30 thg 3, 2009

TÔI LẠC QUAN


DÂN CHỦ MỞ RỘNG VÀ TIẾNG NÓI TOÀN CẦU
IOICHI ITO
Người sáng lập và CEO của công ty Neotemy

Tôi lạc quan rằng hệ thống mạng mở rộng sẽ tiếp tục phát triển và càng ngày càng hữu dụng hơn.
Tôi lạc quan rằng máy điện toán càng ngày càng rẻ hơn và rộng mở cho mọi người. Tôi lạc quan rằng phần mềm software và phần cứng hardware sẽ mở rộng, rõ ràng và không tốn tiền cho mọi người.
Tôi lạc quan rằng khả năng sáng tạo, cùng xử dụng và cùng chung việc làm sẽ đem đến một tiếng nói chung cho tất cả mọi người.
Tôi tin rằng Internet, một nguồn mở rộng, và một nền văn hóa tòan cầu của hội thoại và san sẻ những gì của mình sẽ trở thành trụ cột của nền dân chủ trong thế kỷ 21 này. Những kẻ nắm quyền lực đã và sẽ không bao giờ có thể xử dụng kỹ thuật truyền thông đại chúng này để chống lại thế giới tự do.
Tôi lạc quan rằng Internet sẽ có thể khuyến khích tiếng nói tập thể của con người và đó chính là tiếng nói của hợp lý và thiện tâm.
Người dịch: Nguyễn việt Việt.

28 thg 3, 2009

TÔI LẠC QUAN .


KHOA HỌC VÀ CON NGƯỜI.
Richard Dawkins
Nhà sinh vật học tiến hóa,tác giả the selfish genes.
Tôi lạc quan rằng những nhà vật lý của chúng ta sẽ hoàn thành giấc mơ của Einstein và khám phá lý thuyết của mọi vật trước khi những siêu sinh vật, liên quan đến một thế giới khác đến tiếp xúc và đưa ra lời giải đáp.
Tôi lạc quan, dù lý thuyết của mọi vật sẽ mang nền vật lý căn bản đến kết thúc đầy thuyết phục, nhưng vận hành của vật lý vẫn sẽ tiếp diễn, giống như sinh vật học vẫn tiếp tục tựu thành sau khi Darwin giải quyết vấn đề sâu thẳm của nó.
Tôi lạc quan rằng cả hai lý thuyết hợp lại để đưa ra lời giải đáp tự nhiên và thoả đáng về sự hiện hữu của vũ trụ và mọi vật ở trong đó, kể cả con người chúng ta.
Và tôi lạc quan rằng sự giác ngộ khoa học ở điểm cuối cùng này sẽ là một đòn chí mạng,phá tan đi những ngu dốt,lừa dối,và độc ác cũng như những mê tín dị đoan của con người .
Richard Dawkins.
Diễn dịch : Nguyễn việt việt.

27 thg 3, 2009

Không thích chuyện chính trị


Có người, khi nghe đề cập đến những vấn đề liên quan tới Việt Nam, nhất là những chuyện xấu xa của chế độ Cộng Sản, thường giẫy nẫy lên mà rằng: "Tôi không thích nói chuyện chính trị". Cũng có người, khi thấy đồng hương đi biểu tình chống Cộng, thường bỉu môi:

"Tôi không thích những người làm chuyện chính trị".

Thưa bạn! Nếu tôi bảo: "Chính suy nghĩ đó đã nhuộm đỏ miền Nam, và cũng chính phát biểu đó, đã chẳng những nuôi dưỡng chế độ CS , mà còn tạo điều kiện cho CS thò cánh tay ra hải ngoại, quấy phá Cộng đồng người Việt tỵ nạn". Chắc chắn bạn sẽ không bao giờ tin tôi, chưa nói là bạn sẽ trút lên đầu tôi những lời lẽ không đẹp, bẩn thỉu nhất, có khi không chữ nghĩa tìm thấy trong từ điển.

Nầy nhé! Bạn theo tôi một thoáng trở về quá khứ. Bạn phải đồng ý với tôi một điều. Miền Nam được Thế giới Tự Do - đứng đầu là Mỹ - chọn làm tiền đồn chống Cộng, ngăn chặn hiểm họa CS đang bành trướng khắp vùng Đông Nam Á. Đó là cuộc chiến tranh "ý thức hệ".
Phía Miền Bắc, CS lấy chính trị làm đầu (Đảng lảnh đạo), và tuân theo sách lược chính trị của CS Quốc Tế. Trong Nam, "ý thức Quốc gia", chỉ là một ý niệm trừu tượng, không có lý luận khoa học, không được hệ thống hoá, không thể đương đầu nỗi với lý thuyết "CS". Đệ Nhất Cộng Hoà đã nghĩ ra đối sách, với học thuyết "nhân vị", tiếc rằng chưa hoàn chỉnh và không đủ sức thuyết phục nhân dân, trong công cuộc đấu tranh chính trị với CS.

Miền Bắc có Liên Sô và Trung cộng hổ trợ đắc lực trên mọi phương diện, vì có chung lý tưởng Quốc tế vô sản. Miền Nam , Mỹ hổ trợ về quân sự là chính. Về chiến tranh chính trị, phải nhờ Đài Loan cố vấn. Thực chất, có lý thuyết, mà không có phương tiện thực hành, có cũng như không. Nước Mỹ là một nước "Tư bản", chuyện đối kháng với Cộng Sản, là chuyện đương nhiên. Chính phủ Mỹ, không cần đến Chiến tranh Chính trị, để tranh thủ nhân dân. Họ chỉ có "Tâm lý chiến", mục đích phục vụ và nâng cao tinh thần, sức chiến đấu của binh sĩ. Mỹ đem mô hình của mình đến miền Nam và chỉ yễm trợ cho Tâm Lý Chiến. Hoàn toàn không quan tâm đến chính trị và cũng chẳng cung cấp bất cứ phương tiện nào để đấu tranh chính trị.

Điều dễ nhận thấy nhất là trong tổ chức Quân Đội: CS Bắc Việt đặt chính trị trên cả tác chiến. Chính Ủy có quyền uy tối thượng. Trong khi đó, Quân đội miền Nam đặt chính trị vào nhiệm vụ thứ yếu, là phó, là Ban 5, không chút thực quyền. Kết quả Bạn thấy đó, miền Nam thất thủ tại chính trường Mỹ. Người dân Mỹ chỉ thấy ảnh tướng Loan bắn vào đầu một tên Cộng Sản, mà không thấy hàng vạn nhân dân Miền Nam chết thê thảm vì Việt Cộng bằng mọi hình thức: đấu tố, đấp mô, phá cầu, đặt mìn, pháo kích bừa bãi. tấn công… Nhân dân Mỹ chỉ biết vụ Mỹ Lai, mà không hề biết Huế với những mồ chôn tập thể Tết Mậu Thân. Người dân Mỹ chỉ biết cái gọi là Mặt trận giải phóng miền Nam , chứ không hề thấy hàng hàng lớp lớp những sư đoàn chính qui Bắc Việt xâm nhập miền Nam … Thưa bạn. Phải chúng ta thua vì chính trị không bạn?

Bây giờ, trở lại thực tại bạn nhé! Xin nhắc một điều. VN là một nước Xã Hội Chủ Nghĩa (xác định đi theo một Chủ nghĩa là khẳng định đường lối chính trị đó bạn!), do Đảng lãnh đạo (Đảng không là tổ chức chính trị thì là gì, hở bạn?. Điều 4 Hiến Pháp của họ có ghi rõ, bạn có thể tham khảo thêm). Hỏi Bạn một câu : Nếu Bạn hợp tác với VNCS, có phải bạn chấp nhận những điều nêu trên không? Nhắc thêm cho bạn một chi tiết, CS có khẩu hiệu: "Yêu nước là yêu Xã Hội Chủ Nghĩa". Họ gài bạn đấy!

Họ khêu gợi lòng yêu nước của Bạn, dụ dỗ Bạn hợp tác và cuối cùng gán cho Bạn cái lập trường chính trị, Bạn không muốn cũng không được. Nếu Bạn cố cải chầy cải cối , là Bạn chỉ đem tài năng và chất xám phục vụ Tổ quốc, chứ không màng chính trị, tôi nhắc Bạn nhớ câu: "Hồng hơn Chuyên". Cộng sản đặt nặng chính trị hơn chuyên môn, bạn ạ!

Vẫn chưa tin ư? Bạn cứ phạm tội hình sự đi, Bạn sẽ được xét xử tại Toà án, và có ngày về. Còn nếu Bạn dính dấp đến chính trị, đoan chắc Bạn sẽ bị "cải tạo" trong tù, vô hạn định. Có lần, nếu Bạn có theo dõi thời sự, chắc Bạn biết sự kiện một chiếc tàu y tế bị cấm nhập bến ở VN? Ngay cả hoạt động chuyên môn phục vụ nhân đạo cũng phải chào thua "phục vụ chính trị".

Cũng chả cần bạn cộng tác, tiếp tay với họ, bạn chỉ làm thinh, làm ngơ trước các hoạt động của họ; Bạn đã đồng loả và tự bày tỏ lập trường thân Cộng rồi. Đôi khi những hành động tưởng như vô tình, làm theo "feeling" của mình. Bạn lại gây ảnh hưởng tai hại cho người khác trong công cuộc chống Cộng. Cái đó gọi là "thiếu ý thức chính trị", là "vô tình hại bạn", là "đâm sau lưng chiến sĩ".

Có hai sự kiện " nhạy cảm" mà cộng đồng người Việt hải ngoại vô cùng "bức xúc" (xin lỗi vì dùng chữ của CS). Sự kiện thứ nhất là "các nghệ sĩ VN qua". Sự kiện thứ hai là "các nhà từ thiện về". Nửa ý kiến ủng hộ, nửa chống đối.. Có quá nhiều phân tích về hai sự kiện nầy, ở đây, tôi chỉ nhìn qua khía cạnh chính trị.

Bạn ái mộ một nghệ sĩ, tặng hoa, chụp ảnh lưu niệm. Bạn nghỉ sao, nếu bức ảnh đó được guồng máy tuyên truyền khổng lồ của Cộng Sản minh họa trong chiến dịch lừa dối nhân dân, rằng thì là :"Việt kiều niềm nở đón tiếp các nghệ sĩ từ trong nước qua, trong tinh thần Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc"?. Bạn vô tình làm hại các cá nhân và tổ chức đối kháng rồi bạn biết không? Một hành động nhỏ và "mua vui trong chốc lát" của Bạn đã gây tác hại lớn và lâu dài. Tuy nhiên, nếu có ý thức chính trị, chỉ cần Buổi văn nghệ đó, có nền là cờ vàng của chúng ta, ta có thể hoá giải được mọi âm mưu thâm độc của CS, tha hồ bạn chụp hàng nghìn tấm ảnh lưu niệm mà không bị ai lợi dụng và cũng không hại ai cả.


Vấn đề thứ hai là công tác từ thiện tại VN, tôi không chống đối, dù thâm tâm tôi vẫn nghĩ, tại sao lại phải giúp nhà nước CS, lo chuyện an sinh xã hội, để họ tham nhũng, để họ làm giàu, để họ củng cố phương tiện tuyên truyền thò tay đánh phá cộng đồng (như các chưong trình Duyên Dáng VN tiêu pha hàng triệu đô la, chương trình vệ tinh truyền hình VTV4…). Tôi cũng suy nghĩ, thật sự ở VN không chỉ có các nhóm người được giúp đỡ là bất hạnh, mà hầu như - trừ Đảng ra - toàn dân đều bất hạnh và cần được giúp đỡ. Nhưng thôi, tôi nhìn sự kiện trên dây, qua gốc độ ý thức chính trị. Giả dụ mà các cơ quan từ thiện nầy treo được tấm bảng :

"Tổ chức nầy của Việt kiều… tặng", cho mọi người cùng thấy và cùng hiểu là chính Việt kiều chứ không phải Việt Cộng giúp đỡ họ, thì hay biết mấy.

Nếu không làm vậy, việc từ thiện sẽ bị Cộng Sản lợi dụng và tuyên truyền lếu láo: "Đảng đã vận động được khúc ruột xa nghìn dặm về gíup Đảng, giúp dân". Cướp công, cướp của là nghề của họ. Bạn chịu khó lật lại trang sử của Đảng, Bạn sẽ thấy họ rất thành công trong việc cướp công kháng chiến, cướp chính quyền, và năm 75 họ cướp cả miền Nam. "Cứu cánh biện minh cho phương tiện" là kim chỉ nam cho họ, Từ lời nói đến việc làm, họ dùng mọi phương cách dù tà đạo, xảo trá, gian ác và dã man đến đâu… miễn sao đạt được thắng lợi, đạt được mục đích yêu cầu của họ. Câu nóì của Cựu Tổng Thống Thiệu: "Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm", chỉ phản ánh một khía cạnh dối trá, chưa nói hết bản chất của CS là ác độc và tàn nhẫn.

Thưa Bạn. Nếu bạn qua Mỹ vì lý do kinh tế, tôi chúc bạn đạt được giấc mơ của Bạn. Dĩ nhiên, muốn thành công trên đất Mỹ, bạn phải hòa nhập vào xã hội Mỹ. Người Mỹ rất thích làm việc thiện nguyện.

Họ khuyến khích, tạo điều kiện cho mọi người làm chuyện thiện nguyện, ngoài mục đích san sẻ bớt gánh nặng cho Chính Phủ, nó còn mang giá trị đạo đức, khi quan tâm đến tha nhân. Tôi tin chắc Bạn sẽ tiếp thu được đức tính nầy của người Mỹ. Cho dù Bạn không thích chính trị. Cho dù Bạn không thích nhận mình là người Việt. Bạn cũng có thể thể hiện việc thiện nguyện cho một cộng đồng tỵ nạn khốn khổ, tuy sống an bình nơi miền đất hứa, mà lòng vẫn canh cánh về đồng bào và quê hương nghìn trùng xa cách.

