồn cùng gia đình và đưa anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, đã kể lại cảnh nghèo nàn của gia đình anh, một trung tá phi công của QLVNCH.

- Mấy ông anh từ xa tới. Chắc tính làm ăn gì chứ cái thành phố này thì có cái gì mà tham quan. Phải không?

Câu hỏi của chị chủ quán làm tôi giật mình. Mấy anh em khác im lặng, nhìn tôi như thầm nhắc cho tôi cái nhiệm vụ trả lời.

- Không, bọn tôi tìm thăm người quen, nhưng không gặp.

- Ở khu vực nào, có nhớ địa chỉ không ? Tôi sẽ tìm giúp các anh. Tôi là dân ở đây mà.

Tôi mỉm cười :

- Cám ơn chị. Ở trong nghĩa trang thành phố, nhưng đã bị dọn đi nơi khác rồi, biết đâu mà tìm.

Chị chủ quán khựng lại chưa kịp để thức ăn xuống bàn, nhìn tôi ngạc nhiên :

- Sao lại phải ở trong nghĩa trang ?

- Vì họ đã chết rồi. Chết từ năm 1972 lận. Tôi buồn bã trả lời .

- Vậy chắc các anh đây là lính Cộng hòa mình ? thuộc đơn vị nào ?

Nghe mấy chữ “lính Cộng hòa mình” tự dưng tôi cảm thấy gần gũi với người đàn bà xa lạ này. Tôi thân thiện :

- Anh em bọn tôi thuộc sư đoàn 23, trung đoàn 44 chị ạ.

- À, vậy có anh nào ở đại đội trinh sát ?

- Không, bọn tôi ở trung đoàn và tiểu đoàn . Một người trong chúng tôi trả lời.

Sau một khắc yên lặng, chị lên tiếng:

- Em có mấy người bạn ở trinh sát. Lúc trước cũng nằm trong nghĩa trang thành phố, nhưng khi có lệnh giải tỏa, em đã chuyển các anh ấy lên cây số 9 rồi. Chị chủ quán tỏ ra thân thiện và thay đổi cách xưng hô.

Chúng tôi vừa bất ngờ vùa xúc động. Sau khi dọn bàn xong, mang nước trà ra mời chúng tôi, chị kéo ghế ngồi xuống rồi tâm sự.

Thì ra chị là bạn gái của anh Bình, trung sĩ Bình, ở đại đội trinh sát của đại úy Minh, sau này là đại úy Mạnh. Anh tử trận hồi mùa hè 1972. Ngày đó chị còn đang đi học, nhưng chiến tranh ác liệt quá, trường phải tạm đóng cửa. Chị ở nhà phụ bán cà phê cùng với người chị ruột. Bà chị này quen khá thân với Mạnh. Khi ấy Mạnh còn là trung úy đại đội phó. Anh Bình thường theo Mạnh tới đây, rồi dần dà quen nhau. Từ khi Bình chết, chị thường đến thắp hương và chăm sóc mộ phần Bình và những đồng đội của anh nằm trong nghĩa trang thành phố.

Năm 1978, nhà cầm quyền Cộng sản ra lệnh giải tỏa nghĩa trang, chị chạy khắp nơi kêu gọi bà con cùng góp tiền góp sức với chị, nhưng cũng chỉ kịp cải táng hơn 20 ngôi mộ của những anh em trinh sát về địa điểm mới. Hầu hết mồ mả của những anh em chiến sĩ còn lại, đã bị san bằng. Chúng tôi cảm động. Không ngờ trong thời buổi nhá nhem tình nghĩa, có lắm kẻ sớm vong ơn, phản suy phù thịnh, vẫn còn có nhiều người Kontum nặng tình với lính.

Theo yêu cầu của bọn tôi, chị cùng chúng tôi đi thăm mộ anh Bình và các anh em trinh sát. Hơn hai mươi ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, nằm bên nhau ở khu phía đông nghĩa trang. Điều đặc biệt trên các tấm bia, trước mỗi cái tên đều có kẻ hai chữ TS. Chúng tôi thắp hương cho từng ngôi mộ xong, quay lại thì thấy chị đang ngồi sụt sùi trước mộ anh Bình. Khi thấy bọn tôi, chị lau nước mắt đứng dậy và nói một mình:

- Thật tội nghiệp, anh ấy hy sinh khi tìm cách chui qua hàng rào để bắn hạ chiếc xe tăng của VC vừa đột nhập vào chiếm bệnh viện

Tôi nhớ lại trận chiến ác liệt này. Khi VC mở đợt tấn công thứ nhì vào thành phố Kontum nhằm rửa hận lần thảm bại ở tuyến tây bắc: Hơn một trung đoàn bộ và nguyên một tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn 320 bị chúng tôi xóa sổ. Lần này chúng dùng mấy chiếc M113 đã cướp được của Sư Đoàn 22 BB từ khi Tân Cảnh thất thủ, dẫn đầu môt đơn vị gồm những chiến xa T 54 + T59 có bộ binh yểm trợ, nhằm lừa phi cơ quan sát của ta, xâm nhập vào bệnh viện dã chiến, nằm cạnh thành DakPha, cách vòng đai phi trường chừng 800 mét, với thủ đoạn lợi dụng vào những thường dân và binh lính bị thương nằm trong bệnh viện, để uy hiếp lực lượng của ta. Tiểu Đoàn 4/44 do Thiếu Tá Võ Anh Tài chỉ huy đã đánh một trận chiến vô cùng gay go ác liệt với một lực lượng địch đông gấp ba lần, dùng chiến xa T 54 làm nổ lực chính. Xe tăng địch nép theo những vách nhà bệnh viện. Muốn diệt chúng phải tiếp cận để có thể dùng những khẩu M 72 hiệu quả, anh Tài cùng toán quân báo đã dẫn đầu đơn vị, tìm cách chui qua hàng rào bệnh viện, và anh đã hy sinh bởi bị chính mìn của ta phát nổ. Người anh cả của Tiểu Đoàn, một sĩ quan xuất thân từ khóa 16 VBĐL lừng danh, đã nằm xuống dọn đường cho đơn vị mình cứu nguy bệnh viện, nơi có đồng bào và cả đồng đội của anh bị địch quân dùng làm bàn đạp trong ý đồ bất nhân của chúng. Đại Đội Trinh Sát đang bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn được điều động tiếp ứng, đột nhập đánh vào sườn địch. Trinh Sát 44, một đại đội với bao chiến công hiển hách từ thời đại úy Trần Công Lâm, Phan công Minh và sau này là Đoàn quang Mạnh, đã đánh một trận thật tuyệt vời, bắn cháy nhiều chiến xa địch, đuổi đám tàn quân Cộng sản chạy thoát thân ra khỏi bệnh viện và giữ vững một lần nữa vòng đai thành phố. Đại đội Trinh sát này dưới sự chỉ huy tài ba và gan dạ của trung úy Phan Công Minh, đã từng đánh một trận thần tốc, chỉ bằng lựu đạn và cận chiến, giải cứu cho một Tiểu Đoàn BĐQ /BP bị vây trên đỉnh núi ChuPao. Minh bị thương nhưng vẫn tiếp tục điều quân, vừa phá vòng vây cứu nguy cho đơn vị bạn, vừa diệt những cái chốt cuối cùng, khai thông QL 14, để lực lượng chiến xa của Lữ Đoàn II KB lên tăng cường cho mặt trận và hộ tống đoàn xe tiếp tế, lần đầu đến Kontum kể từ khi cuộc chin khởi đầu. Tướng Trần văn Hai, nguyên Chỉ huy trưởng BĐQ, lúc ấy là TLP/ QĐII đã cùng đại tá TMT/QĐ Lê Khắc Lý, đến QYV Pleiku ôm lấy người đại đội trưởng trẻ tuổi tài ba gan dạ Phan Công Minh ngay khi vừa mới được tản thương về, và gắn lon đại úy cùng anh dũng bội tinh với nhành dương liểu cho Minh tại đây. Lúc ấy Minh vừa tròn 25 tuổi.

- Đại úy Mạnh bây giờ ở đâu, các anh có gặp anh ấy không ?

Câu hỏi của chị đã cắt mất dòng hồi tưởng của tôi. Tôi lên tiếng trả lời chị :

- Anh Mạnh đã chết trong tù cải tạo từ năm 1978 chị ạ.

Im lặng một lúc, tôi lại nghe tiếng chị khóc .

- Chị Hà em, bạn gái của anh Mạnh lúc xưa cũng bị chết năm 75 khi VC vào chiếm Kontum. Mộ chị nằm ở ngay phía trước đây.

Vừa nói, chị vừa dẫn chúng tôi đến đó. Nhìn bức ảnh trên mộ bia tôi mang máng nhớ lại người con gái tên Hà ở một quán cà phê nhỏ nằm trong vườn cây sau nhà, hơn ba mươi năm về truớc.

Nghĩa địa mới này nằm không xa làng Trung Nghĩa. Tôi rủ chị cùng với chúng tôi ghé lại lại thăm làng và khu nhà thờ. Nơi mà ngày xưa ông cha chánh xứ đã cùng chúng tôi chiến đấu bảo vệ những giáo dân ngoan đạo . Nghe nói ngài đã bị tra tấn đến chết trong trại tù cải tạo.

Ra khỏi nghĩa trang, nhìn về phía bắc, rừng núi ngày xưa, dù không tránh được dấu vết của đạn bom, nhưng vẫn còn xanh tốt, giờ sao lại xơ xác điêu tàn. Tôi hỏi chị bạn gái anh Bình, nghe tiếng chị thở dài :

- Tham nhũng bây giờ còn tàn phá nhiều hơn cả chiến tranh ngày trước .

Tôi nhớ lại những vụ án ở đây, có liên quan đến nhiều ông lớn. Mới đây bà Thao Y Bình, Bí Thư Tỉnh Đoàn Kontum đã ăn cướp đến gần 140 tỷ đồng của dân nghèo, và ông Trần văn Thiên, chủ tịch huyện Dak Glei đã thông đồng bán bao nhiêu gỗ quí.

Trên đường vào làng Trung Nghĩa, tôi hồi tưởng tới trận chiến trên tuyến Tây Bắc Kontum. Nơi đơn vị tôi đã thắng một trận thật lẫy lừng, làm tiêu hao cả sư đoàn 320 mà địch quân thường hãnh diện là Sư Đoàn Thép, mở đầu cho bao nhiêu chiến thắng sau đó để Kontum, Tây Nguyên không lọt vào tay giặc.

Đúng vào sáng 30 tết năm 1972, khi chuẩn bị buổi tiệc tất niên cho các đơn vị tại hậu cứ Sông Mao sau một năm đối mặt với chiến trường, Trung Đoàn 44 chúng tôi nhận khẩu lệnh của Tướng Ngô Dzu, Tư Lệnh QĐ II, di chuyển khẩn cấp lên An Khê để thay thế vị trí Sư Đoàn 101 Không Kỵ Hoa Kỳ vừa rút quân về nước. Vừa đến An Khê vào chiều mồng một tết, chúng tôi đã cùng với Thiết Đoàn 3 KB tham chiến, giải tỏa áp lực địch đang bao vây một số căn cứ phòng thủ của các đơn vị thuộc Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn dọc theo đèo An Khê nằm trên QL 19. Tình hình tương đối yên tĩnh, các căn cứ Đại Hàn được giải tỏa, QL 19 đã khai thông, chúng tôi vừa đảm trách giữ an ninh cho QL19 từ Pleiku đến Bình Khê, vừa thiết lâp lại các căn cứ pháo binh, phòng thủ. An Khê là một địa danh làm người ta nhớ tới hai đoạn đèo Mang Yang và An Khê cùng những khúc quanh “tử thần”, mà ngày xưa cả một tiểu đoàn thiện chiến của đội quân viễn chinh Pháp bị lọt vào ổ phục kích, để gần như phải xóa sổ.

Ngày 24/4/72, Tân Cảnh thất thủ khi BTL Tiền Phương của SĐ22 bị tràn ngập. Đại tá Lê Đức Đạt, vị tư lệnh không được sự ủng hộ của tay phù thủy John Paul Vann, cố vấn Mỹ QĐII&QK2, đã từ chối lời mời lên máy bay của người cố vấn SĐ khi phòng tuyến bị chọc thủng bởi nhiều chiến xa T 54 của địch. Ông ở lại chiến đấu và vùi thây nơi chiến địa. Căn cứ Tân Cảnh thất thủ, quận Dakto mất, một BTL/Sư Đoàn bị rơi vào tay giặc mà không hề có bất cứ sự yểm trợ nào của lực lượng đồng minh, cùng cái chết của vị tư lệnh liêm sỉ, khí phách hào hùng thời ấy đã là một trang chiến sử nói lên cái bi phẫn của QLVNCH, báo trước sự bỏ rơi của người bạn đồng minh Mỹ, đã từng cam kết bảo vệ miền Nam, tiền đồn của Thế Giới Tự Do.

Căn cứ địa đầu thất thủ, kéo theo sự xáo trộn của một Sư Đoàn bao nhiêu năm trấn thủ tam biên, tạo thuận lợi để địch quân tràn xuống uy hiếp Kontum.

Trung Đoàn 44 nhận lệnh di chuyển khẩn cấp lên phi trường Pleiku để được không vận lên Kontum. Lúc này thành phố Kontum đang bất ổn, VC đã có mặt một số nơi trong thành phố và pháo kích thường xuyên vào phi trường, một vài phi cơ bị trúng đạn phải nằm ụ tại chỗ. Chúng tôi được lần lượt không vận vào ban đêm bằng C 130. Khi sắp vào không phận, máy bay tắt hết đèn. Phi cơ không đáp mà chỉ bay rà qua phi đạo để chúng tôi nhảy xuống từ cửa phía sau.

Những chiến sĩ anh dũng của QLVNCH

Tiểu Đoàn 1 và 2/44 đựơc chở thẳng tới phòng tuyến tây bắc, thay thế cho một liên đoàn BĐQ vừa bị tiêu hao quân số. Hai vị tiểu đoàn trưởng lại là hai người bạn cùng tốt ngiệp khóa 19 VBĐL thao lược, can trường: Đại úy Đặng Trung Đức và Nguyễn Xuân Phán. Ngay sau khi nhận khu vực trách nhiệm, từ vị tiểu đoàn trưởng đến binh sĩ cùng nhau lập phòng tuyến chiến đấu, đặc biệt là đào những hầm hố chống chiến xa phía trước.

Vào khoảng 5 giờ sáng, ánh trăng hạ tuần còn mờ ảo dưới màn sương, các toán tiền đồn phát hiện có nhiều chiến xa địch đang tiến về hướng nam. Các đơn vị được lệnh xuống giao thông hào, và dỡ bỏ tất cả các lều poncho để tránh sự phát hiện của địch. Trên hệ thống vô tuyến, tất cả báo cáo đã sẵn sàng. Địch quân tập trung đánh vào phòng tuyến TĐ 2 của Đại úy Nguyễn Xuân Phán. Chúng không ngờ có một đơn vị thiện chiến mới toanh vừa mới có mặt trên chiến trường này, nên sau một loạt tiền pháo, chúng xua những chiếc T54 dàn hàng ngang, lực lượng bộ binh ồ ạt theo sau. Mặc dù đây là lần đầu tiên trực chiến với xe tăng địch nhưng không hề nao núng, mặc cho những xích sắt tha hồ rú gào đe dọa, Đại úy Phán bình tĩnh vừa gọi pháo binh tác xạ ngăn chặn, phân tán và tiêu diệt bộ binh địch, vừa ra lệnh cho đơn vị chỉ khai hỏa khi những chiếc T 54 tới gần trước mặt, trong tầm bắn chính xác hữu hiệu của những khẩu M 72, loại vũ khí chống tăng duy nhất mà đơn vị được cấp, và một số B40, B41 của địch thu dược từ chiến trường An Khê. Đó là một quyết định táo bạo và sáng suốt. Chiếc T54 đầu tiên bị bắn hạ do chính anh Tiểu Đoàn Phó, đại úy Nguyễn văn Hướng. Ngay sau đó, hàng loạt xe tăng địch bị bắn cháy. Cả một tiểu đoàn ồ ạt hô xung phong. Cộng quân bị đánh bất ngờ, khiếp sợ, quay đầu chạy. Một chiếc T54 ủi thẳng vào hầm BCH/TĐ, bị ta bắt sống cả xe lẫn địch, trong đó có tên đại đội trưởng. Tiểu Đoàn 1/44 của Đại úy Đức trở thành lực lượng ngăn chặn hữu hiệu, đánh bất ngờ bên hông địch, đám tàn quân chỉ còn kịp buông súng đầu hàng. Chiến thắng ấy tất nhiên là công trạng của tất cả mọi người, nhưng sẽ là thiếu sót lớn lao, nếu không nhắc tới thiếu tá Ngô văn Xuân, vị trung đoàn phó tốt nghiệp khóa 17 VBĐL hiền lành mà tài năng đảm lược. Lúc nào tiếng nói thật bình tĩnh, trấn an, dặn dò, đốc thúc của Bá Hòa (danh hiệu của anh) cũng vang trên hệ thống vô tuyến làm nức lòng chiến sĩ. Ngay sáng hôm ấy, khi khói lửa chưa an, Thiếu Tướng Nguyễn văn Toàn vừa nhận chức vụ Tư lệnh QĐII thay thế Tướng Ngô Dzu, bay lên thị sát mặt trận. Ông vẫn đội bê rê đen, đứng trên xe M113 và đi bộ ngay trên phòng tuyến, bắt tay từng anh em binh sĩ, vui mừng với chiến tích đầu tiên của ông và gắn lon thăng cấp cho vị trung đoàn trưởng. Người ta đã nói nhiều về cá nhân ông, nhưng ít ai biết được ông là một dũng tướng ngoài chiến trường.

Chiến công hiển hách này đã mở đầu cho hằng loạt chiến thắng khác của tất cả những đơn vị tham chiến để bảo vệ Kontum và giữ vững vùng địa đầu Tây Nguyên trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.

Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu lên thăm Kontum, mừng chiến thắng. Khi trực thăng ông đáp xuống căn cứ B 12, bản doanh của BTL/SĐ23BB, đạn pháo của VC thi nhau rót xuống, nhưng vị Tổng Tư lệnh đã xua tay từ chối nhận chiếc áo giáp từ vị đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn. Ít nhất ông cũng đã chứng tỏ được cái uy dũng của một người xuất thân từ lính. Nhân dịp này Tổng Thống đã gắn lon Tướng cho đại tá Lý Tòng Bá, Tư lệnh Sư Đoàn. Các anh Tiểu Đoàn Trưởng đều được vinh thăng một cấp. Riêng vị trung đoàn phó thầm lặng Ngô văn Xuân được thăng cấp bằng một quyết định riêng sau đó. Anh được điều về làm Trưởng Phòng 3 Sư Đoàn và sau này là một trong những vị trung đoàn trưởng thao lược của QLVNCH.

Trung Nghĩa bây giờ chẳng còn môt chút gì dấu tích chiến tranh, nhưng nhìn ở đâu tôi cũng thấy bóng dáng anh em đồng đội cũ, những người bạn trẻ tuổi can trường của chúng tôi ngày trước. Đặng Trung Đức đã hy sinh vào mùa hè 1973 khi vừa được trực thăng vận xuống phía bắc căn cứ Non Nước. Tên anh được đặt cho bản doanh BTL/SĐ. Vợ con anh đã sang Pháp, nhưng chị Đức đã mất từ năm 1982, hai đứa con nhỏ phải nhờ ông bà ngoại nuôi nấng. Bà mẹ già góa bụa, mà Đức là con một, cũng đau buồn mà đi theo Đức chưa đầy một năm sau ngày Đúc hy sinh. Trần Công Lâm, người bạn cùng khóa thân thiết nhất của tôi - người sĩ quan chưa hề biết mùi chiến bại, đi hành quân mà chưa gặp địch là không chịu quay về -, trước khi nắm Tiểu Đoàn 3/44, đã từng là một đại đội trưởng Trinh Sát lừng danh với bao chiến công hiển hách, vang dội khắp Quân Đoàn, cũng đã nằm xuống cuối năm 1973 trên đỉnh Ngok Wang đèo heo gió hú. Nguyễn xuân Phán sau những năm tháng tù đày, hiện lưu lạc ở một thị trấn nhỏ thuộc tiểu bang Washington bên Mỹ và vẫn hăng say trong các tổ chức xã hội, cộng đồng. Thỉnh thoảng anh xuống San Jose gặp gỡ bù khú với anh em, vẫn cạn ly một trăm phần trăm, dễ thương, vui vẻ như ngày nào. Anh bảo chỉ có những lúc vui với anh em và say mèm mới có thể quên được nỗi đau. Phan Công Minh thì đang sống âm thầm ở một thành phố biển ngoại ô New York. Hơn 10 năm đi cày 2, 3 “job”, để đủ lo cho các con ăn học, thời gian còn lại chỉ đủ để uống rượu tiêu sầu. Bây giờ tương đối rảnh rang, truyền nghề đánh giặc lại cho thằng con trai lớn vừa tình nguyện vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, đang hành quân trên chiến trường Irak. Riêng anh Ngô văn Xuân, mòn mỏi, bệnh hoạn sau hơn 13 năm tù. Nhưng dường như những vết thương chiến trường, tù ngục còn trên thân xác không làm cho anh đau đớn bằng vết thương trong lòng. Nỗi đau của một người đã hiến đời cho binh nghiệp mà giữa đường phải đành vất cung bẻ kiếm. Bây giờ anh sống lặng lẽ ở một nơi gần thành phố San Jose, làm thơ Hoa Tâm, nghiên cứu về Thiền và Phật học. Còn lại, những đồng đội khác, hoặc đang sống lê lết khốn cùng ở đâu đó bên quê nhà với thương tích trên người, hoặc lưu lạc muôn phương, một số đã hy sinh, xác thân nằm ở một nơi nào đó, giữa núi rừng Kontum này, hay hoang lạnh trong các nghĩa trang, đã dời đi hoặc bị san bằng, nhưng có lẽ hồn thiêng vẫn còn phảng phất đâu đây. Tôi đốt hết bó nhang còn lại chia cho anh em. Chị bạn gái của anh Bình cũng xin được chia phần. Chúng tôi đứng nghiêm khấn vái bốn phương trời. Cầu nguyện hồn thiêng của những đồng đội cũ được sớm siêu thoát trên chốn vĩnh hằng, và xin tất cả tha lỗi cho chúng tôi, những người còn sống nhưng đã không trả được – dù chỉ một phần nhỏ nào - món nợ máu xương cho họ.

Suốt đêm hôm ấy không ngủ được, chúng tôi nằm kể lại bao nhiêu chuyện vui buồn trên chiến trường xưa, nhắc lại từng tên, từng khuôn mặt bạn bè. Chúng tôi cũng tranh luận thật nhiều về cuộc chiến đã qua và những cái chết của đồng đội mà thấy lòng nặng trĩu những đau buồn với bao điều tức tưởi.

Sáng hôm sau, chị chủ quán, bạn gái anh Bình, mời chúng tôi ăn sáng rồi tiễn chúng tôi ra đầu cầu Dakbla. Chị đứng yên lặng không nói một lời gì. Nhìn những giọt nước mắt chảy dài trên má chị, trong lòng chúng tôi có lẽ ai nấy cũng đang giữ riêng một nỗi ngậm ngùi. Nhìn dòng sông Dakbla chảy ngược qua cầu, tôi có cảm giác như lòng mình cũng đang chảy ngược về những nơi nào đó, những chiến trường xưa, mà mãi mãi vẫn còn in bóng dáng hào hùng của bao nhiêu bè bạn, anh em - những người đồng đội cũ. Tất cả đã từng có một thời sống rất đáng sống.

Bố và tôi

Phạm xuân Quang

Tôi sinh ra là một người Việt Nam tại một bệnh viện cổ của Pháp sáu tháng trước khi Tổng Thống Lyndon B. Johnson gởi hàng ngàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đến đất nước tôi... Tôi vẫn có thể tìm nơi sinh quán của tôi trên bản đồ. Tuy nhiên bây giờ nó đã bị đổi tên, với một cái tên quái dị, kỳ lạ, Thành Phố Hồ Chí Minh. Cái tên Saigon đã bị cưỡng đoạt. Nhưng nó vĩnh viễn không bị mất, tôi có thể cho mọi người biết lý do tại sao, mà không khỏi nghẹn ngào. John F. Kennedy đã từng nói, “Chiến thắng sẽ có 100 người cha thừa nhận và thất trận luôn luôn là kẻ mồ côi.” Như là một đứa trẻ mồ côi một nửa, tôi tự bằng lòng với chính tôi, Vietnam vẫn tồn tại trong tôi bao lâu mà tôi vẫn còn sống, và tình yêu của tôi cho nước Mỹ, một người Việt Nam đối với Hoa Kỳ, và bây giờ là quê hương của tôi.

Khi tôi được hai mươi tuổi, tôi trở thành người Mỹ bởi sự lựa chọn. Thật ra tôi chỉ là một sản phẩm phụ, hiện hữu bởi sự thất bại của chính sách Hoa Kỳ ủng hộ một chế độ làm tiền đồn để bảo vệ Á Châu. Tôi vẫn có thể giữ thẻ xanh và trở thành thường trú nhân như một số ít người không muốn trở thành công dân Mỹ. Nhưng tôi biết nếu muốn gia nhập quân đội Mỹ tôi phải là công dân của nước này. Ngay từ bé giấc mơ của tôi khi lớn lên tôi sẽ trở thành một phi công như bố tôi. Tôi cũng không ngờ để theo đuổi giấc mơ này, đã giúp tôi trả ơn việc trở thành công dân Mỹ và tìm hiểu được sự thật về nghĩa vụ của bố tôi trong cuộc chiến dai dẳng. Bố tôi một lần đã viết: “Có lẽ số phận ngẫu nhiên, con đã ở cùng một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến mà bố thường bay để yểm trợ và đã cứu thoát bố trong những ngày đầu của cuộc chiến.”
...

Ðây chỉ là một câu chuyện đơn giản của một đứa trẻ tị nạn lớn lên không cha và trở thành lẫn lộn vì nỗi nhung nhớ quê hương. Sôi nổi vì những tiếng gọi nghĩa vụ quê hương ngay cả trước khi chào đời, đứa bé được đưa vào giấc mộng của người Mỹ, mặc dầu phải trải qua những kỳ thị và những chướng ngại. Tuy nhiên sau cùng người thiếu niên này nhờ người bố thân yêu, một người lúc nào cũng dấn thân cho danh dự mà không hề đòi hỏi một sự đền bù và người thiếu niên này đã tìm được những hòa đồng.

Năm 1975, một tuần lễ trước khi quân Bắc Việt tràn ngập Saigon, mẹ tôi và ba người em gái của tôi và tôi đã đào thoát ra khỏi Vietnam. Quê hương tôi tan vỡ ra từng mảnh; hy vọng một quốc gia hoàn toàn có tự do đã trở thành vô vọng. Không hề đoán được trước là gia đình tôi trở thành một trong số hàng ngàn gia đình có thân nhân là tù nhân chiến tranh.
...

Sau cùng nỗi lo sợ kinh hoàng của chúng tôi khi rời khỏi Vietnam đã chấm dứt. Bố tôi đã bị Cộng Sản cầm tù sau khi chiến tranh kết liễu: Ông bị lên án hơn mười hai năm tại các trại tù - sau khi ông được lệnh đi trình diện học tập chỉ có ba mươi ngày. Sau khi đã lắng nghe hay giả vờ lắng nghe sự tẩy não của Cộng Sản (có mỹ từ là “cải tạo”) trong vài tháng, ông đã trải qua những năm tháng còn lại trong các lao tù khổ sai đương đầu với tất cả các chứng bệnh phù thũng, kiết lỵ, sốt rét, đói khát, đánh đập và gần kề với tử thần. Ông ta và những người cùng một thế hệ lầm tưởng Hoa Kỳ sẽ sát cánh với họ mãi mãi. Bố tôi đã phục vụ hai mươi mốt năm trong quân ngũ của miền Nam sau Ðệ Nhị Thế Chiến gần hết tuổi thanh xuân của ông. Nhưng khi ông đến được bến bờ tự do tại đây, ông chẳng bao giờ nhận được một sự chào đón chân thành, nói chi đến những quyền lợi cựu chiến binh hay hưu dưỡng.
...

Khi bố tôi qua đời năm 2000, những người bạn đồng ngũ của ông xuất hiện đông đủ để tiễn biệt ông, cũng như những người bạn Thủy Quân Lục Chiến của tôi. Buổi chiều khi tôi đọc bài điếu văn đó là giây phút khó khăn nhất trong đời tôi: Tôi đã mất đi người bố thân yêu lần thứ hai trong đời. Tôi đứng khẽ động đậy dưới ngọn đèn của nhà quàn, đưa mắt nhìn về phía cuối phòng những người đồng đội già của bố tôi, nay không còn trong quân ngũ. Những người đã từng phục vụ chung trong phi đoàn với bố tôi hay cùng sống qua các trại cải tạo: Bao, Hoi, Thanh, Tien, Tri, Xuong, và nhiều người khác nữa. Họ đã phủ lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ lên quan tài của bố tôi. Tôi đọc bài điếu văn bằng Anh ngữ. Tôi đã chểnh mảng với tiếng mẹ đẻ của tôi quá lâu để có thể kể lể một cách trau chuốt về cuộc đời và sự nghiệp của bố tôi.
...

Bố tôi đã làm điều gì để ông xứng đáng cho những danh dự đó? Tại sao những người cựu quân nhân này phải bận tâm với những nghi thức quân đội? Rốt cuộc, quê hương của bố tôi đã mất cũng như những người lãnh đạo- những người được coi là đảm lược và giỏi giang nhất- là loạt người đầu tiên đã đào thoát ra khỏi Saigon, mang theo cả vợ con. Chỉ trong vòng năm mươi lăm ngày trong Mùa Xuân 1975 khi một đạo quân gồm một triệu người đã tran rã hàng ngũ một cách nhanh chóng. Ðổ lỗi cho Hoa Kỳ? Ðiều này đã từng làm, và nhiều người miền Nam vẫn tiếp tục đổ lỗi cho người bạn đồng minh. Vết thương này vẫn chưa được hàn gắn từ hàng chục năm nay trên đất nước này. Sự tháo chạy của một đồng minh?
...

Ngày 27 tháng 4 , năm 1964, bố tôi, lúc đó là trung úy không quân Phạm Văn Hòa, đã bị bắn hạ trong một phi vụ yểm trợ cho một cuộc hành quân trực thăng vận quy mô điều khiển bởi cố vấn Mỹ trong cuộc chiến bí mật của họ. Ðược cứu sống và tập trung vào binh nghiệp của ông, ông tiếp tục tung hoành trên bầu trời miền Nam thêm một thập niên nữa, cho đến khi sự may mắn của ông cũng như bao nhiêu người đồng hương khác, không còn nữa. Hơn mười hai năm cay đắng, thật ra là cả hết cuộc đời của ông, bố tôi đã trả một cái giá quá đắt của những người thất trận. Những tên cai ngục Bắc Việt đã mạt sát bố tôi bằng vô số những danh từ không ái quốc, phản bội, nợ máu, tay sai đế quốc, không tặc, và đánh thuê rẻ tiền. Chúng áp buộc bố tôi phải viết những bản tự thú nhìn nhận những tội phạm đã liên kết với chính phủ Saigon. (Những người đồng minh cũ của bố tôi và guồng máy truyền thông, báo chí Mỹ, một khi an bình trở về Hoa Kỳ, đã vẽ lên một hình ảnh tiêu cực là miền Nam tham nhũng, bất tài, một xã hội đen không xứng đáng để yểm trợ.)
...

Tôi vẫn ao ước bố tôi vẫn còn sống. Ông từ trần vỏn vẹn tám năm sau khi rời khỏi Việt Nam. Tất cả những điều này, và mặc dầu đôi lúc ông nghĩ rằng Hoa Kỳ đã bội phản ông. Nhưng không vì đó mà ông sẽ vắng mặt trong cuộc lễ khánh thành Tượng Ðài. Ông đã chiến đấu bên cạnh những người lính Hoa Kỳ tại Việt Nam và bố tôi hãnh diện về điều này.
...

Tôi chẳng bao giờ nhìn lại quá khứ và sẽ không bao giờ. Phải mất ba mươi năm tôi mới có câu trả lời cho những thắc mắc của tôi. Hoa Kỳ đã cho gia đình tôi một cơ hội làm lại cuộc đời lần thứ hai trong tự do và thanh bình và cơ hội mọi người thông cảm lẫn nhau trở lại; bố tôi và những người bạn tù của ông ta sẽ không bao giờ bị quên lãng. Ơn nghĩa ấy chúng tôi vẫn canh cánh bên lòng. Và đó là câu chuyện của hai bố con tôi.

Phạm Xuân Quang

26 thg 4, 2010

Hãy Chụp Giùm Tôi

Trần Văn Lương

Đừng khoe tôi, hỡi
người bạn tài hoa,
Những tấm ảnh mang ra từ địa ngục,
Nơi bạn mới về rong chơi hạnh phúc,
Dù bao người vẫn tủi nhục xót xa.

Đừng khoe tôi hình ảnh một quê nhà,
Mà bạn nghĩ
đang trên đà "đổi mới",
Những thành thị xưa hiền như bông bưởi,
Nay bỗng dưng rã rượi nét giang hồ.

Đừng khoe tôi những cảnh tượng xô bồ,
Những trụy lạc giờ vô phương cứu chữa.
Đất nước đã từ lâu không khói lửa,
Sao rạc rài hơn cả thuở chiến chinh.

Đừng khoe tôi những yến tiệc linh đình,
Những phố xá ngập phồn vinh giả tạo,
Nơi thiểu số tung tiền như xác pháo,
Khi dân nghèo không muỗng cháo cầm hơi.

Đừng khoe tôi cảnh tụ họp ăn chơi,
Của những kẻ đã một thời chui nhủi,
Bỏ tất cả, trong đêm dài thui thủi,
Ngược xuôi tìm đường xăm xúi vượt biên.

Đừng khoe tôi những con phố "bưng biền",
Những quảng cáo, những mặt tiền nham nhở,
Những khách sạn ánh đèn màu rực rỡ,
Trơ trẽn bày, dụ dỗ khách phương xa.

Đừng khoe tôi chốn thờ phượng nguy nga,
Những dinh thự xa hoa nằm choán ngõ,
Những màu sắc lam, vàng, đen, tím, đỏ,
Đang uốn mình theo gió đón hương bay.

Đừng khoe tôi ảnh Hà Nội hôm nay,
Thành phố đã chết từ ngày tháng đó,
Khi bị ép khoác lên màu cờ đỏ,
Khi triệu người phải trốn bỏ vô Nam .

Đừng khoe tôi những cảnh tượng giàu sang,
Đã được bạn tóm càn vô ống kính,
Những hình ảnh mà kẻ thù toan tính,
Muốn tung ra để cố phỉnh gạt người.


Bạn thân ơi, sao không chụp giùm tôi,
Nỗi thống khổ của triệu người dân Việt,
Nửa thế kỷ trong ngục tù rên xiết,
Oán hờn kia dẫu chết chẳng hề tan.

Chụp giùm tôi đàn thiếu nữ Việt nam,
Thân trần trụi xếp hàng chờ được lựa,
Hay bầy trẻ mặt chưa phai mùi sữa,
Bị bán làm nô lệ ở phương xa.

Chụp giùm tôi đôi mắt mẹ, mắt cha,
Mà suối lệ chỉ còn là máu đỏ,
Khóc con cháu ra đi từ năm đó,
Biển dập vùi, đà tách ngõ u minh.