Chuyện thiện nguyện rất đơn giản. "Mình không giúp ích gì cho cộng đồng, thì cũng không làm gì phương hại cho cộng đồng, không làm đồng hương phiền lòng, nản lòng". Bạn không thích chuyện chính trị, mà phê phán ý thức chính trị của người khác, mặc nhiên, bạn đã đứng vào phe chính trị đối nghịch. Bạn hãy làm một chuyện thiện nguyện trên bình diện tinh thần là "giữ im lặng" trước công cuộc chống Cộng của người khác. Bạn đã không ủng hộ thì cũng xin đừng biểu tỏ thái độ hoặc ngôn ngữ chống báng. Được vậy, bạn gián tiếp giúp đỡ thiện nguyện cho cộng đồng rồi đó! Thực ra, nếu Bạn qua đây theo diện tỵ nạn chính trị một cách trực tiếp, hay chính trị, gắn liền vào cuộc đời của người tỵ nạn chính trị. Cho dù bạn muốn nhận hay không muốn nhận. Lại nữa, nếu bạn là một "con người" đúng nghĩa, Bạn phải mang trong người bổn phận và trách nhiệm với vợ…v..v.. Là một thành viên của cộng đồng, bạn không thể trốn tránh bổn phận và trách nhiệm trước Cộng Đồng. Xa hơn nữa, là một người dân, Bạn phải có bổn phận với dân tộc và nghĩa vụ với quốc gia.

Chúng ta đang sống trong một xứ sở Tự Do. Bạn có quyền tự do "không thích chính trị". Tôi xoá bỏ tư tưởng không tốt trong đầu, khi cho rằng Bạn không thích chuyện chính trị chỉ vì Bạn sợ đường về quê hương của Bạn gặp trở ngại với CS. Tôi nghỉ đơn thuần, chỉ vì Bạn muốn ung dung tự toại, thụ hưởng thành quả mà bạn đạt được trên đất khách quê người.


Tôi cũng chẳng có ý nghỉ là bạn phải có bổn phận và trách nhiệm gì với cộng đồng. Tôi chỉ xin Bạn làm thêm một việc thiện nguyện thứ hai, cụ thể là xa lánh các văn hoá phẩm độc hại của CS, các cơ sở giao du với CS, các cửa hàng , chợ búa bán hàng CS. Bảo đảm trăm phần trăm với Bạn, không có cái gì liên hệ với CS mà không mang chất chính trị trong đó.

Lấy một ví dụ nhỏ thật nhỏ, trong các phim truyện VN, thế nào bạn cũng có dịp nhìn lá cờ máu, nhìn hình tượng "ảo" ông công an thật dễ thương dễ mến!… Chính trị chỗ đó, đó bạn !

Bạn không thích chính trị, tốt nhất là đừng xem, đừng thưởng thức, đừng tiêu thụ, đừng phổ biến những gì dính dấp với CS. Được vậy, Bạn mới công tâm, mới "fair" với tôn chỉ "không thích chính trị" của bạn
. Chắc là việc nầy không khó và cũng chẳng ảnh hưởng gì không tốt đến cá nhân bạn, phải không bạn? Chân thành cám ơn Bạn chịu khó đọc những dòng nầy.

Chào Bạn..
Nguyen Sang

25 thg 3, 2009

BÍ MẬT CỦA BỘ NÃO


Ronald Kotulak
Nhìn những sao trời, nó mơ ước đến cõi vô tận. Nghe tiếng chim hót, nó dàn dựng thế giới âm nhạc. Ngửi mùi hương, nó sảng khoái, say đắm. Sờ mó vật dụng, nó lay chuyển, biến hóa trái đất. Nhưng nếu tước đọat những kinh nghiệm giác quan đó, nó sẽ tàn tạ, biến mất. Nó chính là bộ não của con người trên mặt đất.
Nhũng nhà khoa học từ lâu đã tự hỏi là làm sao bộ não có thể làm mọi việc: tạo dựng một người thành một thi sĩ, một người khác thành người xây dựng hay nhạc sĩ, và một kẻ khác trở thành kẻ tội phạm hay ngoài vòng pháp luật. Cho đến nay, những nhà nghiên cứu y học vẫn không bao giờ nghĩ rằng họ có thể hiểu được những vận hành bên trong của bộ não. Họ có thể nhận ra rằng một cậu bé có thể rất lành, khả ái nếu được thương yêu, sống trong một môi trường sinh động, tiếp nhận những kinh nghiệm năng động; trong khi đó, một cậu khác bị ngược đãi sẽ trở thành kẻ khó chịu, hư hỏng. Nhưng không một ai biết điều gì hay cái gì đã xãy ra bên trong bộ não, cái gì làm một người thành công và kẻ khác một tay chống phá xã hội.
Những nhà nghiên cứu không ngừng đánh giá những gì đã đi vào bộ não và học hỏi cái gì xãy ra sau đó. Bộ não vẫn chỉ được coi như một "hộp đen". Nhưng giờ đây, những bí mật của nó đã và đang được tiết lộ.
Hai trong nhiều khám phá sâu sắc và kinh ngac nhất là bộ não xử dụng thế giới bên ngoài (qua tai, mắt, mũi, miệng, da) để tạo dựng nên chính nó; và nó phải trãi qua những thời kỳ quan trọng trong đó những tế bào não bộ (tế bào thần kinh) phài nhận nhiều loại kích thích để có thể phát triển những trung tâm khả năng như thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác ..v..v..
Những khám phá mới này làm đảo ngược ý niệm xa xưa của một bộ não thụ động, cứng đơ, một đơn vị tự động chậm chạp khởi động phương sách học hỏi từ một loạt những qui luật không đổi, đặt sẵn giống như một máy thâu, ghi nhận những gì nó nghe được.
Bây giờ, nhờ vào cuộc cách mạng gần đây trong sinh học phân tử và những kỹ thuật nhận hình mới, những nhà nghiên cứu tin rằng Genes những nhiễm sắc thể, những bản đồ hoá chất về đời sống, dựng nên khung sườn của bộ não, rồi môi trường đảm nhiệm, cung ứng những nét hoàn tất còn lại. Cả hai làm việc cùng lúc. Nhiễm sắc thể cung cấp những khối xây dựng căn bản, và môi trường hành động như một kẻ thi công, đưa ra những mệnh lệnh cho công trình kết thúc.
Những khám phá này đã đang làm thay đổi cách thức con người suy nghĩ và rọi chiếu những nguyên nhân sinh học của bản chất con người.
"Trong vòng định sẵn, sắp đặt rộng lớn của genes nhiễm sắc thể cho con người, giờ đây, sự hiểu biết đã được tăng thêm, rằng môi trường có thể ảnh hưởng đến bạn, nơi bạn đang sống ảnh hưỏng đến con người của bạn." Đó là lời của Dr.Fr. Goodwin, cựu Giám đốc Viện sức khỏe tâm thần cuả quốc gia. Ông nói tiếp: "Bạn không thể tăng một người có chỉ số thông minh IQ từ 70 trở thành 120, nhưng bạn có thể thay đổi chỉ số đó một cách khác, có thể 20 điểm tuỳ theo môi trường của họ".
Khám phá rằng thế giới bên ngoài thực sự là thực phẩm chính của bộ não, là một điều kỳ lạ. Bộ não hành xử môi trường bên ngoài như những nguồn năng lượng qua hệ thống giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giá và vị giác. Rồi thế giới đã tiêu hoá này, được sắp xếp, cấu kết thành hàng triệu triệu mạch nối tiếp chằng chịt giữa các tế bào thần kinh mà chúng sẽ tăng trưởng hoặc chết đi, hoặc vững mạnh hơn hay yếu đi, tuỳ thuộc vào sự sung mãn hay cạn khô của môi trưòng.
“ Giống như bộ máy tiêu hoá có thể đáp ứng vào nhiều loại thực phẩm, bộ não cũng đáp ứng theo kinh nghiệm dù phong phú hay không, dù nhiều hay ít.” Đó là lời của Giáo sư F. Earls, Giáo sư của Đại học Hardvard.
Làm thế nào một bé thơ học tiếng Anh hay tiếng Hindu hoặc thích ứng sống còn tại Thụy Điển hay tại Ghana, hoặc ăn thit bò và khoai lang hay ăn cá sống và rong biển, tất cả đều tuỳ thuộc vào sự linh động vĩ đại của bộ não.
“Mọi đứa trẻ sơ sinh đều đòi hỏi sữa trước khi ăn thức-ăn cứng “Earls nói,” Có phải là công việc tương đồng như thế cho mỗi bộ não không? Câu trả lời rõ ràng : đúng là như thế. Bộ não cần sự kích thích: sờ mó, cầm nắm, ngắm nhìn, nghe, nói…v..v..”
Nhiều cuộc thí nghiệm gần đây đã chứng tỏ làm thế nào tế bào thần kinh có thể sắp xếp lại 500 triệu triệu mạch như thế hoặc hơn thế để đáp ứng lại những kích thích mà chúng được nuôi dưỡng.
* Thị giác : Magrinka Sur của viện kỹ thuật Massachusetts đã chuyển hoá tế bào diễn dịch âm thanh thành tế bào có thể điều khiển nhũng hình ảnh của mắt bằng cách kết nối chúng với những kích thích đến từ bên ngoài qua mắt. Thí nghiệm này chứng tỏ khả năng liên chuyển của tế bào thần kinh.
* Xúc giác : Khi những con khỉ được phép chỉ dùng một ngón tay để làm một công việc, nhà khoa học tế bào thần kinh M. Merzenich của trường đại học California ở San Francisco đã nhận ra rằng những tế bào não bộ của những ngón tay không xử dụng đã chuyển phận sự của chúng co những phần khác của bàn tay. Điều kỳ diệu là những tế bào trưởng thành có thể làm công việc hoàn toàn mới mẽ này.
* Khứu giác : Khao khát học hỏi từ lúc mới sinh, một sơ sinh đầu tiên tiếp cận với người mẹ qua khứu giác. M. Leon của trường đại học Nam California đã khám phá ra rằng chỉ trong tíc tắc đầu tiên, trẻ sơ sinh đã ngửi được mùi thân thể của người mẹ, hệ thống mạch nhanh chóng thành hình trong bộ não.
Thính giác : Không có một kích thích hợp lý, những mạch kết nối để các tế bào thần kinh cấu kết và tạo dựng âm thanh và ngôn ngữ trở nên hổn độn. Chúng không tạo được những cột trụ chính, mà đó chính là điểm đặc sắc trong cách kiến trúc của bộ não. Theo Martha Pierson của trường đại học cộng đồng y khoa Baylor, tình trạng hổn độn này đưa đến những rối loạn thần kinh,ngôn ngữ…. Thí nghiệm đặc biệt của Pierson cho thấy rằng làm thế nào kinh nghiệm hoặc thiếu nó, có thể thay đổi não bộ về thể chất và gây nên những bất ổn tinh thần.
McEwen của Đại học Rockefeller nói rằng điều quan trọng nhất là phải biết bộ não luôn luôn lớn mạnh và thay đổi theo thời gian. Nó cần được kích thích và không bao giờ chậm khi nuôi dưỡng nó. Xử dụng nó hay mất nó.

R.KOTULAK

Diễn dịch: Nguyễn Việt Việt

23 thg 3, 2009

Diệt Sợ Hãi

Hè vừa qua về thăm quê hương tôi có dịp tiếp xúc với nhóm người được cho là có ăn có học, là một trong hai cột trụ nâng đỡ xã hội xưa nay, và được nhắc nhớ trong dân gian “nhất sĩ nhì nông”… Nhưng mỗi khi tôi luận bàn đến vấn đề áp bức bất công của xã hội hiện hành, thì nhiều người đã hoảng hốt và tránh né trả lời những điều thành thật phát xuất tận đáy lòng của tôi nêu ra. Họ vô cảm, hay đã bị mắc chứng bệnh “liệt kháng trước bất công?”

Sợ là đối lực của tự tin.

Sợ là kẻ thù của thành công.

Sợ là chướng ngại trên con đường cứu nước.

Sợ làm ta bỏ lỡ cơ hội tiến thân. Sợ khiến ta mệt mỏi chán chường. Sợ nhắc ta im lặng mỗi khi muốn nói… Sợ cản bước ta đấu tranh để xây dựng và phát triển đời sống hạnh phúc làm người. Sợ cho ta an phận thủ thường. Sợ biến ta thành kẻ bại liệt trước bất công!

Tất cả mọi nỗi sợ hãi của con người chúng ta đều khởi nguồn từ sự lo lắng hoảng hốt và tưởng tượng ra. Sợ bắt đầu từ phút thoáng qua trong trí óc. Sợ lan dần ra ngoài chân tay. Sợ giết chết niềm tự tin tự hào dân tộc.

Muốn có thành công, chúng ta phải diệt trừ sợ hãi, và xây dựng niềm tin. Muốn Diệt Sợ Hãi, chúng ta phải tìm ra căn bệnh sợ sệt và những phương pháp trị liệu.

Diệt Sợ Hãi, xây đắp niềm tin, chúng ta cần thực thi hai điều sau đây:

- Phân loại sợ hãi và tìm hiểu xem ta đang sợ cái gì

- Phương pháp chữa trị và dùng những hoạt động thích ứng với cái loại ta đang sợ đó

Mỗi khi chúng ta chạm trán với thử thách, đối diện với khó khăn, hay đứng trước công việc dù lớn dù nhỏ, đơn giản hay phức tạp… mỗi người đều có những phản ứng riêng. Có người nhìn công việc khó khăn và to lớn đó, lại có vẻ ung dung nhàn hạ… rồi tiến tới quả quyết “Tôi làm được.”

Nhưng có người lại nhìn công việc đó với một thoáng do dự tần ngần rồi đứng yên bất động. Lại có người vừa khi thấy công việc đó thì họ sợ hãi và khủng hoảng tinh thần.

Như thế, người ung dung nhàn hạ và có niềm tin tỏa sáng kia, có phải vì họ sinh ra là có sẵn niềm tự tin chăng?

Chắc là không. Không ai sinh ra mà có sẵn niềm tin. Người ấy đã phải tự chinh phục lo âu, xóa tan mặc cảm lo sợ, và họ thâu đạt tự tin mỗi lần một ít, “tích tiểu thành đa, tích đa thành sự” mà tới lúc chính họ sống tràn đầy niềm tin.

Mọi người chúng ta cũng thế, cũng có cùng tiến trình phát triển, nhưng chỉ khác chăng, là chúng ta đang sống trong môi trường thuận lợi hoặc bất lợi mà ra.

Hai em bé cùng vóc dáng, cùng lứa tuổi, và được hai mẹ chở tới trường học. Một em vừa tới lớp học là em đã nhập bạn và chơi đùa vui vẻ. Nhưng em kia thì ôm ghì chân mẹ, em sợ hãi khóc thét mỗi khi nhìn thấy chúng bạn lại gần... Mặc cho mẹ em vỗ về “Không sao đâu con?” “Có chi mà sợ?” Mẹ đã cố tình tách em ra xa, nhưng càng xa thì em càng sợ, và níu chặt lấy mẹ. Mẹ nhắc nhở “đừng sợ” thì em lại “càng sợ”… Nỗi sợ hãi tăng trưởng, tồn tại, hiện hữu trong em.