Chụp giùm tôi số phận những thương binh,
Đã vì nước quên mình trên chiến trận,
Mà giờ đây ôm hận,
Tấm thân tàn lận đận giữa phong ba.

Chụp giùm tôi hình ảnh những cụ già,
Bọn đầu nậu gom ra đường hành khất,
Để đêm đến, nộp hết tiền góp nhặt,
Đổi chén cơm dầm nước mắt nuôi thân.

Chụp giùm tôi xác chết những ngư dân,
Bị Tàu giết bao lần trên biển rộng,
Hay những chiếc quan tài chưa kịp đóng,
Chở cha, anh lao động Mã Lai về.

Chụp giùm tôi thảm cảnh những dân quê,
Chịu đánh đập chán chê dù vô tội,
Hay cảnh những anh hùng không uốn gối,
Gánh đọa đày trong ngục tối bao la.

Chụp giùm tôi mốc biên giới Việt Hoa,
Lấn vào đất của ông cha để lại,
Hay lãnh thổ cao nguyên còn hoang dại,
Lũ sài lang hèn nhát lạy dâng Tàu.

Chụp giùm tôi những nghĩa địa buồn đau,
Chúng tàn phá, chẳng còn đâu bia mộ.
Kẻ sống sót đã đành cam chịu khổ,
Người chết sao cũng khốn khó trăm đường.

Hãy chụp giùm tôi hết những tang thương,
Hình ảnh thật một quê hương bất hạnh,
Nơi mà bạn, xưa đêm trường gió lạnh,
Đã căm hờn quyết mạnh dạn ra khơi.

Chiếc thuyền con, ca nước lã cầm hơi,
Mạng sống nhỏ đem phơi đầu sóng dữ.
Rồi tha phương lữ thứ,
Tháng năm dài, quá khứ cũng dần phai.

Lòng người chóng nguôi ngoai,
Tháng Tư đến, có mấy ai còn nhớ!

Vĩnh biệt Sài Gòn (L' Adieu A Saigon)



Jean Lartéguy

LTS: L’Adieu À Saigon – Vĩnh Biệt Sài Gòn – của Jean Lartéguy có lẽ là cuốn sách đầu tiên được viết bằng ngoại ngữ, nói về cái chết của nam Việt Nam sau ngày 30/04/1975. Ông là một nhà văn-nhà báo nổi tiếng của Pháp, tác giả của gần 20 tác phẩm, hầu hết đều nói về chiến tranh, khi thì tại Á châu, khi thì thuộc khu vực Trung Đông.( Les Centurions)

Từ căn phòng quen thuộc của khách sạn Continental, Lartéguy ghi lại từng giờ, từng phút hấp hối của Sài Gòn.
Theo Phạm Kim Vinh, “Vĩnh Biệt Saigon là lời đoạn tuyệt của Jean Lartéguy cựu sĩ quan thuộc địa, của Lartéguy thực dân, của nhà văn Lartéguy bị nhiễm độc vì làn sóng khuynh tả lãng mạn của một thế giới hèn nhát trốn tránh sự thật với một Lartéguy phản tỉnh của mùa hạ 1975.
Hơn thế nữa, Vĩnh biệt Saigon chính là lời thú tội và chuộc tội của Jean Lartéguy.
Tháo chạy khỏi Sàigòn trên nóc cao ốc USAID đường Gia Long.AFP
Sau hết, Vĩnh biệt Saigon là lời sám hối của Lartéguy trước cái chết của hàng trăm ngàn người VN trong chiến tranh VN mà Lartéguy đã gián tiếp gây ra trong một thời kỳ đen tối của một kẻ cầm bút lâu năm, quá nửa đời người còn ngu dại để trở thành con mồi chính trị cho một chủ nghĩa man rợ.”
Ta hãy đọc “lá thư tình” của Jean Lartéguy qua các trích đoạn từ bản dịch của Phạm Kim Vinh ấn hành năm 1979 tại California._

27/05/1975
Màn đêm vừa buông xuống Saigon và khép kín luôn cả 25 năm của đời tôi tại đó. Tôi đặt chân đến Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi bị đuổi khỏi thiên đường ấy vào ngày 28 tháng Năm, 1975. Cái thành phố từ đó tôi bị xua đuổi không còn cái tên Saigon nữa. bây giờ tên nó là Hồ Chí Minh. Mỗi ngày thành phố ấy lại càng thêm xa lạ với tôi. Tôi thấy không còn gì để làm ở đó nữa.
Còn thành phố kia, thành phố mà tôi hằng yêu dấu thì đã chết khi các xe tăng Nga chở các toán lính Bắc Việt phá tung cánh cửa sắt của Dinh Tổng thống. Ba người hoả tinh từ Hanoi tới, dáng nhỏ bé, mặc đồng phục xanh, nón lá trên đầu, hông mang súng. Họ làm như vẻ đọc bản án trục xuất tôi vì những “bài báo” của tôi. Họ không biết rằng tôi đã quyết định sẽ đáp chuyến bay ngày mai và tôi không muốn dùng dằng hơn nữa bên giường một người chết. Tôi đã bắt tay họ như bắt tay những người làm xe đòn sau khi họ đã làm xong bổn phận.
Đây không phải là một cuốn sách. Có lẽ một ngày nào đó, tôi sẽ viết cuốn sách ấy. Đây chỉ là lời vĩnh biệt Saigon.

Ngày 26/04/1975
Đêm nay, dường như Tổng thống Thiệu đã bay đi Đài Loan….. Tờ Courier D’ Extrême Orient chạy dài 8 cột trang nhất: “Tổng thống Pháp Giscard D’Estaing nói chuyện điện thoại với đại sứ Pháp tại Saigon.”
Ngoại trưởng Pháp tuyên bố: “Hy vọng một giải pháp chính trị vẫn còn có thể có được.”
Chỉ còn một mình tướng Dương văn Minh chạy ở cuộc đua chính trị tại Saigon. Nhưng vì Tổng thống Trần Văn Hương mới cầm quyền được 5 ngày, do đó ông ta muốn ngồi ở ngôi cho đủ một tuần đã. Ngài tổng thống đề nghị cho Minh Cồ giữ chức Thủ tướng có toàn quyền, nhưng Minh Cồ từ chối.
Tướng Kỳ, đối thủ bất hạnh của Thiệu, viên phi công mặc bộ đồ phi hành huy hoàng tái xuất hiện. Ông ta ở đâu ra vậy? Kỳ tuyên bố ủng hộ tướng Minh. Theo ông ta thì cần có một chính phủ mới để lấy lại lòng tin của dân và đề ra một kế hoạch để đạt cuộc ngưng bắn. Ông ta sẽ cùng với một số tướng lãnh, “những viên tướng giỏi nhất của miền nam”, tìm cách ổn định tình hình quân sự.
Đệ nhất phó thủ tướng (chắc đó là tướng Trần văn Đôn), kiêm tổng trưởng quốc phòng đã ra những biện pháp cương quyết để trừng phạt những công dân nào tìm cách trốn ra khỏi nước.
Biện pháp nào bây giờ? Ai sẽ thi hành? Chẳng còn gì nữa. Quân sự thì rối loạn và chính trị thì trống rỗng. Tướng Đôn thì chẳng có gì để mất mát nhiều. Sanh tại tỉnh Bordeaux, ông ta là dân Tây. Và mặc dầu ông ta đã đốt giấy thông hành và đốt cặp lon quân đội Pháp để làm đẹp lòng ông Diệm và bà Nhu, nhưng ông ta biết là không thể mất cái quốc tịch Pháp. Những trò hề!
Tình hình quân sự tuyệt vọng. Người Mỹ di tản nhân viên và những người Việt thân tín của họ một cách thanh thản như thể họ có rộng rãi ngày giờ.
Cảm thấy bị người Mỹ bỏ rơi, người dân nam Việt Nam và nhất là người dân Saigon, theo linh tính, hướng về người Pháp…. Ở khắp nơi cờ Pháp bắt đầu bay. Người ta sơn mầu cờ Pháp trên mái nhà, trước cửa tiệm. Đối với các tờ báo còn phát hành, người ta gọi cộng sản là phiá bên kia và người ta đành hy vọng một cuộc ngưng bắn.
Tôi nhậu với một đại tá VN, trước phục vụ tại một đơn vị nhảy dù, bây giờ phụ trách báo chí tại bộ Tổng tham mưu. Tôi hỏi:
“Ngày mai, ông làm gì? Chúng ta có thể gặp nhau được không?”
“Tôi bận lắm, không thể gặp ông. Tôi phải lo để đưá con tôi đi ngoại quốc.”
Chính ra là ông lo chuyến đi của ông.
Đồng thời với chuyện nhậu whisky để nói chuyện lập chiến khu, ông ta chuẩn bị chuồn.
.......
Ngày 27/04/1975
3 giờ 30 sáng. Tôi thức giấc vì những trái hoả tiễn nổ làm rung chuyển thành phố. Một trái nổ quá gần. Tôi không thể ngủ lại được. ….
Trong buổi sáng ngày 27 tháng Tư này, tin tức đưa về càng ngày càng tồi tệ. Sư đoàn 18 giữ Xuân Lộc đã phải rút và bị tan rã. Sư đoàn 5 cũng vậy. Để bảo vệ Saigon, chỉ còn có một sư đoàn, vài đơn vị Dù… và một số lính tự vệ chiến đấu Hố Nai. Quốc hội nhóm từ sáng nay. Thảo luận 10 giờ, nhì nhằng để rồi xác nhận tín nhiệm Tổng Thống Trần Văn Hương, mời ông ta nếu cần, chỉ định một nhân vật để thay thế ông đạt tới “một nhiệm vụ hoà bình trong danh dự và trong phẩm cách và với sự chấp thuận của Quốc Hội”…. Nhân vật ấy chỉ có thể là Dương văn Minh. Danh dự và phẩm cách đáng kể gì khi cộng quân đã ở cửa ngỏ Saigon.
Các tướng trình bày tình hình. Có mặt tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, Trần Văn Đôn, tổng trưởng quốc phòng, ông tổng trấn Saigon và ông tư lệnh cảnh sát. Tất cả đều nói rằng đã hết cả rồi, rằng những đơn vị cuối cùng đã bị bao vây và chạy tan nát, rằng cần phải thương thuyết với bất cứ giá nào và thật sớm. Nhưng Quốc hội lại không chịu nhận Minh Cồ vì ông ta không phải là người của bọn họ. Trần Văn Đôn lại can thiệp lần nữa. Anh chàng dân Tây ở xứ Bordeaux ấy giữ vai trò phát ngôn cho nước Pháp và bênh vực chính sách của đại sứ Pháp Mérillon. Đôn rất gắn bó với viên đại sứ ấy.
Đôn thắng. Toàn quyền được trao cho tướng Minh. TT Hương chống cây gậy rời ghế. Đã gần như mù, ông vấp phải một bậc thềm.
Minh cùng với Vũ Văn Mẫu trở về nhà để sửa soạn lập chính phủ. Sau cùng, giờ của Minh đã điểm, nhưng đã trễ quá rồi. Trễ cho Việt Nam, trễ cho nước Pháp và nước Pháp đã ngây thơ hy vọng rằng có thể đóng vai trò trung gian qua Minh.
Trước khi đi ngủ, tôi đọc mục điểm báo Việt Nam bằng Pháp ngữ. Có lúc, tôi thấy cần phải dụi mắt. Tờ Tiền Tuyến chạy dài tám cột: “VN Cộng Hoà sẽ không bao giờ đầu hàng cộng sản chừng nào quân đội vẫn còn đó và vẫn còn sự ủng hộ của nhân dân… Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc mít tinh quy tụ 10,000 người rằng các lực lương của VNCH vẫn còn mạnh và sẽ mang lại hoà bình trong danh dự cho xứ sở.”
Tờ Chính Luận: “Không có chuyện thương thuyết đầu hàng.”
Đêm sẽ còn dài.

Ngày 28/04/1975
Thế là rốt cuộc Minh Vồ cũng lập được chính phủ của ông ta. Thực ra thì cái chính phủ ấy chỉ có hai người: Ông Nguyễn Văn Huyền, một người Công giáo ôn hoà, sẽ là Phó Tổng thống và ông Vũ Văn Mẫu, nghị sĩ theo đạo Phật, sáng lập viên của Mặt Trận Hoà Giải, sẽ là Thủ tướng.
Trễ quá rồi. MTGP vừa từ Paris cho biết (dường như cái Mặt Trận ấy chỉ có ở Paris) sẽ không nói chuyện với chính phủ của tướng Minh.
Sáng nay Saigon sao yên tĩnh lạ!
Nhiều chiến sĩ của một Lữ đoàn Dù đang bố trí trong thành phố, sau các bức tường. Những người lính này không chán nản, không tuyệt vọng. Họ bình thản điều động như lúc thao dượt. Đôi khi họ cười vui vẻ và chuyền cho nhau những chai coca. Nhưng họ không nuôi một ảo tưởng nào về số phận của họ hoặc về kết quả của trận đánh cuối cùng này. Tôi có cảm tưởng họ quyết định đánh đến cùng và quyết định sẽ tự chôn dưới những đống đổ nát của Saigon. Và họ vẫn còn giữ được các cấp chỉ huy của họ. Một trong những cấp chỉ huy ấy là một đại tá, trông dáng mệt mỏi và tuyệt vọng. Tôi đã từng cùng ông ta và vài người bạn ăn Tết năm 1971. Lúc đó ông biết là sắp tham dự cuộc hành quân vượt biên giới Lào để cắt đường mòn Hồ Chí Minh và ngay tối hôm đó, ông ta đã không nuôi ảo tưởng về kết quả trận đánh.
Ông đưa cho tôi một hộp la-de. Tôi hỏi:
« Tình thế ra sao? »
« Chúng tôi sẽ chiến đấu và có lẽ, chúng tôi là những người cuối cùng còn chiến đấu. Nên nói rõ là chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh. Thiệu là đồ bỏ, Hương là bù nhìn, còn Minh là kẻ quá mềm yếu, cứ đứng một chỗ mà phụng phịu, thay vì dùng sức mạnh để lật đổ Thiệu…. Những kẻ sắp tới sẽ không để cho chúng tôi suy nghĩ theo ý riêng….Những con cá bự đã chuồn rồi. Chúng tôi là cá nhỏ nên kẹt trong rọ… »
Tân Sơn Nhất cháy. Biên Hoà thất thủ. Lửa cháy lớn, sánh rực ban đêm.
Cuối cùng vào lúc 22 giờ 51, lệnh di tản bằng trực thăng được ban ra. Ám hiệu là Option 4.
Tại Mỹ bộ trưởng quốc phòng Schlesinger nhân dịp này ca ngợi quân lực Mỹ: « Ở chiến trường, các bạn là những người chiến thắng, các bạn đã rời sa trường trong danh dự. Viêt Nam sụp đổ vì những áp lực nặng từ bên ngoài, nhưng các lực lượng Mỹ đã cho VN một cơ hội phải chăng để sống sót. » Kissinger thì nói: « Chúng tôi hy vọng người Bắc Việt sẽ không tìm một giải pháp tuyệt đối bằng phương tiện quân sự. Họ đã đổi thái độ, và chúng tôi vẫn không hiểu tại sao. »
Cơn hấp hối của Saigon bắt đầu. Sau bao nhiêu, bao nhiêu ngày nữa nó mới chết?
Ngày 29/04/1975
Giới nghiêm trong 24 giờ để người Mỹ di tản số người Mỹ sau chót (chừng một ngàn người) và hàng chục ngàn người VN được người Mỹ hứa hẹn cho đi theo.
Cuộc bàn giao quyền hành ngày hôm qua: lại một màn hát bội vụng về....
Trực thăng không ngừng đáp xuống và cất cánh tại sứ quán Mỹ. Trước cửa sứ quán, người Mỹ và một số người Việt được họ chọn lựa vứt bỏ xe hơi của họ cho những người bất lương xâu xé. Có cả trăm cả ngàn đang xô nhau trước tấm cửa sắt có lính Thuỷ quân Lục chiến canh giữ. Một người đàn bà khóc trong khi nhiều người mổ xẻ chiếc Mercedes của bà. Bà ta cứ nói đi nói lại: “Thế mà tụi nó hứa sẽ cho chúng tôi đi.”...
11 giờ chúng tôi lái xe tới Tân Cảng.
Thời tiết càng lúc càng nóng. Đàn ông, đàn bà, trẻ con mình đầy bùn, chui qua những rào gỗ có mắc kẽm gai… Họ lội bùn để chui vào những kho hàng Mỹ. Các bà già răng đen bắt đầu ngồi xổm, dạm bán những món hàng vừa mới vồ được, bán để lấy những tờ giấy bạc từ nay trở thành vô dụng!...
Một phái đoàn chính phủ do phó TT Nguyễn Văn Huyền hướng dẫn (ông được Minh Cồ ủy thác thương thuyết) đã tới trước hàng rào kẽm gai căn cứ Tân Sơn Nhất. Bọn cộng sản không tiếp. Chúng không muốn bàn cãi nữa: chúng chỉ nhận sự đầu hàng vô điều kiện.
Graham Martin đến thăm xã giao đại sứ Pháp. Lý do chính là để từ biệt. Và để tặng đại sứ Pháp món quà Mỹ: chiếc xe Cadillac lộng lẫy màu đen. Đại sứ Pháp có lẽ chẳng cần đến món quà ấy nữa. Nhưng Martin mãi tới 3 giờ 30 sáng hôm sau mới ra đi, sau khi bất lực chứng kiến tai hoạ: tai hoạ vì chính sách của ông ta, tai hoạ cho VN.
Nguyễn Cao Kỳ, con người chủ trương “đánh tới cùng” cũng ra đi trên chiếc trực thăng riêng của ông ta. Ông ta nguyền rũa Thiệu vì ít ra, khi chuồn, Thiệu cũng còn có thời gian mang theo nhiều hành lý.
Súng bắn ở khắp nơi.
Đêm chót ở Saigon là đêm điên loạn. Chung quanh thành phố những cây xăng bốc cháy, khi đạn nổ tung. Lúc đáp xuống các mái nhà, trực thăng mở đèn chiếu trông như đôi mắt của những quái vật gớm ghiếc đang tìm mồi.
Tù nhân chính trị đã được trả tự do. Tù thường phạm cũng nhân dịp này trốn luôn. Họ chỉ cần cúi xuống thì sẽ lượm được ngay một vài cây súng. Và những phần tử ghê gớm ấy đã tự võ trang cùng mình….
Saigon không hấp hối. Sau khi đã trút hết chất liệu, Sai gon đang rẫy chết trong thối nát, giữa các đám cháy và cướp bóc. Những kẻ may mắn đã chuồn nhờ các trực thăng của Mỹ. Những người khác thì lo trốn. Có những người thiểu não từ Tân Sơn Nhất trở về. Đó là nơi lại bị hoả tiễn rót vào….
Và chúng tôi, những nhân chứng bị bó tay, phẫn uất. Chúng tôi là những người đã từng yêu dấu thành phố này mà chẳng làm được gì để giúp nó. Saigon bắt đầu sám hối vì những sự mất trật tự, vì sự ưa kiếm chác, vì những quán rượu, những ổ điếm, vì những sòng bạc, vì những đêm điên loạn, vì những cơn mê. Và cũng vì những lúc say mê của trìu mến và của nhiệt tình. Và cái tinh thần độc lập đã từng đôi khi biến cái thành phố này thành một nữ chúa của tự do.
Vì Saigon đã bị kết án tử hình.
Chúng tôi vừa được biết tin ấy. Đài phát thanh của MTGP nghe được ở Tân Gia Ba tuyên bố rằng tên của Saigon từ nay là Hồ Chí Minh. Tên của một người chết. Cái tên ấy không thích hợp với thành phố này.
Tôi trở về phòng. Đại bác 130 ly đã im tiếng. Và hoả tiễn không nổ nữa. Nhưng còn em nhỏ kia đang làm gì? Em đang tắm trong vũng nước lầy ở lề đường, em nhập bọn với những trẻ em trần truồng khác, giỡn chơi dọc theo những bức tường của khách sạn, giống như những con mèo hoang.

Ngày 30/04/1975
Graham Martin và những cộng sự viên cuối cùng đã dùng trực thăng tới mẫu hạm Blue Ridge đang ở ngoài khơi, cách Vũng Tầu 30 cây số.
Mệt mỏi và sầu thảm, ông ta từ chối mọi lời tuyên bố và chui vào phòng riêng. Ông ta còn không mang theo nổi được lá cờ Mỹ như đại sứ Mỹ tại Nam Vang đã làm. Martin bỏ lại cả tấm hình chụp của gia đình Nixon có chữ ký của Nixon tặng.
TT Ford: “Cuộc di tản đã chấm dứt… Cuộc hành quân này đã khép kín một chương trong lịch sử Mỹ.” Henry Kissinger thì cho rằng đây là “một thành công”: di tản được 950 người Mỹ và đưa đi 5,800 người Việt.
Lúc này là 10 giờ 15 sáng. Tướng Minh đọc lời kêu gọi đầu hàng vô điều kiện trên đài Saigon….
11 giờ 30, Long, một đại tá cảnh sát tự bắn vỡ sọ trước bức tượng Thuỷ Quân Lục Chiến đối diện trụ sở Hạ viện. Ông nằm sóng sượt, chiếc nón kết có hoa lá bạc đặt trên ngực. Máu và óc chảy từ bên tai trái ra. Ông vẫn còn thở. Lúc ấy có tiếng sè sè của máy quay phim và máy chụp hình. Một lát sau, ông tắt thở tại bệnh viện Grall.
12 giờ 5 phút, một xe jeep chạy tới đường Catinat, trên xe cắm lá cờ VC lớn, trong khi nhiều xe tăng tới chiếm Dinh Độc Lập. Cờ VC được trưng lên trước tiền đình. Một chiếc T-54 húc tung cánh cửa sắt vì người ta chậm mở cửa, rồi bắn một phát đại bác và vài tràng súng đại liên để thị oai. 14 xe tăng khác theo sau, pháo tháp mở , cành cây cắm đầy xe. Binh lính đội mũ lợp lá theo kiểu mũ thuộc địa, quân phục xanh và đi dép HCM chế tạo bằng võ xe hơi, võ trang bằng tiểu liên AK-47 của Trung quốc, nhẩy ra khỏi xe tăng, chạy vào Dinh.
Trên bao lơn, cờ của chính phủ cách mạng lâm thời được kéo lên. Saigon bị chiếm và không cháy. Chỉ thiếu chút nữa thôi.
Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu và tướng Minh là những diễn viên và cũng là những nhân chứng của những giờ chót của Saigon. Họ kể cho tôi nghe những giờ chót ấy.
Và số phận của Saigon đã được định đoạt trong vài phút của ngày 30 tháng Tư, trong khoảng từ 10 giờ 30 đến 11 giờ sáng….
Không còn chút hy vọng nào để thương thuyết nữa. Hỗn loạn ngự trị ở đường phố và những đơn vị đầu tiên của cộng sản đã vào Saigon. Nhưng ở khắp nơi đều có những ổ kháng chiến, những đơn vị ưu tú bám lấy lãnh thổ.
Gần Lăng Cha Cả, các chiến sĩ Dù đã đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ rưỡi, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ cuộc gặp gỡ đau thương với tướng hoa lan Dương Văn Minh trở về thuyết phục họ từ bỏ cuộc chiến. Họ đã dùng bazooka làm nổ tung 5 xe tăng Nga T-54 nặng 54 tấn. Một chiếc nổ tung cùng với đạn dược trong xe….

Ngày 1/5/1975
Cô gái ngồi ngoan ngoản gần một toà nhà của bệnh viện Grall. Kế bên cô là một chiếc vali còn mới bằng plastic và một chiếc giỏ mây mà ta thấy người Thượng quen dùng. Cô ta mặc áo dài màu đen kiểu của người Thượng nhưng tóc của cô màu hung và nước da trắng: một cô gái Thượng lai Pháp.
Cô ta bao nhiêu tuổi? 18? 20? Làn sóng tị nạn ghê gớm đã cuốn cô ta đi, nhưng cô ta vẫn còn giữ mình nguyên vẹn tới được nhà thương dùng làm nơi tạm trú này, nhà thương có treo một lá cờ Pháp.
Tôi phải đến gần mới nhìn thấy được những giọt nước mắt trên má cô ta. Trong khi đám người tị nạn bên cô ồn ào như đàn ong vỡ tổ quanh những gói đồ ngổn ngang, cô gái im lặng. Những đứa trẻ ngủ gục giữa những người tị nạn. Người ta vừa cho họ biết rằng họ phải trở về nhà. Saigon không bốc cháy. Saigon chỉ đổi chủ thôi…. Cô gái ấy là kết quả của một mối tình giữa một người Pháp và một thiếu nữ người Rhadé. Người cha đã trở về Pháp. Cô làm viêc tại một phòng thí nghiệm của một y viện Mỹ vùng cao nguyên. Người ta đã di tản cô ta cùng với số nhân viên của nhà thương và hứa sẽ đưa cô đi Mỹ. Từ Mỹ, cô sẽ tìm được cách tới Pháp và sẽ tìm được Chalons-sur- Marne là nơi ở của người cha. Nhưng người Mỹ đã ra đi một cách hỗn loạn. Họ đã bỏ rơi cô ta. Cô đã chạy tới bệnh viện Grall vì cô nghe nói đó là nơi trú ẩn của những người có quốc tịch Pháp. Cô gái tưởng mình là người Pháp.
Có hai xác chết nằm bên nhau trong nhà thương Grall. Đó là hai viên tướng nam VN, tự tử bằng thuốc Nivaquine: tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh vùng cao nguyên, và tướng Nguyễn Khoa Nam tư lệnh vùng 4 và quân khu 4….
Tôi vẫn không tin là Saigon vừa mới rơi vào tay những người cộng sản. Đó chỉ là một cơn ác mộng. Ngày mai tôi sẽ tỉnh dậy và nó chẳng có gì xảy ra hết.
6 giờ sáng tôi giật mình thức giấc vì những tiếng hú trong loa phóng thanh truyền đi một thứ nhạc quân hành, xen kẻ là những khẩu hiệu…
Mọi tờ báo đều bị đóng cửa, kể cả tờ Courrier D’Extrême-Orient của người Pháp. Chỉ có một tờ Saigon Giải Phóng in chữ đỏ và hình HCM chiếm hết nửa trang nhất.
Tôi tới nhà MinhCồ. Ông ta chưa được về nhà. Người tài xế của ông cho biết đã nhận được tin của bà Minh, nói rằng ông ta được đối xử tử tế và chắc sẽ được về sớm.

Ngày 3/5/1975
Chúng tôi tới Hố Nai, chiến luỹ của người Công giáo chống Cộng di cư. Một gác chuông nhà thờ chịu hư hại nặng vì đạn đại bác. Vậy là đã có giao tranh ở đây. Tôi ngừng xe và xin gặp Cha sở. Một người đàn bà chừng 40 tuổi đề nghị hướng dẫn chúng tôi tới gặp Cha sở. Tôi hỏi bà ta: “Thưa bà, tình hình ra sao?”
Bà ta cúi đầu: “Con trai tôi và 17 người bạn của nó vừa bị xử bắn. Tôi mới đi chôn chúng nó xong.”
“Câu chuyện xảy ra như thế nào?”
“Chúng nó là tự vệ và chúng nó đánh đến cùng. Chúng nó đứng cả trên gác chuông bắn xuống. Thế là rồi chúng nó bị bắn chết hết.”
Cha sở ngồi yên lặng trên chiếc ghế gỗ, hai tay để trong chiếc áo dòng. Phòng rất rộng, chắc được dùng làm nơi hội họp hàng ngày. Cha sở chừng 60 tuổi. Cha từ Phát Diệm di cư cùng các con chiên. Khi tôi hỏi Cha thì Cha bảo người thông ngôn rằng Cha không biết tiếng Pháp. Ở một góc phòng có một người cầm súng ngồi. Chắc hắn không phải là lính chính quy vì hắn mặc bọ đồ bà ba đen.
“Thưa Cha mọi sự tốt đẹp chứ?”
“Phải.”
Tôi nhấn mạnh: “Thưa Cha, mọi việc bình thường?”
“Phải.”
“Có thể phỏng vấn Cha trước máy thu hình?”
“Không, không được.”
Không hiểu vì sao lúc ấy tên lính gác lại ra ngoài xem có chuyện gì không. Lúc ấy thì Cha sở nói với tôi bằng thứ tiếng Pháp rất giỏi.
“Tình thế của chúng tôi rất ngặt nghèo. Tai hoạ đã giáng xuống đầu chúng tôi. Xin hãy nói với các bạn người Pháp của chúng tôi để họ cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi cần có những lời cầu nguyện ấy. Xin vĩnh biệt.”

Ngày 15/5/1975
Có diễn binh kỷ niệm sinh nhật HCM. Dự trù có ba ngày liên hoan mừng chiến thắng. Biểu diễn các khí giới tối tân của Nga. Lần này có thêm vài đơn vị mặc đồ đen của bưng biền. Một phần trong số đó là người Nam, nhưng tỷ lệ này không bao giờ quá 30 phần trăm. Rốt cuộc tôi tìm thấy cái huyền thoại MTGP trên khán đài danh dự. Bác Thọ, bác Phát và bà Bình “thân mến” những nhân vật quan trọng tại Paris, nhưng ở đây họ đã tụt xuống hàng thứ 11….. Rồi tới vụ đàn áp các ký giả ngoại quốc ở nhà hàng Continental. Vô tuyến viễn ấn và những liên lạc với nước ngoài đều bị cắt đứt. Những hộp phim và những cuộn phim nằm chờ và chất đống ở đó, vô dụng… sau khi đã cấm chúng tôi đi ra ngoài Saigon, kể từ sáng nay, người ta lại cấm chúng tôi cả chụp hình nữa. Hai chuyên viên thu hình của Nhật bị còng tay giải đi vì họ quay phim cảnh đường Catinat. Các ký giả của các nước “anh em” như Nga, Hung Gia Lợi, Đông Đức, Ba Lan và đặc phái viên của AFP từ Hà Nội được gửi tới để chứng kiến vụ diễn hành chiến thắng….

Ngày 29/5/1975
Vĩnh biệt Saigon.
Tôi tới Saigon lần đầu tiên vào năm 1950. Tôi đã yêu dấu Saigon và đã ghét thành phố ấy hai mươi lăm năm. Đó là một cô gái làng chơi tồi tệ, tham lam, ưa khoái cảm, ưa đồ gia vị và ưa những hương thơm ngát, nghe theo người này ngã theo người kia, nhưng không bán mình cho ai. Một thành phố tự do, và bây giờ không còn được tự do nữa.
Màn đêm đã buông xuống thành phố ấy, và buông xuống quãng đời 25 năm lính, ký giả và nhà văn của tôi.
Tôi đã bay trên thành phố ấy lần chót, trong chuyến bay Aeroflot của cộng sản để tới Vạn Tượng….
Saigon ơi vĩnh biệt.

21 thg 4, 2010

“Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm”: Sự thức tỉnh muộn màng

Phạm Đình Trọng

Viết về cuộc chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm đòi hỏi phải có cái nhìn công bằng, khách quan, lí trí, thoát khỏi thân phận công cụ tuyên truyền. Nhà thơ Nguyễn Thái Sơn đã có được cái nhìn đó trong trường ca Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm, tập trường ca vừa được Nhà xuất bản Văn Học phát hành cuối năm 2009.[1]

Những năm sáu mươi, bảy mươi thế kỉ hai mươi, hầu hết đàn ông Việt Nam đã trưởng thành đều mặc áo lính của cả hai bên chiến tuyến, đều là lính của hai đội quân đang đối đầu tiêu diệt nhau, lính quân đội Việt Nam Cộng hòa và lính quân đội Nhân dân Việt Nam khi còn ở miền Bắc, lính quân giải phóng khi vào chiến đấu ở miền Nam. Không là lính, họ là đồng bào, nhiều người còn là họ hàng, anh em ruột thịt. Nhưng chiến tranh hút họ vào lính, đẩy họ thành kẻ thù đối kháng của nhau: Bộ đội nghĩa vụ quân sự / Chọi nhau với lính quân dịch Cộng hòa!

Những học trò vừa tốt nghiệp trung học, những sinh viên đang học dở đại học bị động viên vào lính cầm súng ra trận. Những người lính có chữ đó, nhiều người có năng khiếu văn chương và tâm hồn nhạy cảm đã cầm bút viết về cuộc chiến, viết về thân phận con người, thân phận quê hương đất nước trong chiến tranh và họ đã làm nên đội ngũ nhà văn, nhà thơ quân đội của cuộc chiến tranh đó. Hữu Thỉnh. Nguyễn Trọng Tạo. Trần Mạnh Hảo. Văn Lê. Thái Thăng Long. Chu Lai. Thái Bá Lợi. Trần Nhương. Nguyễn Thái Sơn… Họ đều là bầu bạn thân thiết cùng thế hệ với tôi và tôi đã đọc đầy đủ trường ca của họ viết về cuộc chiến tranh mà chúng tôi là người lính ngoài mặt trận. Phải đến trường ca Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm thì cuộc chiến tranh vẫn được gọi là chống Mĩ cứu nước mới được nhận ra bản chất thực là cuộc nội chiến tương tàn, là bi kịch lớn của dân tộc Việt Nam, là sự tái diễn thảm cảnh đau thương người Việt giết người Việt đã từng xảy ra ở thời những vương triều suy vong: Lính họ Trịnh Đàng Ngoài / Đánh lính họ Nguyễn Đàng Trong / Lính Tây Sơn Nguyễn Huệ / Chém giết lính Nguyễn Ánh Gia Long. Thời công nghiệp, điện tử, chiến tranh không còn chỉ là động tác của cơ bắp chém, đánh như thời Trịnh, Nguyễn, thời Tây Sơn nữa mà là ấn nút, nhấn cò, động tác nhẹ nhàng cuối cùng sau chuỗi những thu nạp dữ liệu, phân tích, tính toán điện tử: Lọat hỏa tiễn rời bệ phóng / Nổ tung trong căn hầm bên trại giặc chen chúc người. Hiệu quả hủy diệt, chết chóc của động tác nhẹ nhàng ấn nút ấy không còn tính bằng hàng đơn vị mà phải tính bằng hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn: Người Việt miền Bắc / Người Việt miền Nam / Mỗi ngày / Bao nhiêu bom đạn / Mấy ngàn người chết!

Trước đó, trường ca viết về chiến tranh của Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo… mới soi rọi vào góc khuất trong đời sống tâm hồn tình cảm của người lính, người mẹ, người vợ, mới khám phá những hoàn cảnh nghiệt ngã, những tâm thế chênh vênh của con người cá thể trong xoáy lốc chiến tranh: Vắng anh, chị bị thừa ra / Trong giỗ tết họ hàng nội ngọai (Hữu Thỉnh. Trường ca Đường tới thành phố). Thử thách với người chồng ngoài mặt trận là bom đạn, còn thử thách với người vợ ở quê lại chính là nhan sắc của chị: Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy / Cứ sợ đắm vì chị còn nhan sắc! (Hữu Thỉnh. Trường ca Đường tới thành phố). Trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh mang rõ dấu ấn của ngòi bút tài hoa và bộc lộ tấm lòng hồn hậu nhân văn của người viết và sự hồn hậu nhân văn ấy dành cho những thân phận cá thể. Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm của Nguyễn Thái Sơn là nỗi bận tâm, nỗi đau đáu cho số phận dân tộc bị xô đẩy vào cuộc nội chiến thảm khốc, lâu dài!