Vậy có phải vì bẩm sinh mà có em bạo dạn hay có em nhút nhát?

Chắc là không. Em dạn dĩ thì chính em cũng đã trải qua bao nỗi kinh hoàng khiếp sợ. Nhưng giờ này em có can đảm và tự tin để chạy đến làm quen với nhóm bạn trong trường, là bởi vì em đã đi chơi, đã gặp mặt với những trò chơi giao tế và tiếp xúc chúng bạn. Em đã quen, không còn sợ hãi.

Để phân bệnh sợ hãi, chúng ta có thể xem bộ óc con người như một ngân hàng trí nhớ. Mỗi ngày thâu thập nhiều dữ kiện từ điều tai nghe mắt thấy… qua những hình ảnh các em cô nhi ốm yếu chìa xương, các cụ quả phụ lang thang rách rưới… Các cảnh thương tâm đau lòng đó càng ngày càng lớn dần trong ngân hàng trí nhớ của chúng ta. Cho tới một lúc, chính chúng ta đối diện với trở ngại và suy nghĩ, thì ngân hàng trí nhớ lại hiện ra với câu hỏi, “Liệu ta có gặp trở ngại này chưa?”

Ngân hàng trí nhớ của chúng ta cũng tiếp tục cung cấp tin tức hay dữ kiện liên quan tới vấn đề chúng ta đang gặp, rồi tự động đào sâu, phân tích, lượng định, tổng hợp, đúc kết… cuối cùng là ta đề ra biện pháp giải quyết trở ngại theo một chiều hướng tốt hoặc xấu, can đảm tự tin hay yếu đuối hèn nhát. Tất cả đều do ngân hàng trí nhớ tích lũy của chúng ta mà ra.

Vì thế chúng ta muốn Diệt Sợ Hãi thì cần thực hiện hai điều như sau:

- Thâu vào ngân hàng trí nhớ của mình hình ảnh tốt đẹp, hăng hái và thành công

- Loại bỏ những hình xấu, mặc cảm và thất bại ra khỏi ngân hàng trí nhớ của mình

Hãy tập thói quen mỗi đêm trước giấc ngủ, chúng ta ôn lại trong trí nhớ của mình trong ngày về những điều tốt việc đẹp mà mình đã thấy, đã làm... Từ đó, chúng ta tìm kiếm ra nguyên nhân giúp mình sống vui và làm việc một cách thoải mái; không cho mầm mống bi quan, đen tối có cơ hội tồn tại hoặc tỏa lan trong tâm trí của mình.

Vẫn biết bệnh sợ là phát sinh do tâm lý. Muốn chữa bệnh tâm thần thì chúng ta phải dùng tâm lý trị liệu. Nhưng nhà tâm lý học, cũng đành bó tay, nếu người nhiễm bệnh không thực hiện một điều mà chỉ chính người sợ đó mới có khả năng chữa lành bệnh. Đó là diệt trừ “tư tưởng bi quan chán nản và tuyệt vọng.”

Hầu hết những con bệnh sợ, đều bắt nguồn từ tư tưởng bi quan chán nản, tuyệt vọng và công cuộc thất bại khởi đầu từ bệnh sợ mà ra mà có.

Có nhiều gia đình đổ vỡ vì do bệnh sợ. Họ sợ nên không dám đối diện với sự thật. Họ sợ nên không dám nói ra những điều mình không vừa ý. Họ sợ nên chính họ lại bị rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng.

Cũng bởi bệnh sợ đã tạo nên những thiên tình sử đẫm lệ, những khúc bi ai khôn tả… Cũng vì sợ, mà khi ta yêu nhau đã không dám tỏ tình. Cũng vì sợ, mà ta lại để cho người yêu bước lên xe hoa về nhà chồng, để khiến ta âm thầm đau khổ, ôm mối tình sầu và oán trách cao xanh sao nỡ gây cảnh thương tâm éo le, phân ly bẽ bàng. Tất cả vì sợ mà không dám nói ra.

Có nhiều người sợ nên bỏ lỡ cơ hội tiến thân. Trong nghề nghiệp, hoặc ngoài xã hội, có nhiều người sợ mình kém khả năng, không dám đương đầu với vai trò được giao phó. Có nhiều người sợ bạo quyền đến nỗi từ bỏ cả bạn bè thân thiết, không dám đến tiếp xúc, không dám nghe điều hay lẽ phải… Với chính sách đấu tố “trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ” của Cộng Sản, thì nông dân Việt Nam lâm vào “Con Bệnh Sợ Hãi,” phó mặc cho đảng CSVN chém giết cướp đoạt ruộng đất mà dựng nông trường… Đang khi xưa nay nuôi sống con người là do nông dân, chớ nước ta chưa có kỹ nghệ hay máy móc thay thế.

Cột trụ xã hội đầu tiên nâng đỡ là nông dân, thì người nông dân lại đã bị CSVN cưa đổ. Tiếp đến trụ cột nâng đỡ xã hội thứ hai, và làm cho xã hội văn minh là người trí thức thì lại đã bị CSVN đồng hóa với lớp người “ăn trên ngồi trốc,” mà chúng ra tay tiêu diệt.

Hai cột trụ nâng đỡ xã hội: “Nhất Sĩ Nhì Nông,” nay bị CSVN cưa đổ, thì hậu quả mang lại là làm cho cả nước trở thành nghèo đói, lạc hậu… và làm cho “Con Bệnh Sợ Hãi” phát sinh. Cái nghịch lý của CSVN là họ phá tan xã hội, rồi họ lại tạo ra ngục tù u tối. Để từ ngục tù u tối đó, họ lại bắt đầu mò mẫm đi tìm đầu mối để dựng lại các cột khói của thời đại kỹ nghệ, đang khi chính họ lại không phải là trí thức hay chuyên viên kỹ thuật. Đó là hai nguyên nhân “người sợ người,” và “sợ kém khả năng” đang tràn ngập trong xã hội Việt Nam hôm nay.

1. Tại sao ta “sợ kém khả năng?” - Vì ta thiếu tự tin.

2. Tại sao “người sợ người?” - Vì ta thiếu tự chủ.

Bởi vì điều kiện của “tự do” là tự chủ. Điều kiện của “tự chủ” là tự quyết, là cái quyền được tự mình quyết định. Điều kiện của “tự quyết” là khả năng nhận định và ý thức trách nhiệm của mỗi người chúng ta, và do đó chúng ta phải “Diệt Sợ Hãi.”

Xin đơn cử một mẫu người Diệt Sợ Hãi để thành công, đó là nhân vật lịch sử Lý Quang Diệu, Thủ Tướng của đất nước Tân Gia Ba. Muốn tìm hiểu ông Diệu đã xóa tan nỗi sợ ra sao, chúng ta hãy xem lại một phần cuộc đời sinh hoạt chính trị của ông.

Lý Quang Diệu mở mắt chào đời và nhìn ra thế giới bên ngoài, từ một buổi sáng giông tố của ngày Thứ Hai, Tháng Hai, năm 1942, khi thiết đoàn chiến xa Nhật Bản nghiền nát mộng xâm lăng của thực dân Anh trên bán đảo Tân Gia Ba, một vùng vốn sẵn an toàn với bao hứa hẹn về tương lai kinh tế, thì nay bỗng dưng xảy ra với những cảnh chiến tranh đau thương và người dân đói nghèo sợ hãi.

Quân đội Nhật đã rắc gieo bao nỗi kinh hoàng vào tháng ngày cuối cùng của Thế Giới Đại Chiến năm ấy. Từng đoàn người bị bắt tải lên xe với bao kinh hoàng khiếp sợ. Trong nhóm những người bị bắt ngày ấy có người thanh niên Lý Quang Diệu đang nghĩ rằng nếu mình khuất phục quân Nhật, thì sẽ không còn cơ hội có ngày trở về hoạt động để phục vụ cho dân ông… Đang lúc lo âu bối rối thì anh chàng họ Lý quyết định “vượt ngục,”… và tất cả những người Tân Gia Ba bị bắt hôm ấy đã bị quân đội Nhật Bản tàn sát ngay sau đó, không còn kẻ nào sống sót.

Lý Quang Diệu đã trốn thoát. Từ đó ông Diệu không quên bao nỗi kinh hoàng khiếp sợ của ông và những người đồng hương với ông… trước những họng súng tàn sát dã man của đám lính Nhật.

Sau chiến tranh Lý Quang Diệu xin vào học trường Đại Học Cambridge Anh Quốc. Ông tốt nghiệp và trở về Tân Gia Ba năm 1950, từ một thành viên bình thường của Đảng Quốc Gia (Nationalist Party), ông “Diệt Sợ Hãi,” nhiệt tình tham gia hoạt động để tự tạo cho mình thành một người lãnh đạo tên tuổi.

Lý Quang Diệu tự tin vào khả năng chính trị của mình, nên đã đứng ra tố cáo chế độ theo chủ nghĩa xã hội (socialism) và chủ nghĩa thực dân (colonialism) đã làm cho nước ông nghèo nàn và chậm tiến.

Sau 9 năm tranh đấu cho độc lập của xứ sở, năm 1959, Lý Quang Diệu đã chiếm được vai trò Thủ Tướng, thành lập Đảng Nhân Dân Hành Động (People’s Action Party) để hoạt động và phục vụ cho xứ sở của ông. Rồi từ đó, ông đã liên tiếp thành công trong trách nhiệm của một nhà lãnh đạo Tân Gia Ba, làm cho nước này trở thành giàu đẹp, tiếng tăm vang dội trong khu vực Châu Á và lan tỏa ra khắp nơi trên thế giới.

Thủ tướng Lý Quang Diệu về hưu năm 1990, sau 31 năm cầm quyền lãnh đạo đất nước. Ông còn đó để chứng kiến tương lai rực rỡ của Tân Gia Ba, với niềm tự tin tự hào mà ông hành xử bài học Diệt Sợ Hãi của ông, một bài học hiếm quý!

* * * *

Tại sao “Người Sợ Người?” Có phải vì ta mắc cở, thiếu tự tin tự chủ mỗi khi đứng trước đám đông?

Chúng ta không thể từ chối hiện tượng “sợ người/ sợ Vi Xi” đang xảy ra nhan nhản trước mắt. Muốn chinh phục, muốn điều trị căn bệnh sợ người, thiết tưởng có cách là người ấy cần đặt mình vào trường hợp như câu chuyện người cháu tôi dưới đây:

Cháu cũng Diệt Sợ Hãi. Nhớ lại ngày mới đi nghĩa vụ, cháu rất nhút nhát và mắc cở. Cháu sợ người, sợ hết mọi người, sợ cán bộ cấp trên, vì cháu sinh ra trong nghịch cảnh thất trận của cha bác… Bởi thế sau năm 1975, cháu không được đi học như lớp bạn cùng tuổi với cháu là con cán bộ trong làng xã này. Và cái học của cháu, thực ra cháu chỉ được bố cháu cho học chuyển nghề, nhưng lớp thợ tiện của cháu lại chỉ học “chủ thuyết Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh.” Nhìn vào thế giới bao quanh, cháu cảm nhận vô cùng nhục nhã và thua kém mọi người. Cháu thấy ai cũng thông minh, ai cũng giỏi hơn cháu. Cháu sợ người vì cháu sinh ra trong thất bại.

Cho tới một hôm, cơ duyên may đến với cháu và giúp cháu giảm bớt nỗi sợ hãi. Cháu được chuyển về làm việc ở một cấp nhỏ trong Viện Quân Y 121, nơi đây, cháu được gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều loại người: người cấp cao cấp thấp, người hàm bé hàm to... Rồi nguồn gốc và nghề nghiệp của họ cũng khác biệt. Người là sinh viên; Người là nông dân; Người làm kinh doanh buôn bán… Cháu thấy họ ai cũng giống nhau. Ai cũng thích ăn ngon mặc đẹp, ai mà chẳng muốn học hành, ai mà chẳng nhớ vợ nhớ con… Nhìn chung thì họ cũng giống như cháu, họ chẳng có điểm nào khác lạ khiến cháu phải khiếp sợ... Nếu là người thất học thì cháu sẽ tự học, cháu mất dần cảm giác sợ người, lúc đó cháu nhớ ra lời Bác Hai, viên sĩ quan phi công Việt Nam Cộng Hòa, đã dày kinh nghiệm và khuyên nhủ cháu: “Tự học tự thắng để chỉ huy cháu ạ!” Cháu cảm nghiệm bài học “Diệt Sợ Hãi” của Bác Hai, mà bố cháu ghi nhớ để kể về ngày Bác Hai và gia đình xuống thuyền tam bản vượt biên năm xưa. Cuộc đời “vượt ngục” của Bác Hai cũng tương tự câu chuyện Thủ Tướng Lý Quang Diệu!

Bởi đó, cháu khám phá ra, truy cứu ra nguồn gốc của căn bệnh sợ người, cháu sợ vì thiếu văn hóa trường lớp. Và diệt sợ hãi, cháu tự học, học lớp bổ túc, học được chút nào hay chút ấy. Cháu học thuộc lòng và luôn suy nghĩ về những ý tưởng trong bài viết của Bác Hai. Sau ngày phục viên, cháu về làm việc ở xã nhà, cháu muốn có cơ hội phục vụ cho bà con họ hàng nhà mình, và được bầu làm chủ tịch xã như hôm nay.

Tương tự diệt sợ hãi của người cháu trong câu chuyện nêu trên, và để chữa trị chúng ta cần khởi đầu với hai nguyên tắc căn bản:

(1) Tự đặt mình vào hoàn cảnh, vào cùng vị trí ngang hàng với người tiếp xúc. Khi tiếp xúc, ta nghĩ họ – người tiếp xúc là – quan trọng, thì ta cũng là người quan trọng. Ta và họ là hai con người, hai nhân vật quan trọng gặp nhau để bàn bạc, thảo luận về những gì mà hai bên cùng có lợi, cùng hữu ích.

(2) Phát huy phong cách hiểu biết đúng đắn của mình. Trong thảo luận chúng ta cần biểu lộ một thái độ biết lắng nghe, thành thật lắng nghe những ý kiến đúng. Tuyệt đối tránh ý tưởng manh động là kẻ đối diện với mình, là người ấy chẳng biết gì!