Vì mối quan tâm là số phận cả dân tộc, Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm không có nhân vật cụ thể mà chỉ có hai nhân vật ước lệ: Người đàn ông ra trận và người đàn bà ở lại làng quê. Hai nhân vật ấy như hai cá thể ước lệ cho thủy tổ loài người, ông Adam và bà Eva, như hai ông bà ước lệ cho tổ tiên dân tộc Việt Nam, ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Những tâm trạng sâu kín, những tình cảnh quẫn bách được nhắc đến trong trường ca là cuộc sống không bình thường, trái tự nhiên mà người đàn ông và đàn bà ước lệ phải chịu đựng do họ phải sống thiếu nhau vì chiến tranh. Người đàn ông ngoài mặt trận không phải chỉ khổ vì nằm gai nếm mật, sốt rét, bom đạn mà còn khổ vì: Chúng tôi / Những người lính đàn ông con trai / Mười chín, ba mươi tuổi /… Chúng tôi không e ngại bất kể điều gì / Chỉ khổ vì dư thừa năng lực đàn ông! Nỗi khổ của người đàn bà ở làng quê vắng bóng đàn ông càng âm ỉ thiêu đốt: Những người đàn bà khao khát tình yêu / Da thịt có gai, có lửa /… Những người đàn bà sung mãn / Đêm uống “nước sông” / Ngày ăn “cơm nhạt”! Khao khát mà chỉ có “nước lã”, “cơm nhạt”, chỉ có cuộc sống chay tịnh! Họ phải khỏa lấp sự trống vắng, thiếu thốn, xả nỗi khát khao vào những công việc bất thường, nặng nhọc: Gánh nước nửa đêm tưới đầm vườn nhãn / Xay vài thúng thóc /Giã nửa nong ngô!

Bom đạn khốc liệt! Cái chết đến từng phút từng giây: Không ai từ cõi sinh chìm vào cõi tử / Dễ như người lính / Nhanh như người lính / Nhiều như người lính / Đương nhiên, mặc nhiên, tất nhiên, hồn nhiên như người lính! Chết chóc như thế nên người đàn ông trở thành hồn ma cũng là lẽ đương nhiên: Chúng tôi sống bình thường rồi chết / Chưa xấu cũng chưa kịp tốt / Không thành ma quỉ, chẳng hóa thánh thần / Không phải xuống địa ngục / Không được lên Thiên Đàng / Tụ tán trên tàn cây ngọn cỏ / Ẩn trong giọt sương, tiêu dao trên ngọn sóng!

Người đàn bà lấy chồng ở với chồng được hai đêm: Mười chín năm con gái / Làm đàn bà hai đêm! Người đàn ông thành hồn ma rồi thì người đàn bà đành sống cô quả: Có chồng hai đêm / Chị chỉ là người đàn bà tập sự / Mười năm / Mười lăm năm / Hai mươi mốt năm / Vẫn chỉ sống như thời con gái! Cuộc nội chiến đau lòng như vậy thì đâu có gì để ồn ào khoe khoang, để lỉnh kỉnh huân chương, xênh xang mũ áo phô trương nhỉ?

Người lính miền Bắc mang súng AK, nói tiếng Việt. Người lính miền Nam mang súng AR15, cũng nói tiếng Việt. Hai người lính cùng một tiếng mẹ đẻ Việt Nam mà tìm mọi cách tiêu diệt nhau, mang cái chết đến cho nhau. Cái chết đến từ khẩu AR15: Chùm đạn AR15 bắn gần khoan vào trán / Găm giữa ngực / Những người lính đội mũ tai bèo đổ gục! Cái chết đến từ khẩu AK: Tốp lính Sài Gòn lò dò đặt chân lên sườn đồi / Hứng trọn những lọat đạn AK vào đầu, vào ngực! Người giết và người bị giết đều là người Việt: Người Việt thắng trận huy hoàng / Bại trận / Cũng là người Việt! Người bị giết dù ở phía nào thì người Mẹ Việt Nam vẫn phải nhận lấy nỗi đau chết chóc: Năm Nhâm Tý – bảy hai / Máu binh sĩ Sài Gòn / Máu quân giải phóng / Đỏ sông Thạch Hãn / Ướt sũng gạch vụn Cổ Thành!

Thật đau xót cho thời cuồng tín, mê muội, người Việt say sưa giết người Việt! Đau xót về một thời bi kịch của dân tộc để phải thức tỉnh về nhận thức. Chiến tranh – Chín khúc tưởng niệm là sự thức tỉnh đó. Sự thức tỉnh cần thiết mà muộn màng!

2010 Phạm Đình Trọng

20 thg 4, 2010

Khởi điểm xuất lộ của dân tộc Việt

Lê Văn Xương

Thực ra tôi không phải là người duy nhất nói “Cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Cộng có thể xảy ra bất cứ lúc nào". Mới đây ông Trần thủy Biển, tổng thống Ðài Loan đã tuyên bố y như vậy trước khi lên tiềm thủy đỉnh của hải quân Ðài Loan nhằm xem xét tận mắt các chuẩn bị của Ðài Loan trong việc ngăn chặn một cuộc tấn công của Trung Cộng vào hải đảo này. Cuộc tập trận của Ðài Loan còn được tăng cường hơn nữa bằng việc Ðài Loan đã cho thí nghiệm việc xử dụng các xa lộ làm phi trường tạm cho không quân Ðài Loan trong trường hợp các phi trường của Ðài Loan bị Trung Cộng tàn phá.

Tôi cũng không phải là người thứ nhất nói về việc Trung Cộng sẽ bị phân hóa làm nhiều mảnh. Cách đây khoảng 3 năm, cựu tổng thống Lý đăng Huy của Ðài Loan cũng đã từng viết sách nói rõ là Trung Cộng sẽ bị phân ra làm 9 mảnh. Nhưng vĩ đại hơn hết, thâm sâu hơn hết chính là cụ Lý Đông A cách nay trên 60 năm đã từng viết trong quyển Huyết Hoa nói rõ là: “Trung Cộng sẽ trở về một cuộc nội loạn và ngoại hoạn để có thời gian cho Á Châu sống lại, và Trung Cộng sẽ bị phân rã làm nhiều mảnh”.

I) Ý Đồ Của Trung Cộng Và Hoa Kỳ:

Giờ đây, cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng là Không Thể Tránh Được. Vậy ý đồ thực sự của Trung Cộng là gì?.

Trở lại lịch sử cận đại Á châu, chúng ta thấy thật rõ là: Mao trạch Ðông đã từng chê Tưởng giới Thạch là công cụ của chủ nghĩa thực dân Tây phương, và chỉ có lãnh tụ Mao và đảng Cộng sản Tàu do Mao thành lập mới theo đúng truyền thống Hán tộc là xâm lăng lân bang (bằng chứng là Trung Cộng họ đã chiếm đóng và diệt chủng dân tộc Tây Tạng từ cuối thập niên 1950's) và là chủ nhân ông thực sự của Á châu. Phương Tây muốn gì thì phải nói chuyện với Tàu và chỉ có Tàu mà thôi, còn các nước khác chung quanh Á Châu họ chỉ là chư hầu của Hán tộc, Tưởng thống chế cũng đã tiết lộ như vậy khi họ Tưởng chưa thua chạy ra Đài Loan.

Trước thái độ ngạo mạn như vậy của Mao, Hoa Kỳ giữ thái độ im lặng để chờ cho tình hình diễn biến cụ thể. Hoa Kỳ hiểu rõ là: Mao và những người theo ông ta không thể nào đạt được mục tiêu ấy nhờ vào sự giúp đỡ của Liên Xô (hai nước này là kẻ thù của nhau trong thực tế. Cộng sản Nga vì quyền lợi của Nga và Cộng sản Tàu cũng vì quyền lợi của giới lãnh đạo Tàu, hơn nữa khi Tàu mạnh lên thì sẽ đe dọa trực tiếp an ninh nước Nga) và cũng không thể dựa vào Âu châu khi Âu châu còn lệ thuộc vào Hoa Kỳ về an ninh trong suốt cuộc chiến tranh lạnh. Con đường duy nhất là Mao phải nói chuyện với Hoa Kỳ. Thế là đủ để Hoa Kỳ gài bẫy Mao. Cái bẫy ấy có thể tóm lược như sau: Giúp Mao và những người theo ông ta có cảm tưởng là Hoa Kỳ giúp Tàu thực sự, để Tàu tiến lên trên con đường tư bản hóa hầu hình thành nhóm trung lưu tại Hoa lục (vì nhóm trung lưu này sẽ tranh giành lợi nhuận cá nhân và làm đảng Cộng sản Tàu yếu đi, sách có câu lấy lợi để dụ kẻ tiểu nhân là vậy “Tiểu Nhân Dụ Ư Lợi”), đồng thời cũng tạo ra ấn tượng là Hoa Kỳ không can thiệp vào Á Châu nữa (cuốn sách Inretrospect của ông McNamara là thể hiện rõ ý đồ này và ông Bill Clinton cũng tham gia vào kế hoạch này một cách tuyệt vời). Ðiều này càng khuyến khích Bắc Kinh ngày càng lún sâu vào chủ nghĩa bành trướng Hán tộc. Ðể từ đó, Bắc kinh trở thành căm địch của thế giới, kẻ thù xâm lăng và xâm thực kinh tế của thế giới nói chung và Á Châu nói riêng. Việc này sẽ làm cho tình hình thế giới bị xáo trộn và chiến tranh là không thể tránh được. Bấy giờ, Hoa Kỳ nếu bất đắc dĩ phải ra tay đánh Tàu thì Hoa Kỳ đã có đầy đủ chính nghĩa trong tay.

Mặc dù kế hoạch này được hình thành từng bước một, thì nó cũng đã gây bất đồng với ông De Gaulle tổng thống của Pháp, vì De Gaulle chủ trương dùng Ấn Độ để giữ cân bằng với Trung Cộng. Ðối với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ thì họ nhìn đường lối của De Gaulle cũng chỉ là đường lối của thời kỳ Thực Dân được cải tiến đôi chút, nó không phải là một giải pháp trọn vẹn vì chỉ dựa vào những thỏa hiệp. Vì đến một lúc nào đó, thế giới cũng phải giải quyết vấn đề Trung Cộng và vấn đề Hồi giáo một cách triệt để, không khoan nhượng. Ngoài ra, việc hình thành một thế lực khác là Ấn Độ tại Á Châu, mà mâu thuẫn nội tại trong lòng thế lực ấy cũng không thể coi thường được (xung đột giữa Ấn Độ giáo và Hồi Giáo trong lòng xã hội Ấn Độ). Vì điều này có thể làm bất ổn trong vùng.

Cho nên kế sách của Hoa Kỳ chủ trương kéo dài đến trên 50 năm. Chính con cháu Khổng Minh, Tôn Tử đã trúng kế Hoa Kỳ chứ Hoa Kỳ đời nào chịu trúng kế Bắc Kinh. Thế thua trận của Bắc kinh là tất yếu vì: “Họ không biết mình mà cũng chẳng hiểu người”.

Chính trong kế sách này mà ta chứng kiến biết bao nhiêu nghịch lý trong cuộc chiến Việt Nam. Và nếu ta chịu nhìn sâu trong chiến lược thì chính trong kế sách này mà Hoa Kỳ thả nổi cho tình báo Bắc Kinh và Hà Nội hầu như tự do bành trướng ngay tại nội địa Mỹ; cũng như để cho Bắc Triều Tiên, Pakistan sở đắc các kỹ thuật hạch tâm, hoả tiễn và để cho 2 nước này phổ biến rộng rãi các kỹ thuật nguy hiểm này trên thế giới. Cũng chính kế sách này đã hình thành chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo (phát triển mạnh mẽ sang tận Bắc phi, Ðông Nam Á) và mạng lưới khủng bố Al-Qaeda, để từng bước nhóm quá khích Al-Qaeda tạo ra biến cố 9-11. Hoa Kỳ đã biết trước 3 năm trước khi xảy ra vụ 9-11, (xin tìm đọc cuốc sách Unrestricted Warfare). Nhờ vậy, Hoa Kỳ có cớ chính đáng ra tay để đưa các nước độc tài đảng trị, bọn cầm quyền chuyên chế và loại bỏ bọn hung đồ khủng bố, hầu đưa nhân loại này đi vào “Trật Tự Thế Giới Mới”.

Khi Hoa Kỳ tung quân tiêu diệt nhóm khủng bố Taliban ở Afghanistan và lật đổ chế độ Sadam Hussein ở Iraq, thì nhiều người nghĩ rằng :“Đó là mục tiêu chính trong chính sách ngoại giao của Mỹ”. Nghĩ như vậy là rất sai! Vì Trung Ðông-Hồi giáo là một khối thấp kém về trí tuệ, đầy mâu thuẫn, cực đoan, giới giáo sĩ thì thiển cận, quá khích trong khi giới cầm quyền ăn chơi sa đọa, chỉ lo hưởng thụ trên sự nghèo đói thống khổ của chính dân chúng họ. Cho dù khối Hồi giáo này có quá khích cực đoan đến đâu đi nữa, thì việc khuất phục khối này có thể thực hiện được và Hoa Kỳ cũng đang làm điều này. Vấn đề chính yếu là “thời gian”. Thời gian là yếu tố cần thiết để cho các xã hội mục nát của khối này tự hủy để hình thành một cái mới có thể chấp nhận được đối với thế giới hiện đại. (Sương Mai - Phật, Tinh, Ma trích trong Huyết Hoa).

Sự chiếm đóng Iraq, Afghanistan và ngay cả sự hiện diện quân sự có tính cách tượng trưng trong vùng Trung Á (Uzbekistan chẳng hạn) là nhằm trấn áp vùng Trung Ðông trước tiên, để khi có biến cố lớn xảy ra tại Á Châu thì vùng đầy xáo trộn Trung Ðông này vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát (nhìn về mặt chiến lược). Như thế, Hoa kỳ chấp nhận chiến đấu trên cả 2 trận tuyến, trải dài từ Á Châu Thái Bình Dương đến Trung Ðông.

Như tôi đã trình bầy nhiều lần là: Hoa Kỳ luôn chủ trương giải quyết trọn gói chứ không giải quyết từng việc riêng lẻ và rằng trong cuộc chiến nào cũng vậy, thời gian chuẩn bị của Hoa Kỳ thường kéo dài từ 10 hay 20 năm trước. Ðó cũng là thời gian cần thiết để tích lũy phương tiện, chuẩn bị dư luận, kiện toàn xã hội (tại nước Mỹ và đồng minh), huấn luyện quân đội cũng như phát triển kỹ thuật. Cho nên cuộc chiến hiện tại (đang xảy ra) là một cuộc chiến quyết định cho vận mạng toàn nhân loại về rất lâu dài sau này. Cho nên Hoa Kỳ không thể chùn bước hay nương tay, sự ra tay của Hoa Kỳ lần này sẽ rất khốc liệt, mau chóng và chính xác, “Chiến thắng của Hoa Kỳ và chiến thắng của chính nghĩa Nhân Chủ sẽ là tất yếu”.

Ðối với Trung Cộng thì cảm tưởng của tôi là Tàu chỉ mới nhìn thấy bối cảnh này chưa quá 5 năm (vụ toà đại sứ Tàu ở “Kosovo - Nam Tư” bị ăn hoả tiễn và nhiều vụ khác nữa). Tức là vào thời kỳ tổng thống Bill Clinton bị rắc rối với quốc hội. Khi đó các cao trào chống Tàu trong nội bộ thượng viện Hoa Kỳ (do cánh Cộng Hoà nắm đa số) ngày càng quyết liệt hơn. Nhưng Tàu vẫn hy vọng rằng rồi ra họ có thể trì hoãn được qua các nhượng bộ nho nhỏ nhằm mua thời gian để hiện đại hóa nước Tàu hầu có đủ sức mạnh, khả năng để mà đối đầu thẳng với Mỹ trong vòng 10 hay 20 năm tới, khi dân số Tàu lên đến 2 tỷ người, kinh tế Tàu ảnh hưởng mạnh trên thế giới và đạo quân thứ 5 của Tàu đã lan tràn khắp thế giới, nhất là tại Ðông Nam Á. Còn hiện nay thì chỉ trong trường hợp bất đắc dĩ, Tàu mới phải ra mặt đối đầu trực tiếp với Mỹ. Ðiều này cho thấy đứng về mặt chiến lược mà nói thì Hoa Kỳ đã đẩy Trung cộng vào thế bị động, tức là thế thủ. Như vậy Trung Cộng đã thua Mỹ về mặt tâm lý.

Thế bị động này của Trung Cộng thể hiện rất rõ trong hơn 3 năm qua. Tức là từ ngày tổng thống Bush vô Bạch Cung. Sau biến cố 9-11. Hoa Kỳ đã hủy diệt Taliban, lật ngược thế cờ ở Pakistan và tạo ra mặt trận ở Nam Á với các thế lực đủ sức đe dọa Trung Cộng về phía Tây. Trung Cộng phát triển kinh tế chủ yếu là ở phiá Ðông Nam (Quảng Ðông, Hải Nam, Phúc Kiến,vvv.) Ðiều này tạo ra một sự mất quân bình nghiêm trọng trong nội bộ nước Tàu và làm phát sinh một loạt những mâu thuẫn trong xã hội cũng như trong hàng ngũ đảng Cộng sản Tàu. Trong khi dân Hoa Nam chịu khó làm ăn, cần cù, lanh lợi trong giao thương buôn bán, khéo tay trong kỹ thuật thì ngược lại người Tàu gốc Hán ở miền Bắc, nơi được coi là cái nôi của Hán tộc thì người ta lại quen thói ăn trên ngồi trốc, duy ý chí, thậm chí lười biếng trong khi vẫn sống với ảo tưởng rằng dân Hán là con Trời, nước Tàu là văn minh tột cùng, là cái rốn của vũ trụ, dân Ðại Hán là số một, còn các dân chung quanh là Man Di Mọi Rợ (kể cả các sắc dân khác trong nước Tàu mà không phải là người Hán thì cũng bị người Hán coi thường), và rằng vùng Ðông Nam Á là của nước Tàu hồi xưa và bị các nước Tây Phương chiếm giữ, cho nên dân Ðại Hán phải chiếm lại, phải lãnh đạo Á châu (xin tìm đọc các sách giáo khoa của Tàu hiện nay thì rõ). Trong khi cả thế giới đã và đang thay đổi toàn diện về mọi mặt theo chiều hướng hài hoà, nhân bản và hướng thượng thì giới lãnh đạo Bắc kinh và trí thức Tàu lại suy nghĩ hẹp hòi, quá khích với tinh thần tự tôn chủng tộc bệnh hoạn. Như vậy, sự hủy diệt của chủ nghĩa bành trướng “Ðại Hán” là không thể tránh được. Ðến khi người Tàu nhận ra thì đã muộn! Đã quá trễ! Quá trễ!