Ngoài bệnh sợ người, ta còn nỗi sợ hãi tiềm ẩn từ trong tâm khảm, từ trong trạng huống bất an như trường hợp của người cháu nói trên. Từ tinh thần bất hạnh trong cuộc sống, suy nhược bởi thời thế, thất bại nơi trường ốc, thua thiệt ngoài trường đời… đã làm gia tăng bệnh sợ hãi. Những nỗi sợ hãi ấy đã hình thành do tâm lý, phương pháp chữa trị cũng cần có một nhà tâm lý học như câu chuyện sau đây:

- Có người mẹ trẻ 30 tuổi hai đứa con đang rơi vào tuyệt vọng. Bà nhìn lại cuộc sống đã qua chỉ thấy những điều đau khổ và bất hạnh. Những năm tháng cắp sách đi học, những tháng năm lo gánh vác giang sơn nhà chồng… rồi nhu cầu các con với những tháng năm ở nơi mà bà cư ngụ, thì bà chẳng thấy niềm vui mà chỉ tràn ngập bóng tối, khiếm khuyết hạnh phúc. Những sự kiện buồn nản đã in sâu vào trong ký ức của bà… nhà tâm lý học, giờ đây không thể xóa hết những hình ảnh đau khổ trong thâm tâm của bà ngay cùng một lúc. Ông phân ra từng phần nhỏ, do kinh nghiệm của ông, để chữa trị cho bệnh nhân này. Ông chứng minh cho bà thấy cơ hội chuyển mình vươn lên thay vì ngồi than thở, ngắm nhìn và nguyền rủa bóng tối tuyệt vọng. Ông yêu cầu bà mỗi ngày hãy viết xuống trang giấy với ba việc trong ngày đã làm cho bà vui. Đến hẹn, ông đọc lại hết những điều bà vừa ý. Ông giữ phương pháp chữa trị đó liên tiếp ba tháng, thì có kết qủa. Bà đã loại bỏ tư tưởng bi quan trong trí óc, và bà đã thấy niềm vui. Từ đó bà ngẩng cao đầu bước đi với cuộc sống có niềm tin sáng lạng.

Xem xét câu chuyện trên, chúng ta thấy nhà tâm lý học này đã thực sự giúp người mẹ trẻ kia xóa tan sợ hãi, làm lại cuộc đời bằng cách thay thế dần những hình ảnh bi quan, đen tối, tuyệt vọng bằng những hình ảnh lạc quan, tươi sáng, tràn đầy hy vọng, và ông đã thành công.

Ở đời có một nỗi sợ đã giết dần giết mòn niềm tự tin, đó là việc làm sai trái. Và làm sao mà ta phân định được việc làm nào đúng, việc làm nào sai? Khách quan mà xét, thì không ai có thể khẳng định được việc làm đúng hoặc sai, trừ khi đương sự có tham dự, có nhìn nhận, có tự xét việc làm đó khi hoàn tất.

- Một gia đình đang sống hạnh phúc, bỗng dưng một trong hai người vợ hoặc chồng đã tạo cuộc tình bí mật với người khác. Mặc dù hành động phản bội chưa ai biết, nhưng người gây ra trong một lúc nào đó cũng ân hận và cảm thấy mình có lỗi, khiến cho họ thường hốt hoảng, mất dần mất mòn niềm tin trong người.

- Vì tham vọng cá nhân bất chính, có người dùng thủ đoạn gian manh, tàn ác mà ám hại người ngay thẳng liêm chính. Cho tới khi đạt được mục đích thì lương tâm của họ lại bị cắn rứt, khiến cho họ tinh thần căng thẳng và giảm dần niềm tự tin.

- Trong thương trường có người dùng mưu kế mà lường gạt kẻ khác, rồi dần dà không còn ai tin nữa. Từ đó họ trở thành kẻ cô đơn và mất tự tin.

Bởi thế trong việc xây dựng niềm tự tin cho thanh niên Việt Nam ngày nay, chúng ta cần làm là, “Suy nghĩ đúng, hành động đúng, mới giúp ta thêm tự tin.” Ngoài việc Diệt Sợ Hãi chúng ta cần phải hành xử đúng đắn, vì chính việc hành xử đúng đắn mới gíup cho tâm ta bình, trí ta sáng, người ta an nhàn thảnh thơi. Ngược lại, người làm sai thường bị lương tâm cắn rứt, và họ tự giết chết niềm tự tin, hơn thế nữa, kẻ gian dối lường gạt, sớm muộn thì người ta cũng sẽ phát giác, và không còn ai tin tưởng người ấy nữa.

Những nguyên tắc xây niềm tự tin:

Ngồi phía trước. Trong các cuộc hội họp, lớp học, cơ quan, hãng xưởng, nhà thờ, chùa chiền… muốn tạo được sự tự tin người thanh niên Việt chúng ta nên hiên ngang bước vào những hàng ghế đầu, bởi vì những người ngồi ở hàng ghế sau thường là những người sợ diễn giả hay chủ tọa chú ý, thấy mặt. Họ thiếu tự tin.

Nhìn thẳng: “Mắt là cửa sổ tâm hồn.” Khi chúng ta nhìn thẳng vào con mắt của người đối diện, ánh mắt của chúng ta sẽ cho họ biết con người của chúng ta, và ngược lại. Nếu chúng ta không dám nhìn thẳng, tức là chúng ta vẫn còn cảm thấy mình nhỏ bé, thua kém và sợ người. Nhìn thẳng là tự tin, là chúng ta chinh phục được sợ người.

Bước nhanh hơn bình thường: Tôi về Việt Nam thấy mọi người đều chậm chạp, và chúng ta cần sửa lại. Bước nhanh khiến chúng ta cảm nhận rằng mình tự tin, bước nhanh để nói với thế giới bao quanh: “Tôi có việc quan trọng phải làm, tôi có chỗ quan trọng phải tới. Tôi sẽ thành công và tôi bắt đầu ngay từ bây giờ.”

Tập phát biểu ý kiến: Chúng ta cần tập góp ý, phê bình, đặt câu hỏi trong mỗi cuộc hội họp ở bất cứ nơi đâu. Đừng sợ người khác ganh tị, ghen ghét, hay chê bai… vì nếu họ không đồng ý với lập luận đúng đắn mà chúng ta đề ra, thì cũng còn nhiều người muốn nghe và đồng ý với chúng ta. Phát biểu là điều kiện xây dựng niềm tự tin.

Cười lớn: Chúng ta cảm thấy như thế nào khi mình cười lớn trong lúc thất bại. Cười lớn giúp chúng ta thêm tự tin, cười lớn phá tan sợ hãi, cuốn trôi bận tâm thất bại, để ta xắn tay áo lên mà làm tiếp, dựng lại cuộc sống an lạc thanh bình hạnh phúc. Cười là liều thuốc tuyệt hảo của tự tin. Ngược lại vẫn có ít người cố gắng cười trong lúc mình gặp sợ hãi hay thất bại.

Bạn hãy cười để thấy được sức mạnh trong tiếng cười của bạn!

Tóm lại người Thanh Niên Việt Nam chúng ta hãy Diệt Sợ Hãi, xây dựng niềm tin hôm nay để có thành công ngày mai.
Phạm Văn Bản
23.03.2009

Trung Cộng khai thác mõ bauxite Tây Nguyên!

Lê Thành Nhân

Trong những ngày qua, dư luận đồng bào trong và ngoài nước lên án đảng CSVN, đứng đầu là Nguyễn Tấn Dũng bất chấp dư luận đồng bào, không quan tâm đến ý kiến đóng góp của các nhà khoa học chuyên môn, lờ đi những bản lên tiếng của những người đã từng giữ chức vụ cao trong đảng CSVN như cựu Đại Tướng CSVN Võ Nguyên Giáp, và cựu Đại Sứ CSVN tại Trung Cộng từ năm 1974-1989, Nguyễn Tấn Vĩnh. Bộ chính trị đảng CSVN vẫn cao ngạo cho rằng “việc khai thác quặng bauxite tại Tây Nguyên là dự án lớn của đảng và nhà nước và Bộ Chính Trị đã ba lần nghe, kết luận và nhà nước đã phê chuẩn dự án này”...trước sự quyết định độc tài đảng trị ấy, dư luận xôn xao trong quần chúng rằng “....Tây Nguyên sẽ chết vì khai thác bauxite”, “Khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên nhiều nguy cơ, chưa có giải pháp”... nhiều nhà khoa học phân tích cặn kẻ có tính thuyết phục đưa lên các trang nhà điện tử trong và ngoài nước, người am tường chính trị quân sự thì cho rằng “lâm nguy an ninh của tổ quốc vì cho Trung Cộng đến Tây Nguyên”, nhà văn hoá thì cho rằng “phá hủy nền văn hóa đa dạng của Tây Nguyên”, “báo chí không được đăng tin về bauxite”.... tất cả đó tạo một không khí nặng nề, ngột ngạt trong người dân Việt Nam hiện nay. Là người Việt quan tâm đến tình hình đất nước chúng ta không thể không tìm hiểu một biến cố lớn như thế đối với đất nước Việt Nam.

I) Bauxite Tây Nguyên nằm ở đâu trên nước Việt Nam?

Đắc Nông, trước đây là vùng đất thuộc tỉnh Đắc Lắc, từ năm 2004 đã tách rời thành một tỉnh riêng, thủ phủ đặt tại thị xã Gia Nghĩa. Tỉnh Đắc Nông nằm phía Nam Cao Nguyên Trung Phần, Bắc giáp với tỉnh Đắc Lắc, Đông giáp với tỉnh Lâm Đồng, Tây giáp với biên giới Cambodia, và Nam giáp với tỉnh Bình Phước. Diện tích 6514.5 km2 và dân số khoảng 400,000 (năm 2006), gồm người Việt (Kinh),Ê Đê, Nùng M’Nông và người Tày. Nguồn lợi kinh tế chính của tỉnh Đắc Nông là trồng cafe, tiêu, cao su. Đắc Nông cũng là vùng hứa hẹn của nền du lịch với những thác nước rất đẹp trong cảnh thiên nhiên hùng vĩ như thác Ba Tầng, thác Diệu Thanh, thác Dray Nur, thác Dray Sáp, Thác Trinh Nữ, đồi thông Nam Nung. Khí hậu tỉnh Đắc Nông rất ôn hòa và lý tưởng, trung bình 24 độ C.

Đắc Nông có nền văn hoá truyền thống cổ truyền đa dạng của nhiều dân tộc mang bản sắc riêng. Nơi đây còn lưu giữ nhiều pho sử thi truyền miệng rất độc đáo như sử thi Đam San dài hàng ngàn câu. Các tập tục xưa cổ, kiến trúc nhà sàn, nhà rông và tượng nhà mồ còn chứa bao điều huyền bí hấp dẫn. Các loại nhạc cụ dân tộc từ lâu đời đã trở nên nổi tiếng và là niềm tự hào của cả vùng Tây Nguyên, của văn hoá dân gian Việt Nam. Bộ đàn đá của người M'Nông, bộ chiêng đá phát hiện tại huyện Đăc R'lâp cách đây ngàn năm, đàn T’rung, đàn K’lông Pút, đàn Nước, Kèn, Sáo... Nếu đúng dịp, du khách sẽ được tham dự những lễ hội độc đáo còn nguyên chất dân gian. Trong lễ hội, cả buôn làng cầm tay nhau nhảy múa xung quanh đống lửa theo nhịp của tiếng cồng,tiếng chiêng.
Với vùng đất cây xanh, cảnh đẹp, không khí trong lành, nhiệt độ ôn hòa, nền văn hoá đa dạng như thế ở dưới tầng lớp đất Bazan màu mở ấy khoảng 0.5-1m có quặng bauxite là một nguyên liệu chế ra chất nhôm dùng trong các loại kỹ nghệ.

Theo tài liệu BAUXITE MINING, POST ENVIRONMENTAL & SOCIAL IMPACT CONCERNS By: Consultancy on Development (CODE) – Vietnam, thì mỏ bauxite được tìm thấy ở tỉnh Đắc Nông có khả năng sản xuất từ 6500-7600 triệu tấn, lớn hàng thứ 4 trên thế giới. Đắc Nông là vùng đất cao nguyên nơi đầu nguồn của hai con sông lớn Đồng Nai và Serepok. Đảng CSVN cho phép các nhà đầu tư Trung Cộng mở 4 cơ xưởng khai thác quặng bauxite ở tỉnh Đắc Nông.

Theo tài liệu của Tập Đoàn Công Nghiệp Than và Khoáng Sản Việt Nam (TKV) tháng 7/2007 thì Đắc Nông có 6 vùng có mỏ bauxite với diện tích tổng cộng là 1971 km2 chiếm 1/3 diện tích tỉnh Đắc Nông ở các địa điểm như sau:

-Tuy Đức: 354 km2

-Đắc Song: 300 km2

-Bắc Gia Nghĩa: 329 km2

-Nhân Cơ: 510 km2

-1 tháng 5: 197 km2

-Quảng Sơn: 159 km2

Mỏ beauxit còn tìm thấy ở Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng và hiện nay đang khai thác, mặc dù mỏ bauxite này không lớn như ở tỉnh Đắc Nông.