Ðầu óc thiển cận, hẹp hòi và mặc cảm tâm lý bịnh hoạn của giới lãnh đạo Tàu được thể hiện rõ qua biến cố 9-11. Khi vụ này nổ ra thì tổng bí thư đảng Cộng sản Tàu là Giang Trạch Dân rất sung sướng, mãn nguyện. Cho nên Giang Trạch Dân cứ coi đi, coi lại nhiều lần cuốn băng ghi cảnh 2 chiếc máy bay của bọn khủng bố lao vào toà Tháp Ðôi tại New York. Qua sự kiện này, cộng thêm cuốn sách “Unrestricted Warfare” của 2 đại tá Tàu là Qiao Liang và Wang Xiangsui viết thì cũng đủ cho chúng ta đi đến kết luận là: “Trung Cộng đứng đằng sau vụ 9-11, Al-Qaeda chỉ là người thi hành thôi”.

Từ những sự kiện nêu trên, chúng ta có thể nói thêm: Nếu Trung Cộng đã dính tới Al-Queda thì làm sao họ lại không dính đến các tổ chức ma túy ở Columbia, Nam Mỹ được. Nếu Trung Cộng đã dùng được nhóm Al-Qaeda Ả Rập thì họ cũng sẽ dùng được các nhóm cực đoan thuộc nhiều sắc dân khác trên thế giới (thí dụ ở Nam Mỹ hay Phi Châu chẳng hạn) để phá Mỹ, phá thế giới hầu đạt được mộng xâm lăng và làm bá chủ Á châu, từng bước họ sẽ tiến lên siêu cường cai trị thế giới.

Cho nên cuộc chiến hiện nay là cuộc chiến “Do or Die” trên quy mô toàn cầu, chứ không chỉ giới hạn trên một vùng lãnh thổ riêng lẻ nào, và rằng không một cá nhân hay quốc gia nào có thể đứng ngoài được. Sự hy sinh của bất cứ ai cho cuộc chiến thắng của cái Thiện trên cái Ác rồi ra sẽ được cả thế giới nhìn nhận cách đúng mức trong một tương lai rất gần.

A) Ý Đồ Thực Sự Của Trung Cộng Là Gì ?:

Khi đe dọa Ðài Loan bằng vũ khí nguyên tử cách đây mấy tháng, Trung Cộng hiển nhiên đang cố tình đánh lạc hướng dư luận thế giới về ý đồ thực sự của mình. Cuộc đụng độ trực tiếp giữa Trung Cộng và Mỹ mới là điểm chính yếu, Ðài Loan chỉ là cái diện bề ngoài mà thôi. Vì Trung Cộng không dại gì đem sở đoản của mình ra để đối đầu với sở trường của Hoa Kỳ (Hoa Kỳ có ưu thế về Không quân và Hải quân), mà Trung Cộng phải đem sở trường của mình ra để đối đầu với sở đoản của đối phương. Như vậy Trung Cộng mới có hy vọng chiến thắng hay ít nhất cũng buộc đối phương phải ngồi vô bàn hội nghị để mua thời gian, để mặc cả hầu tìm dịp lật ngược thế cờ sau này. Vậy sở trường, sở đoản của mỗi bên là gì?

Trung cộng nhận thức rất rõ là: Hoa Kỳ có thể đạt được chiến thắng mau chóng chỉ bằng Không quân và Hải quân. Nhưng những gì đang xảy ra tại Iraq và Afghanistan lại gợi cho Trung cộng thấy rằng: Ðể bình định được một vùng, đương nhiên Hoa Kỳ phải dùng bộ binh, mà cuộc chiến du kích cảm tử trong thành phố đang là một thách đố lớn đối với quân đội Mỹ tại 2 chiến trường này. Cho nên để đánh bại Hoa Kỳ hay ít nhất buộc người Mỹ vào thế phải thương thuyết nghiêm chỉnh về các quyền lợi của Bắc Kinh, thì Trung Cộng phải dẫn dụ thế nào đó để Hoa Kỳ phải nhảy vào Á Châu và sa lầy tại đây như Hoa Kỳ đã từng “sa lầy” tại Việt Nam. Xét về vị trí chiến lược: Ai làm chủ Ðông Dương thì sẽ làm chủ Ðông Nam Á; ai làm chủ Ðông Nam Á thì sẽ làm chủ Á Châu. Ở Ðông Dương thì Việt Nam chiếm vị trí quan trọng nhất, mà Việt Nam lại là một lưỡi gươm kê sát cổ họng nước Tàu. Do đó muốn ngăn chận Tàu tràn xuống chiếm Ðông Nam Á thì Hoa Kỳ phải vào Việt Nam. Một lần nữa, Việt Nam lại là trung tâm của một cuộc chiến trên bình diện toàn cầu.

Ý đồ bành trướng là xương sống trong đường lối ngoại giao của Trung Cộng đã để lộ ra từ rất lâu rồi, ngay từ khi Mao còn sống chứ không phải là một sự phát triển tình cờ như nhiều người thường nghĩ. Thí dụ: Tàu xâm lăng Tây Tạng vào năm 1959, chiếm đoạt trên 100 ngàn Kilomet đất đai của Ấn Độ năm 1962. Ðặc biệt hơn hết là Trung Cộng luôn luôn nhắm vào Đông Nam Á bằng cách tạo ra các chính phủ tay sai (Việt Nam, Lào, Miến điện, Campuchia) cho Tàu hay tạo ra các sự bất ổn trong vùng (Indonesia, Thái lan, Phi Luật Tân) rồi hưởng lợi hoặc trực tiếp tranh chấp đất đai với các nước Ðông Nam Á (vụ Hoàng Sa, Trường Sa), hoặc dùng khối người Tàu tại Ðông Nam Á để khống chế kinh tế các nước này. Vì Việt Nam là nước quan trọng trong vùng, là cửa ngõ để Tàu tràn xuống Ðông Nam Á, cho nênTrung Cộng đã xử dụng 2 cuộc chiến ở Việt Nam để đặt nền tảng cho chính sách xâm lăng Việt Nam từng bước một có hệ thống, âm thầm, nhưng không tạo ra các dư luận ồn ào trên thế giới (thí dụ Việt cộng mới đây dâng đất, dâng biển cho Tàu theo lệnh của Bắc kinh mà thế giới không lên tiếng). Những điều trên đây Hoa Kỳ biết rất rõ nhưng cái hay là họ vẫn giữ im lặng.

Ngày nay tình hình đã cho thấy rõ ràng là giới lãnh đạo Cộng Sản Hà Nội thực tế đã trở thành một chính quyền bù nhìn tay sai cho Trung Cộng tại Đông Nam Á và cũng là một công cụ bành trướng của bá quyền Bắc Kinh. Trong quá khứ đảng Cộng sản Hà Nội đã xử dụng chiêu bài dân tộc để biện minh cho đường lối của họ, trong khi họ đang ra sức hủy diệt sinh lực dân tộc Việt, nhằm che khuất thực chất: Họ chỉ là công cụ, tay sai của Bắc Kinh. Như thế xét về nhiều khía cạnh hành động của đảng Cộng sản Việt Nam nào có khác gì nhiều với những hành động diệt chủng của Polpot đã làm ở Campuchia.

Vấn đề khác cũng quan trọng không kém: Đó là Đạo Quân Thứ 5 của Trung Cộng ở hải ngoại. Trung Cộng có thể coi đây là một công cụ của họ, vì họ có thể tạo ra kiểu chiến tranh du kích và theo ngôn ngữ hiện đại là: “Chiến tranh khủng bố trên qui mô khắp hoàn cầu”. Đạo quân này có khả năng làm đảo lộn cục diện thế giới chỉ trong nháy mắt (biến cố 9-11 là thí dụ rõ nét) hầu đặt Hoa Kỳ phải ngồi thương thuyết với Bắc Kinh.

Khách quan mà nói chủ trương chính của Trung Cộng là kết hợp 2 mũi giáp công:

Thứ nhất là: Xâm lăng Việt Nam để biến Việt Nam thành chư hầu của Trung Cộng (việc này Trung Cộng đã và đang làm một cách quyết liệt). Thí dụ: Hiện nay lúc nào Trung cộng cũng có sẵn ít nhất là 300 ngàn thanh niên Trung Cộng thường trực tại Việt Nam dưới dạng du khách để khi tình hình nổ ra thì bọn này sẽ trở thành lính Trung Cộng tại chỗ; Tàu đã có mạng lưới tình báo cài đặt tại Việt Nam trong hơn 60 năm qua, cũng như có các tay chân thân Tàu trong hàng lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Cộng; hệ thống kinh tế Việt Nam hiện nay do các người Tàu phe Bắc kinh gián tiếp điều hành.

Thứ hai là: Chuẩn bị tối đa cho bất cứ hình thức khủng bố nào tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia đồng minh của Hoà Kỳ, để nếu cần Trung Cộng sẽ tiến hành một hình thức chiến tranh kiểu mới, nhiên hậu sẽ làm cho Hoa Kỳ suy yếu đi, và về lâu dài Trung Cộng sẽ tiến lên làm bá chủ Á Châu và toàn thế giới.

Nhưng Trung Cộng thấy một mà chưa thấy hai, Trung Cộng có quá nhiều kẻ thù ở bên ngoài và cũng có quá nhiều mâu thuẫn bên trong nội bộ. Cho nên đường lối chính sách 2 mũi giáp công mà Trung Cộng đang ra sức thực hiện, liệu có đem lại kết quả hay không? Khi mà ý đồ của Bắc Kinh đã được Hoa Kỳ nhìn thấy rất rõ và Hoa Kỳ cũng đã chuẩn bị đáp ứng với các ý đồ ấy của Trung Cộng một cách toàn diện, quyết liệt và không khoan nhượng tại khắp nơi trên thế giới.

Cụ thể mà nói khi Trung Cộng nhắm vào Đông Nam Á mà Việt Nam là một chuẩn điểm quan trọng cho mũi giáp công này, thì cho dù Trung Cộng có nắm được giới lãnh đạo chóp bu của đảng Cộng sản Hà Nội, và cấy người vào khắp các cơ quan chính quyền Cộng sản Việt Nam từ thượng tầng xuống đến hạ tầng đi nữa, nhưng thử hỏi: Với truyền thống đấu tranh chống Tàu quyết liệt như đã được thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt nam, liệu nhân dân Việt nam có thể để cho Trung Cộng tự do tàn phá đất nước hay không? Cho dù một thiểu số nhân dân Việt Nam trong nước cũng như ở hải ngoại hiện nay đã để lộ ra nhiều dấu hiệu bạc nhược đấy, nhưng Anh Hùng Hào Kiệt Việt Nam lúc nào cũng có và sự xuất hiện đúng lúc của các vị này sẽ làm cho ngọn gió đổi chiều ngay lập tức, và nhân dân Việt Nam sẽ đồng loạt đứng lên, tham gia vào cuộc chiến đấu chống Tàu một cách quyết liệt. Họ sẽ noi gương “Sát Thát” của tiền nhân trong giòng lịch sử (đời nhà Trần), và nhân dân Việt Nam sẽ làm một cuộc cách mạng theo kiểu “Napoleon thức” điều mà Cụ Lý Đông A đã nói đến 60 năm trước.

B) Ý Ðồ Của Mỹ:

Trong tình hình nóng bỏng hiện nay, ta phải xem coi thái độ của Mỹ và Tàu ra sao. Quan trọng hơn hết là thái độ của Hoa Kỳ trước đà bành trướng của Bắc Kinh và chiến lược 2 mũi giáp công mà Hoa Lục chủ trương. Hoa Kỳ hiểu rõ đe dọa Đài Loan chỉ là hư chiêu của Trung Cộng mà thôi. Nếu Tàu tấn công Đài Loan bằng vũ khí nguyên tử hay bằng hỏa tiễn đạn đạo hoặc bằng oanh tạc cơ, thì liệu các phương tiên ấy có thể bay lên không trung được hay không? Hay là chúng sẽ bị nổ ngay khi còn ở trong kho, gây thêm nhiều tai ương tàn phá cho chính Trung Cộng. Tình huống này không phải là đã không xảy ra. Chúng ta đã chứng kiến! Không có một máy bay nào của Iraq cất cánh được trong cuộc chiến vừa qua với Mỹ. Ðó là một bằng chứng rõ ràng nhất.

Khi điều động 7 hàng không mẫu hạm đến vùng Á Châu Thái Bình Dương và đặt 5 hạm đội với 5 hàng không mẫu hạm khác trong tình trạng sẳn sàng ứng chiến trên khắp các đại dương, cũng như để bảo vệ lãnh thổ nước Mỹ, thì Hoa Kỳ đã chuẩn bị chu đáo cho một cuộc đối đầu toàn diện không khoan nhượng với Bắc kinh tại bất cứ nơi nào, dưới bất cứ hình thái chiến tranh nào. Khi Hoa Kỳ gia tăng áp lực với Trung Cộng và đối với các chư hầu của Trung Cộng (Cộng Sản Việt Nam, Bắc Triều tiên), thì các cao trào chống chế độ Cộng Sản Hà Nội bù nhìn của Bắc Kinh, họ sẽ phải kết lực lại để chống lại kẻ thù chung của dân tộc và nhân loại, tình hình hiện nay ở hải ngoại đang báo hiệu rất rõ nét cho tình huống này. Nếu chế độ bù nhìn của Bắc Kinh ở Hà Nội bị lật đổ thì thái độ của Trung Cộng sẽ như thế nào ?

Ta không loại trừ khả năng Trung Cộng sẽ công khai tràn qua biên giới Việt nam như quân Thanh đã làm với Lê Chiêu Thống. Tình huống ấy sẽ dẫn ngay đến việc Hoa Kỳ sẽ trả đũa Trung Cộng một cách toàn diện. Đánh rắn phải đánh tận đầu là vậy. Việc đập tan thế lực bành trướng Bắc Kinh sẽ dẫn đến một loạt đổi thay nhanh chóng trên thế giới mà ta có thể dự kiến được đó là: Nhóm cực đoan Hồi Giáo sẽ hết chỗ dựa và thế giới Hồi Giáo sẽ phải trao kiếm (kiếm vốn được coi là biểu tượng của Hồi Giáo), vùng Nam Mỹ sẽ mau chóng ổn định các nhóm buôn lậu ma túy do Trung Cộng điều động sẽ bị dẹp tan, Châu Phi cũng sẽ mau chóng ổn định để thế giới bước vào thời kỳ Nhân Chủ Pháp Trị trên khắp hoàn cầu.

Người thường thì chỉ nhìn thấy chiến tranh khi bom nổ đạn rơi, nhưng những người có tầm nhìn chiến lược, có tầm nhìn thấu triệt thì chỉ nhìn các sự kiện là biết chiến tranh sẽ diễn ra như thế nào, và khi súng nổ thì thế thắng bại sẽ nghiêng về bên nào ra tay nhanh nhất, gọn nhất, và nảy lửa nhất binh thơ có câu: “Tiên Hạ Thủ Vi Cường” là vậy, điều này đã được thể hiện rất rõ trong hai thế chiến vừa qua. Sự thua trận của Trung Cộng đã thể hiện rất rõ ràng về đủ các mặt như trí tuệ, tình báo, kinh tế, kỹ thuật. Ở khắp các khía cạnh toàn diện ấy Hoa Kỳ đã nắm ưu thế tuyệt đối. Ta hãy xem xét việc đối đầu về phương diện kinh tế, liệu có sự liên hệ nào giữa sự Enron bị phá sản với việc công ty Yukos của Nga bị làm khó dễ hay không? Chắc hẳn là có một sự liên hệ mật thiết về mặt trận kinh tế đối với dự trữ dầu của Bắc Kinh, vì Bắc kinh hiện đang tiêu thụ lượng xăng dầu khổng lồ, chỉ thua Mỹ mà thôi. Nếu thiếu xăng dầu thì kinh tế Tàu sẽ tan tành ngay. Và theo tin tiết lộ từ giới báo chí thì kho dự trữ dầu của Trung Cộng chỉ đủ dự trữ dầu không quá 1 tháng, đến đỗi thành phố Thượng Hải mới đây phải cắt điện luân phiên chủ yếu là để tiết kiệm năng lượng cho hành động quân sự, mà Bắc kinh hiểu là không thể tránh được với Hoa Kỳ. Mặt khác nhiều công ty đa quốc đã tuyên bố đang xem xét việc rời khỏi Đài Loan, như lời ông Michael Boyden thuộc tập đoàn tư vấn cho các công ty đầu tư thế giới tại tại Đài Loan mới đây tuyên bố trên đài radio Úc Đại Lợi. Việc xem xét rút khỏi Đài Loan chỉ là yếu tố bề ngoài nhằm nói đến tình hình tại Trung Cộng mà thôi, khi các đại công ty ấy quyết định rút khỏi Trung Cộng, thì Trung Cộng phải đối diện với sự tan rã toàn diện của nền kinh tế rất là yếu kém của mình, và hàng trăm triệu người sẽ mất việc, chính nhóm này sẽ làm Bắc Kinh tan rã từ bên trong. Trong tình hình đó, nhiều tỉnh của Bắc Kinh hiện nay sẽ tách rời tầm kiểm soát của Bắc Kinh, để lần hồi đi đến độc lập (thí dụ Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông, Mãn châu, HồngKông và các vùng Hoa Nam thuộc giống Bách Việt), đúng như suy nghĩ mới đây của cựu tổng thống Ðài Loan Lý Ðăng Huy, và cũng rất đúng như lời tiên đoán của Cụ Lý Đông A đã đưa ra hơn 60 năm trước.

Về phương diện quân sự nếu Trung Cộng tràn vào Việt Nam trên qui mô lớn, thì chính nội địa của Trung Cộng lại bị bỏ trống; hậu phương của Trung Cộng sẽ bị đe dọa nghiêm trọng về an ninh, đấy là chưa kể đến hệ thống tiếp vận của quân đội Trung Cộng quá yếu kém và xã hội Trung Cộng hiện rất mong manh, đang chứa những mầm mống xáo trộn và bạo loạn và sẽ sụp đổ mau chóng khi Trung Cộng xảy ra chiến tranh. Cho nên dù Trung Cộng có tràn bao nhiêu quân vô Việt Nam, Lào cả Miến Điện đi nữa, thì đạo quân ấy cũng sẽ chuốc lấy cái thảm bại một cách nhục nhã không lường trước được.

Ngoài ra, Trung Cộng vẫn còn hy vọng vào đạo quân thứ năm trên khắp thế giới, mới đây một hội nghị bao gồm 1000 đại biểu Hoa Kiều hải ngoại về họp ở Bắc Kinh, là để chuẩn bị cho mặt trận phá hoại tại các hậu phương của Mỹ và các đồng minh, đạo quân ấy tuy đông nhưng đa số họ đều là người Hoa Nam, tức là nguồn gốc Bách Việt vốn bị nòi Hán ở phía Bắc áp bức đè nén tạo ra chiến tranh đói khổ nên phải bỏ xứ mà ra đi. Cho nên dễ gì họ chịu lao vào những hành động nguy hiểm để từ bỏ những tự do, sung sướng mà chính họ và gia đình họ đang được hưởng tại các quốc gia mà họ đang cư ngụ.

Nhóm trung thành với Bắc Kinh chính là nhóm tình báo của Bắc Kinh được cài ra hải ngoại trong thời gian khoảng hơn 30 năm qua, với nhóm này, thì tình báo phương Tây hẳn nhiên là biết rõ, cho nên cho dù khả năng thực hiện các cuộc khủng bố do Trung Cộng dàn dựng sắp tới đây (đặc biệt là tại Mỹ) là có thật, nhưng với sự chuẩn bị về an ninh tối đa tại nội địa của Hoa Kỳ hiện đang được coi là ưu tiên chính, thì khả năng Bắc Kinh dùng đạo quân thứ 5 là người Tàu hải ngoại để giở trò khủng bố ngay tại nội địa Hoa Kỳ khó có thể xảy ra.

II) Văn Minh Bách Việt:

Thái độ của chúng ta với tính cách là người Việt Nam và với tất cả các hậu duệ của con cháu Bách Việt khi xưa hiện đang sống trong vùng Hoa Nam, cũng như trong các quần đảo và lục địa vùng Đông Nam Á, cũng như khắp nơi trên thế giới cần làm gì, thái độ ra sao trong tình hình thế giới hiện nay ?

Trả lời câu hỏi này một cách chi tiết đòi hỏi phải có sự hợp nhất, trí tuệ một cách sâu rộng và trên qui mô lớn. Vào lúc này trong tình hình thế giới nóng bỏng như hiện nay, chúng tôi chỉ đưa ra một vài nét khái quát liên quan mà thôi.

Ta cần trở về với lịch sử lâu đời của Bách Việt, lịch sử Á Châu xét cho cùng ra là lịch sử của các cuộc đấu tranh liên tục giữa hai chủng tộc Bách Việt và Hán Tộc. Lịch sử Bách Việt đã được nhiều công trình nghiên cứu nghiêm túc của nhiều học giả trên khắp thế giới, xác nhận là: “rực rỡ và có trước Hán Tộc nhiều ngàn năm”; mặc dù chưa có công trình nào minh thị nói đến các ảnh hưởng Bách Việt đối với vùng Lưỡng Hà thuộc Trung Đông, hay các nền văn minh khác như Hy Lạp, Ai Cập chẳng hạn, nhưng rõ ràng là Bách Việt đã là cái nôi tiên khởi của nền văn minh nông nghiệp của nhân loại. Ta hãy xem xét về mặt ngôn ngữ hàng hải trong tiếng Việt khi so chiếu nghành hàng hải khắp nơi trên thế giới, thì ta đều thấy có sự trùng hợp nhất định. Chúng đều có một nguồn gốc chung: Nguồn gốc Bách Việt, cho nên chính người dân tộc Việt Nam (một chi nhánh của Bách Việt mà cả hàng ngàn năm đã luôn luôn đối đầu và đánh bại chủ nghĩa xâm lăng Hán Tộc) là một dân tộc có đủ tư cách và khả năng chống lại sự đô hộ và đồng hóa của chủ nghĩa “Đại Hán” Bắc Phương.

Các công trình nghiên cứu ấy đặc biệt xuất hiện trên qui mô lớn trong vòng 40 năm qua đã minh chứng một điều: Văn minh Bách Việt đã tiến trước người Hán hàng nhiều ngàn năm, nhưng vì văn minh Bách Việt chủ trương Thuận Thiên (Thuận lẽ Đạo hợp lẽ Trời), Nhân Bản nên đã bị Hán Tộc (nền văn minh du mục, giỏi về sức mạnh chứ không thiên về trí tuệ) xâm lăng và góp nhặt một cách không hoàn chỉnh các kiến thức thâm sâu của Bách Việt về làm của riêng mình. Và với tính cách là kẻ xâm lược, Hán Tộc đã hủy diệt từng bước một nền văn minh Bách Việt, để đến ngày nay trước mắt dân thường thì chỉ còn nền văn minh Hán Tộc là huy hoàng và xán lạn thôi.

Sự thực Hán tộc chỉ ăn trộm một cách không hoàn chỉnh các tinh hoa Bách Việt, nhưng tinh hoa thật sự vẫn được Bách Việt gì giữ một cách trọn vẹn qua các truyện truyền khẩu, sự tích chứa nhiều tính chất ẩn dụ thâm sâu trong kho tàng văn chương Việt Nam. Có quá nhiều bằng chứng để minh chứng cho nhận định này. Thí dụ: Người Việt xem tử vi, thì người Tàu xem tử bình, mà tử bình là một dạng đơn giản hơn nhiều so với tử vi. Về dịch lý người Tàu chỉ biết về “Tiên Thiên Đồ” và “Hậu Thiên Đồ” một cách khái quát, còn “Trung Thiên Đồ” là phần quan trọng nói về con người thì người Tàu mù tịt, mà con người mới là trung tâm của vũ trụ. Minh chứng hùng hồn nhất là giáo sư Jared Diamond đưa ra trong cuốn Guns, Germs, and Steel là về mọi phương diện nhất là chữ viết, thì Bách Việt đã tiến trước người Hán ít nhất là 3000 năm. Người Hán đã khám phá ra đồng trước Bách Việt chỉ có 500 năm mà thôi.

Chấm phá ít điều như vậy cũng đã đủ để giòng tộc Bách Việt đáng hãnh diện lắm thay và các hâu duệ của Bách Việt cần nhìn xuyên suốt lịch sử, để cùng nhau góp sức xây dựng lại cơ đồ do tổ tiên Bách Việt khi xưa đã cống hiến cho nhân loại.

III) Nói Với Hoa Nam:

Chúng tôi cần nhấn mạnh với tất cả người Tàu hiện đang sống trong vùng Hoa Nam rằng: Lịch sử đô hộ của nòi Hán trên cái nôi của Bách Việt khi xưa đã kéo dài hơn 2000 năm, và ngày nay các bạn là người Tàu nhưng các chứng cớ do chính quyền Đài Loan thực hiện trong quá khứ (sau khi Tưởng Giới Thạch thua Mao Trạch Ðông, thì họ Tưởng đã kéo quân sang cố thủ ở Ðài Loan và tìm cách viết lại lịch sử nước Tàu, để có một bộ sử hoàn chỉnh dùng đối đầu với loại lịch sử “Tàu Hoa Bắc” đầy bóp méo, đầy tính đấu tranh giai cấp do Cộng sản Tàu viết lại, nhưng sau đó họ Tưởng đành bỏ ý định này, vì nếu truy ngược lên lịch sử nước Tàu vào thời xa xưa nhất, thì rốt cuộc sẽ phải công nhận là có nền văn minh rực rỡ của Bách Việt Hoa Nam và Bách Việt Ðài loan song song với dòng lịch sử Tàu Hoa Bắc và rằng Bách Việt Hoa Nam cũng như Bách Việt Ðài Loan không cùng chủng tộc với người Hán ở Hoa Bắc. Trong khi đó, họ Tưởng đang nuôi mộng có ngày quay lại lục địa Tàu để tiêu diệt Cộng Sản, thống nhất nước Tàu và Ðài Loan. Cho nên với phát giác này, Tưởng thống chế của Ðài Loan đã không dám nghiên cứu thêm về việc viết lại lịch sử nước Tàu, vì họ Tưởng không muốn dân Bách Việt Ðài Loan biết họ và người Tàu Hoa Bắc khác chủng tộc). Rồi theo cuộc nghiên cứu về yếu tố di truyền DNA (vốn được coi là chuẩn xác nhất để xác định nguồn gốc chủng tộc) của các sắc dân tại nội địa Tàu và Ðài loan, do bác sĩ Jen-Yih-Chu thuộc trường Ðại học Y khoa ở tiểu bang Missouri, Hoa kỳ (cũng như từ các nhà nghiên cứu khoa học đầy uy tín quốc tế khác), thì ông đã minh định một điều là: Yếu tố di truyền DNA của người “Tàu Hoa Nam” (Bách Việt) và dân Ðài Loan có nhiều trùng hợp đến trên 75 phần trăm so với yếu tố di truyền DNA của người vùng Ðông Nam Á (Việt Nam, Thái, Lào,vvv). Dĩ nhiên càng đi về phương Bắc thì DNA càng gần với người Hán nhiều hơn. Những điều nói trên dẫn đến kết luận tất yếu là: Về cơ bản người Hoa Nam (bao gồm Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Quảng Đông, Âu Việt ở Quảng Tây, Điền Việt ở Vân Nam vvv.) đều cùng một tổ phụ Bách Việt cả. Như thế chúng ta đều là anh em một nhà. Hán Tộc ở phía Bắc mới là kẻ thù chính của tất cả chúng ta. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta chống con người, chúng ta chống là chống lại chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh để đòi lại những gì của ông cha ta đã mất. Hãy xem lịch sử xa xưa của người Tàu!

Các bạn có thấy bất cứ một người nào xuất xứ từ Hoa Nam Bách Việt lên ngôi vua cai trị tại vùng Hoa Bắc, trung tâm của nước Tàu hay không ? Không có, tại sao ? Tại vì người Hoa Nam không có tài, hay họ dở hơn người Hoa Bắc ? Không phải vậy (Người Hoa Nam chủng tộc Bách Việt đã đóng góp cho lịch sử nước Tàu nhiều nhà anh hùng kiệt suất, nhiều nhà hiền triết có tư tưởng thâm sâu. Thí dụ Lão Tử). Tại vì người Hán tộc phương Bắc vẫn coi người Hoa Nam là kẻ thấp kém, kẻ man di mọi rợ, kẻ bị trị. Các bạn hãy nhìn xem! Hình dáng bên ngoài của người Hoa Nam Bách Việt trông rất giống với người Việt Nam, Lào, Thái, Miến hơn là giống với người Hoa Bắc nòi Hán tộc. Cho nên với chúng tôi, cuộc chiến chống lại mưu đồ bành trướng “Ðại Hán” làm hại cho các dân tộc thiểu số tại nước Tàu (trong đó người thiểu số Tàu thuộc chủng tộc Bách Việt chiếm đa số), gây nguy hiểm cho nhân loại là một cuộc chiến đấu rất chính nghĩa. Chúng ta chiến đấu cho sự tồn tại của nhân loại này thuộc nền văn minh này và cho sự phục họat vinh quang của dòng giống Bách Việt đã bị nòi Hán tộc đàn áp, tiêu diệt và đồng hóa cả mấy ngàn năm qua.

Chúng ta muốn gì ? Chúng ta đòi hỏi Hán Tộc phải trả lại Bách Việt những gì thuộc về Bách Việt. Do đó, chúng tôi thấy cần lưu ý chủng tộc Bách Việt ở Hoa Nam rằng: Ðã bao lần Hán tộc ở phương Bắc họ đã dùng đồng bào Hoa Nam (một nhánh của Bách Việt) xâm lăng Việt Nam. Nhưng lần nào cũng vậy, Hán tộc đều chuốc lấy thảm bại thê lương. Ðó là cái công rất lớn của ông cha chúng ta tại Việt Nam. Trong đó cũng có phần đóng góp rất lớn của các nhánh Bách Việt khác tại Hoa Nam, thí dụ như dân tộc “Choang tại Quảng Tây”. Vì nhận thức rõ ràng là các dân tộc tại Hoa Nam và Việt Nam đều cùng chung một tổ tiên cho nên các đời vua Việt Nam thí dụ như Quang Trung Nguyễn Huệ, đều có ý định khôi phục lại sơn hà của Bách Việt tại Nam cho nhiều nhóm Bách Việt. Hơn nữa, sau các cuộc binh biến với Tàu trong đó khi Việt Nam chiến thắng thì các vua Việt Nam vẫn đối xử khoan hòa trong tình anh em với những binh sĩ Tàu (mà chủ yếu là gốc Hoa Nam bị ép buộc đi đánh Việt Nam) bị bắt làm tù binh, cung cấp cho các anh em Hoa Nam này phương tiện để trở về với gia đình, làng xóm.

Với tình hình thế giới đang căng thẳng như hiện nay, thế Tất Thắng của chính nghĩa Nhân Chủ do Hoa Kỳ lãnh đạo trên quy mô toàn cầu đang thể hiện rất rõ ràng. Thế Tất Bại của Bắc Kinh là không thể cưỡng lại được. Bắc Kinh dù có vận động bất cứ sách lược nào đi nữa thì Trung Cộng cũng phải phân rã thôi, Cụ Lý Đông A có nói: “Hợp các nước nhỏ chung quanh lại để đánh nước lớn đó là Vương Đạo vậy”. Và Trung Cộng họ càng hung hăng bao nhiêu thì sự thiệt hại cho nhân dân Trung Cộng càng lớn bấy nhiêu. Trước đây chúng tôi đã từng nói nhiều lần rằng: Chúng ta cần tiết kiệm xương máu của đồng bào ta, dĩ nhiên việc tiết kiệm mà chúng tôi đã nói ở trên bao gồm cả xương máu của đồng bào ta ở vùng Hoa Nam nữa.

Hơn lúc nào hết: Bây giờ là lúc nhân dân Bách Việt ở Hoa Nam cần xác định rõ kẻ thù chính yếu của Bách Việt là ai ? Ðó chính là chủ nghĩa bành trướng Hán tộc ở phương Bắc, chúng đang muốn dùng xương máu của Bách Việt để tiêu diệt Bách Việt đấy. Vì vậy, chúng tôi kêu gọi toàn thể cộng đồng Bách Việt ở Hoa Nam xác định rõ thái độ của mình là: “Hãy trở về với nguồn gốc Bách Việt của mình và không thi hành chính sách xâm lược lân bang (bao gồm cả các nước cùng chung dòng Bách Việt) của Hán tộc. Làm được như vậy, các bạn đã đóng góp công sức vào sứ mạng chung của Bách Việt và các bạn cũng đóng góp công sức không nhỏ vào việc hình thành nền Nhân Chủ Pháp Trị trên khắp thế giới. Ðó là hướng đi không thể đảo ngược được của nhân loại hiện nay.

IV) Với Người Hoa Hải Ngoại:

Chúng tôi cần nhấn mạnh là: Cho dù ngôn ngữ có khác nhau do sự đô hộ lâu dài của nòi Hán đối với Bách Việt thì trên 90% người Hoa ở hải ngoại đều là dân Bách Việt cả. Trước cuộc diện như hiện nay, các bạn cần nhìn thấy nguồn gốc đích thực của mình để có thái độ thích đáng. Hãy đóng góp tích cực vào việc gia tăng an ninh của các quốc gia nơi các bạn đang sinh sống. Ðừng bao giờ trở thành công cụ của Bắc Kinh. Người khôn ngoan là người biết chọn thế mạnh, lâu dài và hướng đi chính nghĩa của lịch sử nhân loại mà đi, chứ không ai dại gì đi chọn cái thế tất bại mà Bắc Kinh đang theo đuổi. Bất cứ kẻ nào cứ tiếp tục đi vào con đường phục vụ cho lợi ích của Bắc Kinh thì kẻ ấy chắc chắn sẽ chuốc lấy hậu quả thê thảm khôn lường cho chính bản thân họ và gia đình họ.

V) Với Người Việt Hải Ngoại:

Chúng tôi cần nhấn mạnh rằng: Khi Hà Nội rơi vào vòng tay của Bắc kinh thì một bộ phận trong mạng lưới tình báo hải ngoại của Hà Nội cũng bị Bắc Kinh chi phối và điều động, cho nên đối với Bắc Kinh thì những gì có lợi cho Bắc Kinh là có lợi cho Hà Nội và ngược lại. Mạng lưới tình báo ấy xét cho cùng ra không phục vụ cho quyền lời đích thực của nước Việt Nam mà chỉ là công cụ thao túng nhằm đóng góp vào việc ức hiếp người Việt, làm lợi cho Tàu Cộng mà thôi. Tính chất tế nhị của tình hình hiện nay cho thấy rất nhiều người Việt ở hải ngoại (kể cả trí thức có bằng cấp cao trọng) đều không thấy được việc này. Tệ hơn nữa; đến giờ phút quan trọng này của lịch sử dân tộc, mà họ vẫn chưa dám khẳng định lập trường dân tộc kiên quyết và vẫn mù mờ trong việc xác định, vạch mặt kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Bắc Kinh. Họ chỉ loay hoay xung quanh các vấn đề lặt vặt của cộng đồng mà thôi, bàn luận những chuyện vu vơ, lúc thế này, lúc thế kia, chống Cộng (Tàu cộng và Việt cộng) thì ít, chống nhau thì nhiều, chẳng có lập trường hay kế sách rõ ràng, lâu dài và thấu suốt chi cả. Tủi hổ lắm thay! Tủi hổ lắm thay!