II) Những tác hại, rủi ro, nguy hiểm khi khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên:

Mỏ beauxit ở Đắc Nông nằm dưới mặt đất từ 0.5-1m, trong tiến trình khai thác người ta phải lấy đi lớp đất xốp ở trên mặt, sau đó lấy phần đất/đá có chất bauxite đưa vào nhà máy để biến chế thành chất alumina. Nhớ rằng, Alumina không phải là Aluminium (nhôm), mà alumina là một hợp chất gồm nhôm và oxy với ký hiệu hóa học là Al2O3. Khai thác mỏ beauxite ở Đắc Nông chỉ chế biến từ quặng bauxite ra Alumina rồi đem bán cho ngoại quốc chứ không phải luyện nhôm ròng (aluminium) để xử dụng cho kỹ nghệ hoặc bán nhôm với giá cao. Trung bình cứ hai tấn bauxite thì biến chế một tấn alumina, và cứ 2 tấn alumina thì làm ra một tấn Aluminium (nhôm). Hiện nay, Alumina trên thị trường giá vào khoảng $350-370 USD/ tấn. Tiến trình biến chế từ bauxite
Tiến trình chế biến Alumina:
(1) Cho chất bauxite vào máy
(2) Đưa vào máy xay - crusher
(3) Cho beauxite vào để phân chất (digester)
(4) Vào bộ lọc,Bùn đỏ thải ra từ giai đoạn này sau khi qua bộ lọc (bauxite residue)
(5) giai đoạn làm ra alumina
đến alumina có 5 giai đoạn, mỗi một giai đoạn phải xử dụng rất nhiều nước thêm với các hóa chất cần thiết để luyện kim, và sau đó thải ra một loại nước mang theo chất độc hoá học. Trong các giai đoạn luyện chất alumina, nguy hiểm nhất là nó để lại một chất cực kỳ độc hại đó là “bùn đỏ” (red-mud). Theo những tài liệu ngoại quốc và những chuyên viên chuyên ngành trong nước thì việc khai thác bauxite ở Đắc Nông trong khi chưa có những giải pháp đúng đắn để bảo vệ môi trường, để bảo vệ nguồn nước, để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên thì nó sẽ là một tác hại lâu dài cho tương lai của người dân Tây Nguyên và dân cư sống ở hạ nguồn hai sống Đồng Nai và Serepok. Cao Nguyên Trung Phần là “lá phổi” của Việt Nam, nếu lá phổi bị ô nhiễm trầm trọng chẳng khác nào Việt Nam bị bệnh ho lao. Đối với việc khai thác mỏ bauxite, sự tác hại này đe doạ thường trực đến cả muôn đời sau. Những tác hại khai thác mỏ beauxite ở Tây Nguyên như:

Tác hại thứ nhất: xử dụng quá nhiều diện tích đất đai tây nguyên, muốn khai thác bauxite, phải cần khoảng 500 km2 chung quanh cơ xưởng bauxite để di chuyển lớp đất thừa trong tiến trình chế biến alumina. Đắc Nông có 4 nhà máy như vậy tốn gần 2000 km2, thêm với 1971 km2 beauxite tổng cộng gần 4000 km2, chiếm gần 2/3 diện tích tỉnh Đắc Nông (6514 km2). Sự di chuyển đất này sẽ tạo những lớp bụi mù tung bay trong không khí, ảnh hưởng môi trường sống của con người. Thân và lá cây vùng Tây Nguyên bị phủ đầy bụi hóa chất màu đỏ không thể nào phát triển được. Còn con người thì luôn luôn hít thở không khí với chất độc bụi đỏ vào phổi, lâu rồi sẽ sinh bệnh ung thư đường phổi.

Trong ngành khai thác quặng mỏ, bauxite là phương pháp khai thác chiếm nhiều diện tích đất đai nhất. Quặng bauxite trải rộng trên mặt đất, vì vậy sự khai thác bauxite tác hại hủy diệt cây cối, hoa màu, chim muông cầm thú. Tây nguyên là rừng, khi khai thác bauxite thì rừng bị phá hủy trung bình 30-50 ha/triệu tấn bauxite. Diện tích bề mặt cần xử dụng để lấy bauxite trung bình 150 ha / triệu tấn, và diện tích mặt bằng cần để sản xuất alumina là 450 ha/triệu tấn. Với số đất được trưng dụng lớn lao như vậy, thử hỏi có bao nhiêu nhân công từ bỏ nông nghiệp trồng cafe, hạt tiêu, cao su được đưa vào làm việc trong nhà máy bauxite ở Đắc Nông (****) Tính trung bình phải mất 2.5 ha mới tạo ra một việc làm....2.5 ha để trồng cây xuất cảng như trà, cafe, tiêu, cao su.... sẽ giúp cho một người dân có đời sống sung túc hơn khi phải xây công ty luyện bauxite. Và liệu những người dân ở đó có trình độ để được thu nhận vào làm việc trong công ty khai thác bauxite hay không?

Tác hại thứ hai: Làm kiệt quệ nguồn nước ở Tây Nguyên.

Trong tiến trình luyện kim việc loại bỏ những chất thừa thải để rửa sạch kim loại sẽ tốn rất nhiều nước, các giai đoạn lọc bauxite và giai đoạn chế biến từ bauxite sang alumina cần 14,832 triệu m3 nước/năm, trong khi nước để tiêu dùng cho sinh hoạt người dân Đắc Nông là 0.432 triệu m3/năm mà thôi. Như vậy những xưởng bauxite sẽ vơ vét nước trên các sông hồ, và cả nguồn nước ngầm ở dưới lòng đất của Tây Nguyên mới đủ. Tình trạng khan hiếm nước ở Tây Nguyên vì xử dụng quá đà cho kỹ nghệ khai mỏ bauxite sẽ làm cho một Cao Nguyên cây cối xanh tươi, thác nước thơ mộng, chim chóc đầy đàn...sẽ trở thành sa mạc khô cằn trong những năm tháng tới. Vì thiếu nước, vì cây cối bị ủi láng bình địa để lấy bauxite, vì bụi mù đỏ tung bay dầy trời và mang đầy hoá chất trải khắp vùng trời Tây Nguyên....Tây Nguyên sẽ trở thành vùng đất chết đầy chất độc hại môi trường sống.

Tác hại thứ ba: Gây ô nhiễm trong nước uống và sinh hoạt hằng ngày:


Nước dùng trong tiến trình luyện alimina sẽ bị thải ra mang chất độc hóa học, với kỷ thuật khái thác vô trách nhiệm của chế độ CSVN hiện nay, nước thải đó sẽ tan biến vào lòng đất hòa với nguồn nước thiên nhiên làm cho nước trên ao hồ, sông, suối, giếng bị ô nhiễm chất hoá học tác hại khôn lường cho sức khoẻ của người dân. Trong tiến trình chế biến từ bauxite đến alumina sản sinh ra hàng hà sa số chất toxic (chất độc), đây là một loại hoá chất tác hại cho nguồn nước và cần phải có kỷ thuật cao để chận đứng sự tác hại do chất toxic gây ra ở hai thượng nguồn sông Đồng Nai và Serepok. Người dân sống dưới hạ hạ nguồn đều phải gánh chịu hậu quả này.

Chúng ta còn nhớ công ty Vedan của Đài Loan không có hệ thống lọc nước sau tiến trình sản xuất đã gây ô nhiễm sông Thị Vải để lại bao nhiêu độc chất trên đó, và cả giòng sông Thị Vải giờ đây như là một giòng nước trộn sửa, nhưng đây không phải là giòng sửa mẹ là là một giòng độc dược. Những độc chất thải ra trong khi biến chế Alumian còn độc hại gấp bội lần so với vụ chất độc giòng sông Thị Vải.

Tác hại thứ 4: Bùn đỏ (red-mud) nguy nhất, tác hại tột cùng:

Bùn đỏ là chất thải ra nhiều nhất trong tiến trình tinh luyện từ bauxite đến Alumina đó là một loại pha trộn chất độc hóa học mang màu đỏ sền sệt như bùn cho nên gọi là bùn đỏ. Phân chất trong bùn đỏ này thì nó chứa những hoá chất độc hại như:
- 30-60% Helmatic (Fe2O3),
- 10-20% Trihydrate Aluminium(Al2O2),
- 3-50% Silicon Dioxide (SiO2),
- 2-10% Sodium Oxide (Na2O),
- 2-8% Calcium Oxide (CaO),
- 2-50% Titanium dioxide (TiO2),
- Cùng một số chất hóa học khác nữa như, Nitrogen, Potasium, Zinc, Chromium v.v...... (1) Đặc biệt bùn đỏ này không khử trừ được, không tiêu diệt được, nó tồn tại mãi mãi, nó trơ ra, nhưng mà hễ nó đụng vào đâu là hủy diệt môi trường sống ở đó.

Hiện nay trên thế giới chưa có một quốc gia tân tiến nào có thể giải quyết chất bùn đỏ này kể cả Hoa Kỳ cũng chưa có cách hủy diệt nó, cho nên Hoa Kỳ có những mỏ bauxite ở nhiều tiểu bang nhưng họ không khai thác vì sợ ô nhiễm môi trường sống. Người Mỹ chỉ đi mua Alumina của thế giới đem về tinh chế ra nhôm (aluminium) để dùng trong kỹ nghệ. Hiện nay Úc Đại Lợi là nước khai thác mõ bauxite lớn nhất thế giới và có độ an toàn cao, vì họ có nhiều lợi thế để cất dấu lớp bùn đỏ độc hại đó, nhờ địa hình của nước Úc bằng phẳng, ở dưới có lớp đá ngầm bảo vệ, dân cư những vùng có mỏ bauxite rất thưa thớt cho nên thuận lợi cho việc chế biến Alumina từ bauxite tại chỗ. Một vài quốc gia khác thì dùng những phương pháp chôn dấu bùn đỏ cạnh bờ biển, và những hố chôn bảo vệ kỹ lưỡng.

Còn tại Việt Nam thì công ty bauxite làm ngay tại Đắc Nông và hàng triệu tấn bùn đỏ này sẽ được chôn cất trong lòng đất Tây Nguyên.

Như vậy với những hoá chất trộn lẫn đó có tác hại như một loại bom bẩn hủy hoại con người và môi trường sống. Lượng bùn đỏ ở Tây Nguyên thẩy vào hố chứa trung bình là 1733 tấn/1 ngày (****)

Dự án Tân Rai có lượng bùn đỏ thải ra môi trường: 826.944m3/năm, lượng bùn oxalate thải ra môi trường 28.800m3/năm, lượng nước độc thải ra từ nhà máy 4,625 triệu m3/năm. Khối lượng quặng bauxite khai thác của dự án này lên tới 2,32 triệu m3/năm, dẫn đến nguy cơ tổng lượng bùn đỏ phải tích tụ trên cao nguyên cả đời dự án Tân Rai 80-90 triệu m3. Nhưng tổng dung tích của hồ chứa của dự án chỉ có 20,25 triệu m3, số bùn đỏ còn lại không biết chứa ở đâu?” (****) chắc chắn rằng sẽ chảy vòng vòng trên miền Cao Nguyên Trung Phần hoặc theo sông Đồng nai và sông Serepok về dưới hạ nguồn nuôi sống người dân!

Tác hại thứ 5: Vế phương diện khai thác với tham vọng chính trị hơn là khoa học và kinh tế:

Trong tiến trình khai thác mỏ bauxite chế thành Alumina, cần một nhà máy nhiệt-diện (Thermo-Electricity) tại chỗ có đủ công suất cao để làm việc, đằng này kế hoạch dùng nhà máy nhiệt-điện từ Quảng Ninh câu dây cáp lên Đắc Nông, với khoảng cách quá xa như vậy, liệu rằng những dây cáp điện có đủ sức chịu đựng trong tiến trình sản xuất hay không?

Đặc tính ít học độc tài của chế độ CSVN dẩn đến tai hoạ nguy hiểm hủy diệt đời sống con người, người dân Tây Nguyên hạnh phúc sống với núi rừng thiên nhiên trồng trọt, nay những đất sinh sống ấy bị cấm đóan đẩy họ đi vào những vùng được chỉ định, đầy bụi mù vi khuẩn, luôn luôn bị canh chừng vì sợ nỗi loạn....như vậy hành động này chắng khác gì hủy hoại tài nguyên “rừng vàng, biển bạc” và phá hủy vùng đất Bazan màu mở Tây Nguyên.

Dân số Đắc Nông hiện nay 400,000 nhưng sau khi biến thành khu kỹ nghệ bauxite, hàng trăm công xưởng phụ sẽ mọc lên để đáp ứng nhu cầu, dân số sẽ tăng lên gấp bội, môi trường sống càng phúc tạp, liệu rằng bộ chính trị đảng CSVN có bao giờ nghĩ đến vấn nạn này hay không? hay vẫn trò "sống chết mặc bây tiền thầy bỏ túi?"

Tệ hại hơn nữa là dự án chẳng có kế hoạch nào để đem lại đất đai sau khi đã khai thác quặng bauxite. Sự mất mát lớp đất xốp trên bề mặt sẽ rất dễ tạo nên lũ lụt, trụt đất, chuồi đất ở vùng Tây Nguyên, nơi chưa bao giờ xẩy ra những thiên tai này.

Tác hại thứ 6: Thiệt hại cuộc sống người dân: Hiện nay, muốn khai thác hảng bauxite phải cạo lớp đất ở trên, ủi rừng, phá 2/3 diện tích tỉnh Đắc Nông, bao nhiêu nguồn lợi sinh sống của dân cư bị san bằng phá sạch, liệu rằng nhà cầm quyền đảng CSVN có tìm kế sinh nhai cho những người dân bất hạnh này không? Hay vẫn dùng hệ thống quy hoạch cướp nhà cướp đất, cướp ruộng, cướp vườn, ăn chận, ăn bớt của CSVN đối với người dân Tây Nguyên. Trong chương trình khai thác không thấy có kế hoạch nào sau khi khai thác xong sẽ biến những vùng đất đó thành đất có thể canh tác trở lại. Hay là sau khi khai thác xong, trở thành những căn cứ quân sự của Tàu Cộng đang đổ người (lính trá hình) sang khai thác bauxite. Nếu không có kế hoạch để hồi sinh đất lại thì chẳng khác nào tỉnh Đắc Nông trở thành vùng đất chết không có môi trường sống như ở những nơi bị bom nguyên tử.

III) Một vấn đề nguy hại hơn cả mọi vấn đề Tàu Cộng khai thác mỏ Bauxite Tây Nguyên:

Ngày 9/04/2007 nhật báo Nhân Dân Trung Cộng (People Chinese) đăng bản tin tựa đề: Một công ty của Trung Cộng đang đầu tư vào khai thác bauxite tại Việt Nam (2), bài báo viết: “Chalo, một công ty dẫn đầu về khai thác quặng mỏ của Trung Cộng, đang “chờ” cấp môn bài để xây cất công ty khai thác mỏ bauxite ở Đắc Nông Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam.....và nó trở thành một dự án lớn nhất đầu tư tại Việt Nam của Trung Cộng”


Những tin đồn trong những ngày gần đây, cho rằng hiện nay Trung Cộng đem nhân viên kỹ thuật, đem lính canh đến bảo vệ tại vùng Đắc Nông. Như chúng ta đã biết, Trung Cộng đã thiết lập căn cứ hải quân tối tân ở Tam Á thuộc đảo Hải Nam mục đích để mở rộng ảnh hưởng ra biển Đông Thái Bình Dương, trước mắt thanh toán hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Nay để Trung Cộng khai thác mỏ bauxite tại Tây Nguyên thì chẳng khác gì mở đường cho họ đem hàng ngàn, hàng vạn người Trung Cộng, hoặc lính Trung Cộng trá hình đến cư trú và làm việc tại nơi đây. Sau này trở thành một Chợ Lớn thứ hai ở Tây Nguyên, hoặc có thể biến thành một căn cứ quân sự quan trọng nằm trên cột xương sống Việt Nam.

Ai cũng biết rằng hiện nay Trung Cộng đang xâm lăng nước ta về mọi mặt kinh tế, chính trị, quân sự, an ninh... họ muốn Việt Nam thành một tỉnh lỵ của Tàu mà không cần đem quân xâm lấn, chỉ dùng những đòn phép ma mãnh chủ trương từng bước và có kế hoạch nhất định: bước một, tạo chính quyền bù nhìn CS Việt Nam làm thừa sai của Trung Cộng, nay nhân dân đã thấy Việt Cộng đóng vai rất được việc Trung Cộng muốn. Bước hai, xâm lấn theo kiểu tằm ăn dâu, lấn tới một ngày một ít, được đằng chân lân đằng đầu, được vùng đất biên giới thì đến hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bây giờ tiến vào Tây Nguyên. Song song với kế hoạch tằm ăn dâu ấy, Trung Cộng dùng biện pháp xâm lăng kinh tế làm cho nền kinh tế vốn yếu kém của nước ta càng kiệt quệ, dân ta phụ thuộc hàng hoá Tàu càng nhiều càng tốt. Đến khi điều kiện chín mùi, Việt Nam hoàn toàn bị tê liệt, thì Trung Cộng sẽ tuyên bố những điều mà chúng ta không ngờ trước được, như năm 2007 Trung Cộng đùng một cái tuyên bố Trường Sa và Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của huyện Tam Sa, biết đâu với tình trạng như thế này 20 năm sau Trung Cộng bất thần tuyên bố Việt Nam là An Nam của Trung Quốc!!!!.... vì lịch sử của Trung Cộng đang dạy học con cái của họ xem Việt Nam là phần đất của Tàu....

Hiện nay không ai có thể đến tại vùng Đắc Nông để xem ai là người thực sự xây dựng công trình chế biến mõ bauxite, các ngõ đường vào công trình xây dựng khai thác mỏ bauxite đều canh gác nghiêm ngặt...sự canh gác nghiêm ngặt như vùng cấm địa chẳng khác nào người dân không được bén mảng vùng Ải Nam Quan và các vùng đất biên giới đã mất. Sự cấm ngặt không cho bất cứ người dân nào đến các công trình bauxite ở Đắc Nông chắc chắn có gì thật bí ẩn trong đó....có thể đó là bí mật an ninh quốc gia tức là Nguyễn Tấn Dũng thuần phục cho lính Trung Cộng đến Tây Nguyên khai thác tài nguyên bauxite.

Đài RFA trong chương trình phát thanh ngày 6/ 03/2009 vừa qua có đưa tin Trung Quốc đã có mặt trên Tây Nguyên như sau: “ Vấn đề an ninh đất nước như thủ tướng (CSVN) Dũng hứa đã bị dư luận nghi ngờ khi phát hiện một số lớn công nhân người Trung Quốc đã có mặt tại khu vực có quặng mỏ, mặc dù chính quyền (CSVN) đánh tiếng cho rằng họ là công nhân sẽ làm việc trong các công ty Trung Quốc nhưng hình như thông tin này không làm dư luận an tâm. (điều này đã xác nhận có Trung Cộng ở Tây Nguyên)

Nhà văn hóa Nguyễn Huệ Chi, lên tiếng về vấn đề này cũng đồng tình với những lo ngại mà nhiều người cho là trước mắt:

-Việc khai thác sẽ gây xáo trộn cho người dân tộc trên vùng Tây Nguyên nhưng nghiêm trọng hơn là người ta đem những người mà dân tộc Việt Nam cảnh giác từ hàng ngàn năm nay vào đấy khai thác mới đáng nói.

Tiến Sĩ Khoa Học Nguyễn Văn Khải cũng tỏ ra quan ngại khi để cho người nước ngoài khai thác khi nhà nước không có một kiến thức nào về vấn đề này:

-Nhà nước không làm được việc thì chờ cho thế hệ sau này làm, chứ giao cho nước ngoài thì con cháu chúng ta còn gì?

Trong việc để Trung Quốc khai thác quặng bauxite tại Tây Nguyên chúng ta thử đặt một số vần đề với nhà cầm quyền CSVN như sau:

Một là, cách đây vài thập niên, nghĩa là vào năm 1980 Việt Nam có đề nghị khai thác mở bauxite ở Cao Nguyên Trung Phần và nhờ khối COMECON hợp tác (thời đó COMECON là khối cộng sản Đông Âu đứng đầu là Liên Sô). Sau khi nghiên cứu họ thấy không có lợi cho môi trường sinh thái cao nguyên nên họ đã đề nghị trồng cafe, tiêu, hạt điều và cao su có lợi hơn....vậy tại sao năm 2009, bộ chính trị CSVN lại cho Trung Cộng đến khai thác và hủy diệt mọi nhu cầu sinh thái tại tây nguyên...áp lực nào của Trung Cộng đối với bộ chính trị đảng CSVN?

Hai là, hiện nay Trung Cộng cũng có nhiều mỏ bauxite, tại sao họ không khai thác ngay trên đất nước của họ mà đến để khai thác tại Việt Nam, có phải đây là âm mưu thả chất độc đối với dân tộc Việt Nam trong những bước thâm độc xâm lăng của Trung Cộng hay không?

Ba là, nhìn chung việc khai thác mỏ bauxite ở Đắc Nông và Tây Nguyên không đem lại kinh tế cho Việt Nam, vậy thì Bộ Chính trị Đảng CSVN vẫn bất chấp mọi dư luận để Trung Cộng vào khai thác, như vậy có phải bộ chính trị Đảng CSVN âm thầm cấu kết với ngoại bang để chấp nhận sự hiện diện hợp pháp của lính Trung cộng ở Tây Nguyên hay không?

Việc khai thác mõ bauxite ở Tây Nguyên đảng CSVN có đem đến nguồn lợi kinh tế bào cho người dân Việt Nam hay chỉ nghe theo sự mua chuộc của Trung Cộng để hợp thức hoá Trung Cộng hiện diện ở Tây Nguyên Việt Nam?

Lê thành Nhân

(Tài liệu tham khảo)

BAUXITE MINING, POST ENVIRONMENTAL & SOCIAL IMPACT CONCERNS By: Consultancy on Development (CODE) – Vietnam

(****) Tiến Sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám Đốc Công ty Năng Lượng Sông Hồng. Đại Kế Hoạch Bô-Xít ở Tây Nguyên bị phản đối quyềt liệt.

(1) http://www.redmud.org/Characteristics.html

(2) http://english.peopledaily.com.cn/200704/09/eng20070409_364849.html

(3) international Aluminium Institute (www.world-aluminium.org
(4) http://www.mineralszone.com/minerals/bauxite.html

Tóm tắt một số tội ác của CSVN

Phạm Bá Hoa

1. Cộng sản quốc tế.

Ông Mikhail Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô phát biểu như lời tâm sự: “Tôi đã bỏ hơn nửa cuộc đời đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, nhưng ngày nay tôi phải đau buồn mà nói rằng “cộng sản chỉ biết tuyên truyền và nói láo”. Đó là lời tố cáo có thể xem là thành thật của một đảng viên cao cấp trong đảng cộng sản Liên Xô mà các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam tôn vinh là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội toàn thế giới (cộng sản). Còn dưới đây là những con số nói lên một cách tổng quát về mức độ tàn bạo của các đảng cộng sản cai trị đồng bào của họ đã được phơi bày sau khi cộng sản Nga và khối cộng sản Đông Âu sụp đổ: (trích bài viết “Con số 100 triệu nạn nhân” của Lữ Giang ngày 25/6/2007)


Trong quyển “Death by Government” (Chết do chánh phủ), tác giả Rudolph J. Rummel, giáo sư khoa chính trị học đại học Yale, thì cộng sản tại các quốc gia đã giết chết đồng bào của họ, như sau: (1) Liên Sô 61.911.000 người. (2) Trung Hoa cộng sản 35.236.000 người. (3) Quân phiệt Nhật 5.964.000 người. (4) Khmer đỏ 2.035.000 người. (5) Thổ Nhĩ Kỳ 1.883.000 người. (6) Cộng sản Việt Nam 1.670.000 người. (7) Cộng sản Ba Lan 1.585.000 người. (8) Cộng sản Nam Tư 1.072.000 người.

Trong quyển “Livre Noir du Communisme” (Sách đen về chủ nghĩa cộng sản) tác giả Stéphane Courtoise, Giám Đốc Nghiên Cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học của Pháp, nhận xét rằng: “Vượt trên mức độ tội ác cá nhân, các chế độ cộng sản củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị. Sau một vài năm tại các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu hay vài chục năm ở Liên Sô và Trung Hoa cộng sản, cường độ của sự khủng bố có bớt đi, chế độ tự ổn định bằng cách quản lý sự đàn áp thường ngày, sự kiểm duyệt mọi trao đổi tin tức, kiểm soát xuất nhập biên giới, trục xuất người ly khai. Nhưng ký ức về khủng bố tiếp tục đặt người dân trong tình trạng sợ hãi, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một quốc gia cộng sản nào thoát khỏi qui luật đó, như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam chẳng hạn”.

Ngày 12/6/2007, tại Washington DC, Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, chủ tọa lễ khánh thành Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (Victims of Communism Memorial). Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của khoảng 100 triệu nạn nhân cộng sản - có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng ta - được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ, vì chế độ cộng sản đã lấy đi mạng sống của khoảng 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội. Nhóm chữ nghiêng màu đỏ là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Bush. Công trình Đài Tưởng Niệm bắt đầu với Điều 905 của đạo luật The Public Law 103-199 được Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 17/12/1993. Vì Quốc Hội không cấp tiền nên tiến sĩ Lee Edwards vận động từ các quốc gia từng bị cộng sản cai trị chung góp tài chánh, trong đó phần đóng góp của Cộng Đồng Việt Tị Nạn cộng sản tại Hoa Kỳ là 66.000 mỹ kim. Công trình xây dựng khởi công ngày 28/9/2006.

2. Cộng Sản Việt Nam

Lãnh đạo tự tôn.
Ông Hồ Chí Minh, Chủ Tịch đảng CSVN là con người vừa dối trá vừa tự cao hơn bất cứ ai khác. Bằng chứng là trong quyển “Những Mẫu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” xuất bản năm 1947 mà tác giả Trần Dân Tiên lại chính là Hồ Chí Minh. Trong đó Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, tự ca tụng ông là cha già dân tộc và tự tôn vinh ông vĩ đại hơn Bình Định Vương Lê Lợi (thế kỷ 15) vì ông đưa dân tộc vào kỷ nguyên xã hội chủ nghĩa. Chủ Tịch đảng mà tự tôn đến mức đó thì còn gì liêm sĩ. Khi con người nhất là con người lãnh đạo không có liêm sĩ thì tệ hơn người tệ nhất trong 86 triệu dân.
Bức tranh xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ sau 30/4/1975 đến năm 2000, được cựu Trung Tướng cộng sản Trần Độ “vẽ lại” trong tập nhật ký “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000. Trong đó, ông tự hỏi: “Tại sao chiếm được miền Nam năm 1975, một nửa đất nước trù phú như vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nước vào tình trạng nghèo đói ngắc ngoải như vậy?” Rồi ông mời gọi lãnh đạo của ông: “Hãy nhìn các nước Đài Loan, Đại Hàn, Singapore, Thái Lan, Mã Lai Á, chỉ cần 20-30 năm mà họ phát triển và nhân dân của họ có đời sống khá phong phú. Mấy nước này không có đảng cộng sản tài tình sáng suốt (như của Việt Nam), mà họ có những chính khách với những chính sách kinh tế xã hội thông minh và hiệu quả. Như vậy, chủ nghĩa xã hội chưa có chứng thực, và nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước”.
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế hàng đầu của Việt Nam, đã nói trong phiên họp mật của Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam ngày 2/11/2004 rằng: “Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, nhưng mức độ tăng trưởng ấy chỉ là so với chính bản thân Việt Nam, vì nhìn ra chung quanh, rất nhiều quốc gia tăng trưởng nhanh hơn Việt Nam nhiều. Việt Nam ta không nên lớn giọng dạy bảo thiên hạ, không nên tự cho mình là đòn bẩy của thế kỷ, cũng không nên tự xưng mình làm xung kích cho lịch sử, vì những điều đó không giúp gì cho sự phát triển của đất nước. Với lại thế giới không có ai công nhận Việt Nam như vậy cả”.

Lãnh đạo độc tài.
Ông Nguyễn Tấn Dũng thay ông Phan Văn Khải trong chức vụ Thủ Tướng, có dư luận trong Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại nhất là trong vài tổ chức chính trị, có vẻ như chờ đợi Nguyễn Tấn Dũng trở thành một Gorbachev của Việt Nam, trong khi các tổ chức chính trị trong nước nhất là Khối 8406 không một đợi chờ nào như vậy. Hành động ngay khi nắm quyền, tân Thủ Tướng ra Nghị Định kiểm soát chặt chẻ hơn nữa các sinh hoạt truyền thông, internet, kể cả quyết định tuyệt đối cấm báo chí tư nhân. Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố dẹp tham nhũng, nhưng chưa có sự kiện nào chứng minh bước đầu thực hiện lời tuyên bố đó. Nếu ông ta thực sự quyết tâm đánh tham nhũng, ông ta có cơ hội bị tham nhũng hạ bệ, thậm chí có thể bị ám sát là đằng khác, vì tham nhũng là mục tiêu của các cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn Tấn Dũng và gia đình ông.
Ngày 5/9/2006, CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31 về quản chế hành chánh (bắt giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng như họ có bước tiến về dân chủ pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công Nhân, hành động đó chẳng qua CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đã chết từ lâu. Vì ngày 1/10/2002 CSVN đã ban hành Pháp Lệnh “xử lý vi phạm hành chánh” chặt chẽ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy bỏ. Trên nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị Định, mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ những qui định trong NĐ 31. Chưa hết, tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lý vi phạm hành chánh là Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về cấm tập họp đông người, và Nghị Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa & thông tin, vừa chặt chẻ vừa tinh vi trong chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn dân toàn đảng của họ (trích bài viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày 11/11/2006 tại Hà Nội). Nguyễn Tấn Dũng vẫn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lãnh đạo độc tài toàn trị.
Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị CSVN Hà Nội, Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “… Tôi khằng định trước sau như một là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai trò của đảng”. (trích bản tổng hợp 220 sự kiện về nhân quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007). Độc tài chuyên chính như vậy mà gọi là cấp tiến sao? Và chỉ riêng lời phát biểu ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi nhận ra 4 điều: (1) NMT thừa nhận chế độ độc tài CSVN không được người dân ủng hộ, nên phải ra lệnh củng cố quyền lực của đảng để tiếp tục đàn áp dân trong khi vẫn khẳng định điều gọi là tiến lên chủ nghĩa xã hội. (2) Bỏ điều 4 trong Hiến Pháp là chế độ độc tài tan rã đến mức đảng viên trong Bộ Chính Trị phải tự sát, vì nếu không thì NMT và các đảng viên lãnh đạo khác không thể yên thân bởi khối dân oan hằng triệu hằng triệu người mà chế độ độc tài đã đẩy họ vào thảm cảnh đó. (3) Bộ Chính Trị CSVN sợ mất quyền lực quyền lợi chớ không hề nói đến trách nhiệm của cấp lãnh đạo. (4) NMT hoàn toàn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở vị trí lãnh đạo độc tài toàn trị.