Thái độ ấy là thể hiện rõ nét của việc gia tăng ảnh hưởng hay phá hoại của Trung Cộng qua tay sai đàn em là đám tình báo Hà Nội đang hoạt động trong cộng đồng, trong các hệ thống truyền thông và trong nhiều tổ chức do người Việt hải ngoại đã lập ra trong suốt 30 năm qua. Việc một số người “trí thức” hải ngoại tự nhận mình giỏi, còn chê các người khác là dở; việc họ chỉ muốn mình hay nhóm mình độc quyền “lãnh đạo cộng đồng”, đất nước. Trong khi chính bản thân họ lại không nhìn được con đường đi sắp tới của dân tộc, không nhìn được thế cờ của thế giới và cũng không nhìn được bạn - thù cách phân minh. Với bản chất ấy, các cá nhân hay các nhóm này một khi vì quyền lợi của họ, thì họ sẵn sàng bán mình cho Tàu hay Việt Cộng, cho nên đối với các người hiểu biết thì danh từ “Đám Trí Thức Lại Nhân” mà họ thường dùng để chỉ nhóm người hay các cá nhân tham lam, ti tiện, và ích kỷ của các nhóm người nói trên quả không sai bao nhiêu.

Trong tình hình sôi bỏng hiện nay, chúng tôi kêu gọi mọi người Việt Nam cần xác định ngay vị trí của mình là: Ðứng hẳn về phía chính nghĩa của dân tộc và nhân loại. Hãy rất tỉnh táo để không trở thành công cụ của Bắc Kinh và nhất là tránh xa ngay các tổ chức tội ác do Bắc Kinh dàn dựng điều khiển thông qua các nhóm tình báo của Hà Nội tại hải ngoại.

VI)Với Các Người Sinh Hoạt Cộng Đồng, Trong Các Đảng Phái Hải Ngoại:

Trong 30 năm qua, chúng ta đạt được một số thành quả trong công cuộc đấu tranh chung, cho dù nhỏ nhặt. Chúng tôi nói nhỏ nhặt vì so với tiềm năng to lớn của cộng đồng hải ngoại thì những thành quả chúng ta đạt được không là bao. Lý do là chúng ta đã không đủ trí tuệ sáng suốt để hướng cuộc tranh đấu theo một chiều hướng phù hợp với tình hình thế giới. Chúng ta đã bỏ quá nhiều công sức vào chuyện bôi nhọ, đấu đá lẫn nhau và vì ấu trĩ, thờ ơ nên đi vào bẫy do bọn Cộng Sản và tay sai của chúng ở hải ngoại dựng ra. Hãy nhìn những chuyện bôi nhọ lẫn nhau trên các báo chí, đài phát thanh hải ngoại thì rõ. Cũng xin lưu ý với các “chủ tịch cộng đồng” rằng: Không một chính phủ của bất cứ quốc gia nào có thể chấp nhận một quốc gia trong một quốc gia cả. Gần 30 năm qua đất nước Hoa Kỳ đã nuôi sống chúng ta và gia đình chúng ta, chứ không phải Việt Cộng hay Trung Cộng. Vì vậy chúng ta phải hành xử như thế nào cho xứng đáng với bổn phận chúng ta trên mảnh đất Hoa Kỳ này, không khéo để rồi ta phải mang tội là kẻ vong ân bội nghĩa, đến lúc đó ta có oán trách Người thì cũng đã muộn. Và chúng ta cũng nên lưu ý rằng: “Ngay trên đất nước Hoa Kỳ này họ cũng chỉ có một cộng đồng duy nhất đó là: Cộng Đồng Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ”.

Giờ đây, chúng ta phải bỏ đi những lầm lẫn, dị biệt quá khứ. Hãy tỉnh táo, khôn ngoan để nhìn rõ đâu là bạn đâu là kẻ thù. Hãy gạt bỏ cái tôi tiểu ngã của cá nhân, để hoà vào cái ta đại ngã của đất nước, và quan trọng nhất là: Phải gạt bỏ Đảng Phái tính, Hội Đoàn tính, tập quán dị biệt Trung, Nam, Bắc tính, trong mỗi con người chúng ta. Chúng ta chỉ có một Ðảng duy nhất là “Ðảng Việt Nam”, một Dân Tộc duy nhất là “Dân Tộc Việt Nam”. Một nỗi đau là nỗi đau chung “Quê hương Việt Nam đang bị đọa đày, tàn phá, xâm lăng bởi họa Bắc Phương”, nỗi nhục chung là “người Việt đang làm nô lệ cho kẻ thù Phương Bắc ngay trên chính quê hương mình, tinh hoa, đất nước, gái Việt đang bị bọn cầm quyền rao bán công khai cho ngoại bang”.

Vậy hãy nhìn rõ nhau, nhận ra nhau, và cùng nhau nhìn về một hướng, hãy đối xử khoan hoà, cảm thông và thân ái với nhau, đừng đánh phá, bôi xấu, tranh dành những chức vụ “hữu danh vô thực” trong các sinh hoạt cộng đồng nữa. Hãy cùng bắt tay nhau, chung sức chống kẻ thù chung là Trung Cộng đã và đang xâm lấn tiêu diệt dân tộc Việt Nam của chúng ta (qua nhóm tay sai chóp bu trong bộ chính trị Trung ương đảng Việt cộng). Đừng để lịch sử kết án chúng ta! Đừng để con cháu chúng ta, dân tộc chúng ta tiếp tục sống trong tủi nhục, tang thương! Đừng để những người lãnh đạo thế giới coi thường chúng ta, và đừng để chúng ta cứ mãi là “Đám Lại Nhân” tủi hổ lắm thay!

Cũng cách nay không lâu, chúng tôi đã từng kêu gọi những nhân viên tình báo Hà Nội ở hải ngoại hãy ra đầu thú với chính quyền sở tại. Lời kêu gọi ấy không phải là hoàn toàn vô tình. Lời kêu gọi ấy hôm nay vẫn còn giá trị và càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Mỗi người trong chúng ta chỉ có một lần để sống và một lần để chết. Sống sao cho xứng đáng một con người là chọn lựa của mỗi người chúng ta. Chết vinh và chết có ý nghĩa cho dân tộc vẫn hơn là sống trong nhục nhã chứ! Sự hy sinh của mỗi cá nhân cho đại nghĩa của dân tộc Bách Việt và của nhân loại há chẳng phải là niềm vinh dự không bút nào tả xiết hay sao ? Chúng ta cần thấy rõ rằng: Chúng ta đang sống trong thời kỳ dôi của lịch sử dân tộc, lịch sử ấy hàng ngàn năm mới có một lần. “Phúc cho ai biết đi vào lịch sử bằng cánh cửa lớn của lịch sử”. Cánh cửa ấy cũng phải cả ngàn năm mới mở ra một lần.

VII) Nói Với Chính Quyền Các Nước Có Người Việt Tị Nạn Cư Trú:

Ðại đa số người Việt là những người cần cù, chịu khó làm việc, tôn trọng luật lệ. Sự lộn xộn của cộng đồng người Việt ở hải ngoại hiện nay là do bàn tay của tình báo Việt cộng và Tàu cộng lũng đoạn phá hoại. Chúng tôi không muốn nhìn thấy sự việc là một nhóm nhỏ thuộc cộng đồng người Việt trở thành công cụ của Bắc kinh để biến họ trở thành khủng bố hay liên hệ tới khủng bố (đặc biệt là tại Mỹ). Cho nên, hôm nay chúng tôi long trọng yêu cầu các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ hoặc các chính quyền khác nơi có các người Việt cư ngụ hãy: “Làm sạch cộng đồng Việt Nam ngay tức khắc và không khoan nhượng”. Việc xảy ra tại nước Mỹ hay tại các nước khác, thì do chính quyền Mỹ hay chính quyền các nước khác phải lo, sau này, việc xảy ra ở trong nước Việt Nam chúng tôi thì chúng tôi chắc chắn sẽ nhận trách nhiệm một cách nghiêm chỉnh.

VIII) Với Đảng Cộng Sản Và Quân Đội Việt Nam Trong Chế Độ hiện nay:

Quân đội ở bất cứ quốc gia nào đều dùng để bảo đảm an ninh cho toàn dân, bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước đó. Quân đội trong chế độ độc tài cộng sản chỉ nhằm bức hại đồng bào để thi hành đường lối làm tay sai cho Hán tộc, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. Nhiều việc đã từng xảy ra trong suốt 60 năm qua tại Việt Nam mà anh em quân nhân không biết được nhiều. “Lỗi ấy không phải ở anh em! Tội ấy là do nhóm chóp bu đảng Cộng sản Hà Nội từ Hồ chí Minh trở xuống phải gánh chịu”.

Tôi chưa từng thấy dân tộc nào mà lịch sử đã cố tình bị bóp méo và cố tình bị chôn vùi đi một cách có hệ thống như lịch sử dưới chế độ Cộng Sản Hà Nội. Họ Hồ đã từng nói một câu ngạo mạn, “Các vua Hùng có công dựng nước, bác cháu ta có công giữ nước”. Ðiều này có nghĩa gì ? Ðối với họ Hồ và theo ý nghĩ nông cạn của ông, thì lịch sử dân tộc Bách Việt ta chỉ có từ thời Hùng Vương ? Và lịch sử oai hùng của dân tộc cũng chỉ có Hồ chí Minh, còn các anh hùng dân tộc trong dòng lịch sử Việt Nam đều bị họ Hồ và đồng bọn bôi nhọ. Vì sợ mất lòng Tàu nên các chiến công hiển hách của cha ông ta từ Ngô, Ðinh, Lê, Lý, Trần, Quang Trung đều bị chúng phá hủy không thương tiếc, để đến nay mấy thế hệ không còn biết gì về lịch sử oai hùng chống ngoại xâm phương Bắc của dân tộc Việt Nam nữa. Cái tội của họ Hồ và đảng Cộng sản Hà Nội là đã hủy diệt nền đạo thống văn hóa lâu đời của dân tộc, hủy diệt và bóp méo những chiến công oai hùng của tiền nhân, để chúng dễ bề dâng đất, dâng biển, bán tinh hoa của đất nước chỉ vì quyền lợi phe phái và bè nhóm. Tội ấy ngàn đời sau mãi mãi khắc ghi.

Ngày nay, chúng tôi biết là các bạn không còn biết gì nhiều về lịch sử anh dũng, kiên cường của dân tộc nữa ngoài một ít chuyện kể không đầy đủ, mạch lạc. Ðiều này dẫn đến việc cả quân dân Việt Nam đang bơ vơ, lạc lõng, không phân biệt rõ chính-tà, thiện-ác, bạn-thù chứ nói gì đến biết các diễn biến mạnh mẽ của thế giới đang sôi sục, nóng bỏng từng ngày, từng giờ liên quan mật thiết tới vận mạng sinh tử của dân tộc.

Nhưng máu Bách Việt chống ngoại xâm vẫn thấm sâu trong huyết quản từng người trong chúng ta. Khi vận hội tới, mọi người chúng ta đều sẽ đồng loạt phản tỉnh tận trong đáy tâm hồn, để ý thức lẽ chính-tà và đồng loạt đứng hẳn về phía chính nghĩa dân tộc, bẻ gẫy các âm mưu thâm độc của nòi Hán tộc đang từng bước xâm lăng nước ta. Chúng tôi đã từng nói với tất cả rằng: Giới lãnh đạo chóp bu Cộng sản Hà Nội hiện nay, đã trở thành tay sai đắc lực của chủ nghĩa bành trướng Hán tộc Bắc kinh. Bây giờ là lúc mọi người không phân biệt xuất xứ, quá khứ, địa vị, chức tước, hãy cùng nhau nhất tề trong ngoài hợp nhất, để lật đổ bọn cầm quyền buôn dân, hại nước tay sai cho ngoại bang Bắc Kinh.

Thời gian không còn nhiều. Thời gian là rất cấp bách. Quyết định của mỗi người chúng ta (đặc biệt là của những người đã từng có thời kỳ đóng góp vào việc thi hành các đường lối do đảng Cộng Sản Hà Nội chủ trương trong hơn 60 năm qua) là rất quan trọng đối với tiền đồ sinh tử của dân tộc. Các quyết định khôn ngoan của ai đó hoặc của một nhóm nào đó có thể làm nức lòng toàn dân đang bơ vơ lạc lõng trước vận mạng tăm tối của đất nước; nức lòng toàn dân đang đi tìm một cách chọn lựa được coi là chính đáng cho vận mạng tồn vong của dân tộc, cho sự vẹn toàn của dải giang sơn gấm góc thân thương mà tổ tiên chúng ta đã tốn bao mồ hôi, xương máu bảo vệ. Và các quyết định ấy sẽ tiết kiệm được xương máu của đồng bào ta rất nhiều.

Chúng tôi cũng cần lưu ý tất cả các vị có liên quan rằng: Mỗi người chúng ta hãy cứ cố gắng hết sức tối đa về phần mình đi đã. Nhiên hậu sự tiếp sức, kết lực sẽ “Đột Biến” xảy ra, Có như vậy chúng ta mới không thẹn với lòng mình, với tổ tiên, để con cháu chúng ta có thể ngẩng cao đầu lên mà hãnh diện với thế giới, khi chúng hiểu rằng vào thời điểm sinh tử ấy của lịch sử dân tộc và nhân loại, ông cha chúng đã có can đảm dám nhìn nhận sai lầm trong quá khứ, đã trở về với “Đại Nghĩa Dân Tộc” và mạnh dạn đứng lên xoay chuyển thế cờ mang chiến thắng lại cho nước nhà, đánh bại âm mưu xâm lăng đất Việt từ kẻ thù truyền kiếp Hán tộc.

Ðối với các binh sĩ, sỹ quan trong quân đội Việt Nam thuộc chế độ Cộng Sản hiện nay, đối với các nhân viên an ninh, các công chức thuộc chế độ ấy; nếu các bạn không nằm trong thành phần lãnh đạo đầy quyền lực của bạo quyền Hà Nội, tay sai Bắc kinh, thì các bạn không có lỗi gì với lịch sử dân tộc. Các tội lớn đó đều do Hồ chí Minh và nhóm Trung Ương lãnh đạo bù nhìn Cộng sản Hà Nội hiện nay lãnh chịu. Các bạn chỉ có lỗi khi tiếng pháo lịnh đã nổ, nhưng các bạn tiếp tục ngủ yên, chỉ lo bảo vệ quyền lợi cho mình, gia đình và bè đảng và để mặc cho đại khối dân tộc bị đàn áp, đọa đày, đất nước bị xâm lăng, hay tệ hơn, các bạn còn tiếp tay cho bạo quyền Hà Nội kẻ nội thù tay sai Bắc Kinh để kéo dài sự đau khổ của dân tộc, tàn phá thêm quê hương vốn đang tủi nhục, rách nát, tả tơi.

Lẽ tất nhiên là: Không ai có thể định công hay phán tội, mà tất cả phải lấy chữ Hoà làm gốc, nếu việc họ làm phải xuất phát từ ý định có chủ đích cho chính nghĩa dân tộc, những ai còn có ý định riêng cho cá nhân hay bè nhóm, đi ngược lại quyền lợi chung của dân tộc, quyền lợi tối thượng của tổ quốc, đều bị quy luật của lịch sử đào thải không thương tiếc, nguyên tắc này sẽ được áp dụng triệt để trong pháp luật, khi hòa bình được thật sự vãn hồi trên quê hương của chúng ta. Cho nên một lần nữa, chúng tôi kêu gọi quân nhân các cấp trong chế độ Cộng sản Hà Nội hiện nay hãy cam đảm đứng lên, tay nắm tay, vai chung vai, lo cho sự an nguy của đất nước trước hiểm họa diệt chủng đến từ phương Bắc, hãy hành động một cách quyết liệt để chứng tỏ rằng: Chúng ta là người Việt Nam thuộc dòng dõi Bách Việt và mãi mãi chúng ta là dân Bách Việt, một Bách Việt đã từng đóng góp một nền văn minh chói sáng cho nhân loại.

Ðể kết luận cho bài phát biểu hôm nay, chúng tôi cần nhấn mạnh với thế giới là:

1). Thế tất thắng của chính nghĩa Nhân Chủ là không thể đảo ngược được.

2). Nhân loại sẽ tiến vào thời kỳ huy hoàng mới với một xã hội Nhân Chủ - Pháp Trị nở rộ khắp nơi.

3). Mọi dân tộc, mọi nhóm chủng tộc dù bé nhỏ tới đâu cũng đều phải có một biên cương, một quốc gia và sẽ có một chỗ đứng xứng đáng trong giòng tiến hóa của loài người.

4). Mọi tài nguyên thiên nhiên về vật chất cũng như tinh thần đều được chia xẻ đồng đều trong điều kiện có thể chấp nhận đươc.

5). Mọi quốc gia dù có khác nhau về văn hóa, lịch sử, địa lý, hãy can đảm nhìn thấy mối đe dọa ở phía trước do Trung cộng gây ra, để sát cánh cùng nhau đập tan ý đồ thâm độc của Bắc kinh là: Từng bước khống chế Á châu để rồi tiến tới đô hộ toàn thế giới.

Kính chào quí vị.

Lê Văn Xương

12 THÁNG ANH ĐI