Lãnh đạo gian manh dối trá.
Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh dối trá. Năm 2007, theo Công Đoàn Lao Động quốc doanh có đến 541 cuộc đình công với sự tham dự của khoảng 350.000 công nhân mà hầu hết không có giấy phép của nhà nước nên bị xếp vào loại “đình công bất hợp pháp”. Nhưng ngày 21/1/2008, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nông Đức Mạnh tuyên bố tại Quốc Hội của họ rằng: “Từ khi đảng ra đời đến nay, đảng luôn luôn là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, và của dân tộc, là đội tiên phong của giai cấp công nhân …” Đến ngày 30/1/2008, Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký Nghị Định số 11 và 12, cấm đình công bất hợp pháp, đồng thời giao tòa án xét xử buộc công nhân phải bồi thường thiệt hại cho chủ trong các cuộc đình công đó. Nói đảng cộng sản là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhưng làm thì đàn áp công nhân để bảo vệ chủ nhân. Đến ngày 16 & 17/6/2008, hội nghị “Đoàn Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam” họp tại Hà Nội, ông Mai Đức Chính, Phó Chủ Tịch tổ chức này cho biết từ đầu năm 2008 đến nay (gần 6 tháng) đã có 330 cuộc đình công và tất cả các cuộc đình công này đều phạm pháp.
Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết dối trá. Sau chuyến sang Hoa Kỳ từ 18 đến 23 tháng 6/2007, báo Nhân Dân Điện Tử CSVN ngày 4/7/2007 giới thiệu một đoạn về lời ông Triết trả lời phỏng vấn khi phóng viên đài CNN Hoa Kỳ hỏi về vụ bắt Linh Mục Nguyễn Văn Lý đưa ra tòa án phạt tù: “Ông ta (tức LM Lý) vi phạm pháp luật Việt Nam. Đây hoàn toàn là vấn đề pháp luật, không phải là vấn đề tôn giáo. Việc xét xử ông ta được Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và tòa thánh Vatican cũng đồng tình với chúng tôi”. Thế nhưng ngày 7/7/2007, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam công khai lên tiếng phản bác lời của Nguyễn Minh Triết hoàn toàn không hề có sự thật đó, và Nguyễn Minh Triết không hề lên tiếng khi phát biểu của ông ta bị phản bác. Khi “không có sự thật” có nghĩa là dối trá. Chủ Tịch nước mà dối trá trắng trợn như vậy thì còn gì để phê phán mà chỉ triệt tiêu thôi.

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng mưu mẹo dối trá. Sau khi thế giới đánh giá cộng sản Việt Nam (CSVN) tổ chức đại hội APEC thành công, được gia nhập WTO, nhất là được Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ thương mãi cùng lúc rút tên cộng sản Việt Nam ra khỏi danh sách CPC, Nguyễn Tấn Dũng thẳng tay đàn áp các nhân vật đấu tranh ôn hòa cho nền dân chủ thật sự trên toàn cõi Việt Nam. Điển hình là linh mục Nguyễn Văn Lý, luật sư Nguyễn Văn Đài, luật sư Lê Thị Công Nhận, Lê Trí Tuệ, Nguyễn Phong, ..v..v… Với trò đê tiện của lãnh đạo CSVN, ngày 16/3/2007, gọi kỹ sư Đỗ Nam Hải đến trụ sở Công An Quận Phú Nhuận làm việc gần như trọn ngày. Tại đây, có mặt các sĩ quan từ Bộ Công An Hà Nội vào từ Sở Công An đến, gia tăng áp lực. Vẫn không thành công, họ đã áp tải cha, chị, và con gái của anh Hải đến trụ sở, dùng tình cảm gia đình tạo áp lực buộc kỹ sư Hải phải ký giấy ngưng hoạt động chống đối đảng với nhà nước cộng sản. Kỹ sư Phương Nam Đỗ Nam Hải đã nói với họ: “Các anh hèn lắm”.
Tác giả Lê Thiên trong bài “Nhận Diện Bản Chất Dối Trá Của CSVN”. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức từ Pháp về Hà Nội “phục vụ quê hương” có tên Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới chế độ cộng sản mà Hồ Chí Minh là người lãnh đạo. Năm 1956, tức sau mấy năm làm việc cho cộng sản, ông bị nhà nước cộng sản đày đọa chỉ vì ông dám lên tiếng góp ý những sai sót trong cấu trúc xã hội xã hội chủ nghĩa. Vào cuối đời, trong quyển “Kẻ Bị Khai Trừ”, luật sư Tường nói lên ẩn ức của ông rằng: “Cộng sản sống bằng sự dối trá, giả hình, nhưng cái sai lầm là nó đặt sự tàn bạo của nó trên những vẻ bề ngoài hư ảo mà nó giải thích theo ý của nó để tiêu diệt những kẻ mà nó gọi là kẻ thù”…. “Thế giới Việt Nam cũng như cả thế giới cộng sản là cái thế giới đóng cửa, và bên trong cái thế giới đó, người ta tự cho phép bách hại con người không thể tưởng tượng được vì nó vô cùng dã man điên rồ và bỉ ổi. Trong cái hỏa ngục đó, thường xuyên diễn ra những tội ác chỉ có trong thời kỳ thế mạt, không còn nhân phẩm nhân tính”.
Trong quyển “Đồng bằng Gai Góc”, tác giả Xuân Vũ, một cựu cán bộ thời kháng chiến, xác định: “Đảng cộng sản sinh ra để làm hai việc: Nói láo và làm bậy. Hễ chúng nói là nói láo, hễ chúng làm là làm bậy”…. “Bàn tay ác hại của đảng cộng sản mó tới đâu thì máu đổ tới đó. Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, có thể sai nhiều điều nhưng chắc chắn ông luôn luôn đúng khi ông nói với người dân rằng: Đừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”.

Trong bài “Sức Nén Của Ngôn Từ”, tiến sĩ cộng sản Hà Sĩ Phu viết: “Những danh từ như cách mạng, như dân chủ, ..v..v.. thật tối thiêng liêng. Nếu lãnh đạo không vì Nhân Dân, không vì Tổ Quốc, mà để cho chủ nghĩa cá nhân ỷ thế ỷ quyền hại dân hại nước, thì miệng người đời ngọng gì mà không kèm chữ “đểu” theo sau chức vụ hay tên của những người lãnh đạo đó. Hằng mấy chục năm trời dưới chế độ độc tài, người dân mới nén được chữ đểu vào những chức vụ lãnh đạo, như: lãnh đạo đảng đểu, lãnh đạo nhà nước đểu, lãnh đạo quốc hội đểu, lãnh đạo công an đểu, ..v..v.. , để chỉ những người tự xưng làm cách mạng mà hành động toàn là phản cách mạng”. Đến đây ông Hà Sĩ Phu nhớ đến câu đối mà ông cho là cô đọng nhất và khó đối nhất, nhưng diễn đạt chính xác nhất. Ông Phan Hiền, đăng trên báo quân đội nhân dân cộng sản, như thế này: ”Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy”.
Trong nhật ký “Rồng rắn” của cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, có đoạn: Lãnh đạo CSVN Việt Nam kiên trì chế độ “đảng duy nhất lãnh đạo”, lại nhấn mạnh đến nguyên tắc “tập trung dân chủ”, rồi buộc mọi người phải tuyệt đối phục tùng. Từ đó sản sinh ra bộ máy văn hóa thông tin với 6-700 tờ báo và hằng trăm đài phát thanh phát hình, một hệ thống trường học để nhồi nhét chính trị vào đầu học sinh sinh viên, hằng ngàn báo cáo viên với những con người “lưỡi gỗ” chuyên dùng dối trá lừa bịp để mê hoặc nhân dân. Bộ máy này được trang bị mọi thứ cần thiết và có đủ quyền lực để tạo nên một xã hội mà mọi người sống với nhau toàn gian dối. Đảng đã và đang thực hiện đường lối độc đảng và độc tài của một chế độ phản dân chủ, nhưng lãnh đạo cùng bộ máy thông tin hùng hậu lại luôn luôn nói đến dân chủ, nói đến quyền làm chủ của nhân dân. Đó là lừa bịp, là dối trá. Điều 4 của Hiến Pháp bắt nhân dân phải chấp nhận sự lãnh đạo duy nhất của đảng, trong khi Hiến Pháp có những điều khoản nói về quyền dân chủ của dân, nhưng 3 điều dân chủ căn bản là tự do ngôn luận, tự do bầu cử, và tự do lập hội, thì bị chôn vùi bởi những đạo luật rất ư là phản động với những thủ đoạn bỉ ổi!
Trong một đoạn khác: Cho đến nay đã gần 30 năm (năm 2000) rồi mà ngày đêm vẫn phất cờ đánh trống, ngày đêm hò hét biểu dương, và cũng ngày đêm võ vẽ các thành tựu nhân dân ta làm ra, rồi dồn vào cái túi sáng suốt, cái túi tài tình của đảng cộng sản. Lúc nào cũng bắt nhân dân tung hô, chào mừng, ca ngợi. Chào đón mùa Xuân cũng phải chào mừng đảng. Kỷ niệm nông dân phụ nữ thanh niên, cũng biểu dương đảng, và tung hô đảng là nguyên nhân của thắng lợi. Lễ hội tưởng nhớ tổ tiên cũng phải biểu dương đảng, chào mừng đảng. Đám cưới đám ma cũng phải tưởng nhớ và chào mừng đảng. Có câu ca dao tuyệt vời đủ nói lên chân lý của thời đại: “Mất mùa thì tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài đảng ta! Mỗi người cộng sản có lương tâm phải biết xấu hổ về cái chân lý đó”.

Cựu Đại Tá cộng sản Phạm Quế Dương, cựu Tổng Biên tập tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử Quân Độ Nhân Dân, đã nói: “Cộng sản vừa bất tài vừa bất lực, vừa bất lương”.

Ngày 20/5/2006, ông Trần Quốc Thuận, Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc Hội CSVN, trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên rằng: “Cơ chế hiện nay tạo kẽ hở cho tham nhũng vơ vét tiền của của nhà nước. Không tham nhũng mới là điều lạ. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là tiền dù số tiền bị mất lên đến hằng chục hằng trăm tỷ, mà cái lớn nhất bị mất là đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày trở thành thói quen, rồi thói quen đó lặp lại nhiều lần thành đạo đức, mà cái đạo đức đó rất mất đạo đức. Đó là một nguy cơ nhưng tôi thấy chẳng mấy người quan tâm mà chỉ chăm chú vào tham nhũng”.

Thời gian cuối đời (năm 2006) của Đại Tá nhà văn cộng sản Nguyễn Khải, một thời là Đại Biểu Quốc Hội, Phó Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn CSVN, qua bài viết “Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất”, ông dám bộc lộ cái nhìn chân thật của mình về bản thân của ông và về chế độ cộng sản mà trước đó ông đã tham gia đấu tranh giai cấp một cách cuồng nhiệt. Theo ông Khải, ngôn từ là mặt yếu nhất trong các lãnh vực thượng tầng cấu trúc tại các nước xã hội chủ nghĩa, vì lãnh đạo các nước đó dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp để che đậy, tức là nói vậy nhưng không phải vậy. Nó là cái võ cứng để bảo vệ hiệu quả những bất trắc mà lãnh đạo các cấp trong bộ máy quyền lực thường sử dụng. Người cộng sản nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói dối không hề biết xấu hổ, cũng không hề run sợ, vì họ biết rằng người dân không bao giờ dám hỏi lại bởi đó là tối kỵ. Về phía người dân, cũng thừa biết lời lẽ lãnh đạo của họ là dối trá nên chẳng cần phải hỏi mà hãy làm theo ý mình là mình cũng sẽ dối trá để che đậy nếu như nhà cầm quyền hỏi. Nhưng tại sao người dân phải dối trá? Tại vì các cấp lãnh đạo dạy dỗ người dân dối trá và ép người dân phải dối trá như họ. Vậy là lãnh đạo lẫn người dân đều dối trá để che đậy, và che đậy cái gì đó tất nhiên là xấu xa hèn hạ.

Theo bảng xếp hạng về “tự do báo chí” của Worldwide Press Freedom Index 2008 thì các quốc gia cộng sản cùng trong nhóm cuối bảng tổng xếp hạng: Trung Hoa 167/173, Việt Nam 168/173, Cuba 168/173, và Bắc Hàn 172/173.

Lãnh đạo vi phạm nhân quyền.
Ngày 1/12/2005, tại trụ sở Quốc Hội Âu Châu ở Brussels, 730 Dân Biểu của 25 quốc gia khu vực Đông Âu, Tây Âu, và Bắc Âu, bao gồm nhiều đảng phái chính trị với những khuynh hướng khác nhau, đã đồng thuận khi biểu quyết một Quyết Nghị, đòi lãnh đạo CSVN phải thực hiện không chậm trễ, việc trả tự do cho các nhân vật bất đồng chính kiến, đặc biệt là đòi Việt Nam phải tổ chức bầu cử tự do trên căn bản đa đảng. Đồng thời, thực hiện quyền tự do báo chí. Ông Ian Pearson, Bộ Trưởng Thương Mại & Đặc Trách Nhân Quyền Bộ Ngoại Giao Anh quốc, đang là Chủ Tịch luân phiên của Liên Hiệp Âu Châu, phát biểu sau khi Nghị Quyết được thông qua: “Tôi chào mừng sự quan tâm của Quốc Hội Âu Châu trên vấn đề hôm nay. Đặc biệt là cuộc điều trần quan trọng ngày 12 tháng 9 năm 2005 dẫn đến Nghị Quyết này. Tôi biết rất rõ về tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng tại ba nước Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Ví dụ như tại Bộ Ngoại Giao, trong năm nay đã nhận được 100 thư khiếu nại của các Dân Biểu Anh quốc về những vụ vi phạm nhân quyền tại Việt Nam. Tôi mừng rằng, sau cuộc điều trần nói trên, nhà cầm quyền Việt Nam đã để cho Liên Âu gặp thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Tôi sẽ nêu vấn đề này và đưa ra một danh sách tù nhân phải được trả tự do, trong cuộc gặp gỡ và đối thoại về nhân quyền với phái đoàn nhà cầm quyền Việt Nam vào ngày 12 tháng 12 sắp tới (2005)”
Ngày 25/1/2006, Nghị Viện Châu Âu tại Strasbourg đã đưa ra Nghị Quyết 1481, lên án “chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể”. Trong điều 2 ghi rằng: “Những vi phạm khác nhau tùy theo nền văn hoá và những giai đoạn lịch sử: (1) Những hành vi từ ám sát, hành quyết, bỏ đói, đày ải, đến khủng bố, tra tấn cá nhân lẫn tập thể trong các trại tập trung. (2) Những hành vi ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, từ tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí, đến tự do lương tâm, và độc đảng chính trị”. Trong điều 5 ghi rằng: “Cần thiết phải điều tra và truy tố những tội phạm ra tòa án xét xử”.

Ngày 15/3/2007, phái đoàn Nhân Quyền Na Uy có tên là “Rafto Foundation for Human Rights” do Cô Therese Jebsen hướng dẫn sang Việt Nam, với mục đích thăm Hòa Thượng Thích Quảng Độ và trao giải thưởng Nhân Quyền mà Ngài được tổ chức này quyết định trao tặng hồi tháng 11/2006. Cùng đi, còn có ông Tom Rune Orset, thông tín viên đài truyền hình TV2 của Na Uy, và cô Kiều Trần với trách nhiệm thông dịch. Công An đã ngăn chận, chẳng những không cho phái đoàn vào Thanh Minh Thiền Viện, mà còn đưa phái đoàn về trụ sở Công An “làm việc” mấy tiếng đồng hồ. Sau đó, Công An gọi cô Kiều Trần đến trụ sở làm việc, nhưng Cô Trưởng phái đoàn không đồng ý vì Cô nghi ngờ họ hành động gian trá đối với cô Kiều Trần.
Ngày 12/7/2007, Quốc Hội Châu Âu trụ sở tại Strasbourg đã thông qua “Quyết Nghị về vấn đề Việt Nam” sau khi nghe một số Dân Biểu Tây Âu & Đông Âu trình bày về đàn áp nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt là đàn áp 20 Ban Đại Diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, điều luật an ninh quốc gia trong Bộ Luật Hình Sự trái với Công Ước quốc tế, Pháp Lệnh 44 xử lý hành chánh ban hành năm 2002 cho phép đưa các nhân vật bất đồng chính kiến vào bệnh viện tâm thần như kiểu Xô Viết ngày trước.
Trong quyển “Death by Government” giáo sư R.J. Rummel viết như sau: “Dưới lớp võ Việt Minh chống Pháp, cùng lúc họ thực hiện cuộc chiến tranh tàn sát những người quốc gia không cùng đường lối với họ. Chưa hết, họ cũng tiêu diệt những người cùng trong hàng ngũ khi họ xem những người cộng sản đó chệch hướng”.
Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007)
Ngày 23/1/2008, tại Strasbourg, Quốc Hội Châu Âu đã thông qua Quyết Nghị về Việt Nam. Quyết Nghị tố cáo CSVN vi phạm nghiêm trọng tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đàn áp bắt giam những người lên tiếng về tự do tôn giáo, về chống hành vi lấn chiếm lãnh thổ, và bắt giam các nhà báo. Quyết Nghị kêu gọi Liên Hiệp Châu Âu “đề xuất với CSVN chấm dứt tình trạng vi phạm qui mô về nhân quyền trước khi ký kết các Hiệp ước mới”.
Ngày 2/3/2009, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công bố tình hình nhân quyền thế giới, trong đó có phần nói về nhân quyền tại Việt Nam trong năm 2008: “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với dân số khoảng 86 triệu người, là một quốc gia độc đoán do đảng cộng sản Việt Nam cai trị. Cuộc bầu cử tháng 5/2007 đã diễn ra trong không khí thiếu tự do, không công bằng, vì tất cả ứng viên bị xem xét nghiêm ngặt bởi Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, tổ chức ngoại vi của đảng CSVN có nhiệm vụ theo dõi các tổ chức quần chúng. Trong năm qua (2008), nhà cầm quyền tiếp tục ngăn chận các quyền tự do căn bản như tự do báo chí, tự do bày tỏ cảm nghĩ, tự do hội họp, cùng với hành động đàn áp những người bất đồng chính kiến, bắt giữ các nhà dân chủ khiến nhiều người phải ra đi lánh nạn. Người dân không thể thay đổi chánh phủ bằng lá phiếu vì các hoạt động chính trị bị ngăn cấm hoàn toàn”.
Ngày 09/03/2009, tổ chức Freedom House công bố tại Genève (Thụy Sĩ) bản phúc trình hằng năm về tình trạng nhân quyền thế thế giới. Bản phúc trình chia các quốc gia được đánh giá tình trạng nhân quyền trong năm 2008 làm 3 nhóm khác nhau: Nhóm thứ nhất là các quốc gia hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn về có tự do nhân quyền trong suốt một phần tư thế kỷ qua, trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Australia, Italy, …… Nhóm thứ hai là các quốc gia có tự do chừng mực về nhân quyền, là Thái Lan, Singapore, Phi Luật Tân, Trung Hoa cộng sản, Iraq, …. Và nhóm thứ ba là các quốc gia hoàn toàn không có tự do về nhân quyền, gồm Việt Nam, Cam Bốt, Á Rập Xê Út.

Một chế độ mà từ Chủ Tịch đảng, xuống Tổng Bí Thư, đến Chủ Tịch nước, Thủ Tướng chánh phủ, tự tôn vinh là người vĩ đại, là đỉnh cao trí tuệ, là tài tình sáng suốt, là tuyệt đối đúng, lại dối trá kèm theo những mưu mẹo vặt trong toàn bộ chính sách độc tài cai trị dân từ thể xác đến tinh thần, quả là dân tộc Việt Nam vô cùng bất hạnh! Từ bản chất độc tài gian dối đó, các nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã gây ra vô vàn tội ác với dân với nước mà 4 tội ác dưới đây là tiêu biểu mạnh mẽ:

a. Tội ác về giáo dục.
Trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 có bài “Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam” của giáo sư Hoàng Tụy. Ông nhận định sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đã và đang làm đau đầu cả xã hội. Chính Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã thừa nhận chánh thức sự không thành công của giáo dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu thực và ảo của giáo dục. Nếu Việt Nam cô lập với thế giới thì không đến nỗi quá lo lắng, nhưng nếu khách quan và có trách nhiệm khi đặt giáo dục trong bối cảnh toàn cầu, thì không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia chung quanh. Thực tế, đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái nghiêm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua”.
Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà 20 năm qua không hề thay đổi. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng cao cả về giáo dục con người trong một xã hội lành mạnh với cuộc sống trung thực và óc sáng tạo để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đã không đuợc chú ý trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.
Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nhìn của một người Mỹ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ tướng đảng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush tháng 6 năm 2008 tại Washington DC.
“Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục: Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp vì cơ sở không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ thì mua, còn giáo sư thì được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do công trình và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi nhìn vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành. Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh viên từ các trường đại học Việt Nam có trình độ rất kém, bằng chứng là một công ty kỹ nghệ Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có trình độ tối thiểu. Tình trạng giáo dục Việt Nam có thể phá hỏng những phát triển kinh tế trong nước và tiến trình hội nhập thế giới”.
Sau buổi họp ngày 11/9/2008 tại Hà Nội, CSVN yêu cầu Hoa Kỳ trợ giúp đào tạo 10.000 tiến sĩ tính đến năm 2020, theo bài viết của Mặc Lâm phóng viên đài RFA, thì giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Giám Đốc Điều Hành Quỹ Học Bổng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ tại Việt Nam, cho biết: “Với tư cách là một nhà giáo, với tư cách là một người có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, con số đưa ra (10.000 tiến sĩ) lớn lao như vậy, sẽ có những khó khăn trước mắt. Theo kinh nghiệm của tôi, ở Việt Nam rất khó tìm được những đối tượng đủ khả năng để theo học bằng tiến sĩ. Bằng chứng là chúng tôi có một dự án đào tạo 50 tiến sĩ giữa đại học Liège của Bỉ với đại học Xây Dựng Hà Nội, nhưng đã 5 năm qua rồi mà chúng tôi chỉ tìm được chưa tới 10 người thì làm sao tìm đâu ra con số 10.000 người trong 12 năm tới. Bậc tiến sĩ không phải chỉ có tài chánh là đủ, mà vấn đề là phải có những học sinh có đủ tư duy, có đủ trình độ để theo học, có một đam mê nào đó mới có thể đạt đến bằng tiến sĩ nghiêm túc như ở Hoa Kỳ, hay ở các đại học Châu Âu. Nói chung là tìm đối tượng tại Việt Nam theo học tiến sĩ là rất rất khó”.
Trong suốt chiều dài hơn 30 năm kể từ khi chiếm xong Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, nền giáo dục Việt Nam và các vấn đề liên quan rất tồi tệ, dù rằng từ năm 2001 đến nay mức phát triển kinh tế phát triển trên dưới 7% mỗi năm. Lãnh đạo CSVN chỉ chú trọng làm ra khẩu hiệu chớ không làm ra chính sách, vì chính sách giáo dục từ nửa cuối thế kỷ 20 đến nay là đầu thế kỷ 21 chỉ có mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Xuyên qua nhận định của những viên chức hàng lãnh đạo giáo dục Việt Nam, cũng như nét nhìn từ viên chức giáo dục Hoa Kỳ, sự thật tồi tệ hiện nay đến mức lãnh đạo CSVN không thể che giấu nỗi nên phải nhìn nhận sự thật mà bản chất của đảng cộng sản vốn dĩ là dối trá che giấu. Đây là tội ác nặng nhất trong số những tội ác mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, bởi vì xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội băng hoại đạo đức, đảo lộn luân thường đạo lý, dẫn đến tình trạng sau khi chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau đó mới hy vọng khôi phục lại được nét tinh hoa văn hoá dân tộc.

b. Tội ác về lãnh thổ.
Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng ký văn kiện ngày 14/9/1958, công nhận vùng Biển Đông bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam trở thành lãnh thổ của nước Trung Hoa. Đây là hành động chư hầu của nhóm lãnh đạo VNCS đối với THCS chẳng khác thời phong kiến xa xưa trong lịch sử! Với văn kiện này không thể do ông Thủ Tướng họ Phạm quyết định mà phải là lệnh của Bộ Chính Trị do ông Hồ lãnh đạo. Từ đó khẳng định ông Phạm ký văn kiện đó là theo lệnh ông Hồ.

Ngày 30/12/1999, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đảng CSVN ký Hiệp Ước dâng 789 cây số vuông dọc biên giới để trừ nợ mua vũ khí đạn dược sử dụng trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa 1955-1975, là hành động cắt đất bán cho THCS!

Ngày 25/12/200, ông Trần Đức Lương đến Bắc Kinh cùng Giang Trạch Dân ký Hiệp Ước cắt 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt cho Trung Hoa cộng sản, là hành động cắt biển bán cho THCS để lấy 2.000.000.000 mỹ kim, mà theo lời ông Lương để “vuốt ve” sức phản kháng của ông Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, và những người khác trong Quốc Hội. Phải viện dẫn lý do thăm viếng, vì sau khi những tin tức loan truyền khá rộng rãi tại Hà Nội, loan dần vào miền Nam về Hiệp Ước ngày 31/12/1999 bán đất cho THCS và đã âm thầm đưa Hiệp Ước ra Quốc Hội phê chuẩn ngày 9/6/2000. Với hành động không công khai minh bạch, chứng tỏ lãnh đạo VNCS biết những hành động đó là hành động tội ác nên phải che giấu người dân dưới quyền. Biết vậy mà vẫn hành động, chính xác là lãnh đạo VNCS đặt quyền lợi đảng cộng sản Việt Nam lên trên quyền lợi tổ quốc quyền lợi dân tộc, vì quyền lợi của đảng đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của nhóm lãnh đạo hơn 100 đảng viên trong ban chấp hành trung ương của họ.
Vậy là, ngoài nhóm 4 tên lãnh đạo với tội ác nói trên đã bán đất bán biển cho THCS, thêm nhóm lãnh đạo với tội ác thỏa hiệp cho THCS sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa tỉnh Hải Nam hồi đầu tháng 12/2007. Rồi tội thêm tội khi họ sử dụng “hung thần” Công An ngăn chận thanh niên sinh viên học sinh biểu tình ngày 9 & 16/12/2007 phản đối THCS chiếm hai quần đảo nói trên của Việt Nam. Chưa hết, lại tội thêm tội khi các thành phần phẫn uất hành động của THCS lẫn phản ứng của VNCS chuẩn bị mít tinh biểu tình trước tòa đại sứ THCS vào ngày 14/9/2008, phản đối chúng trưng dẫn văn kiện của Phạm Văn Đồng gởi THCS vào ngày này 50 năm trước, lại bị đám “hung thần” Công An tại Hà Nội cũng như tại các địa phương, ra sức ngăn chận bắt giữ thẩm vấn những ai mà họ nghi sẽ tham gia mít tinh biểu tình. Nhóm lãnh đạo tội ác này là Nguyễn Minh Triết trong chức Chủ Tịch nước và Nguyễn Tấn Dũng trong chức Thủ Tướng.
Với những hành động gian trá giấu diếm khi ký ba văn kiện ngày 14/9/1958, ngày 30/12/1999, ngày 25/12/2000, cộng với những hành động gian trá của Quốc Hội khi phê chuẩn hai Hiệp Ước nói trên, cộng thêm sự thỏa hiệp để Trung Hoa cộng sản thành lập huyện Tam Sa bao gồm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, lại còn sử dụng Công An đàn áp những ai thể hiện ý thức chính trị ôn hòa qua hành động mít tinh biểu tình phản đối hành động của THCS lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam, đích danh Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, là những tên bán đất bán biển cho THCS, một quốc gia với chiến lược trường kỳ xâm chiếm Việt Nam chúng ta! Chỉ riêng cái tội kinh hoàng này mà dân gian gọi là “trời không dung đất không tha”, đã quá đủ để đưa những tên này ra tòa án quốc gia phán xét, và lưu mãi trong sử sách truyền mãi trong dân gian cho đến ngàn năm sau như những tên bán nước từ ngàn năm trước. Kẻ bán nước không được gọi bằng ông hay bất cứ cách gọi nào khác dành cho người tử tế cho dù họ bao nhiêu tuổi.
Chưa hết, tháng 12 năm 2008, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng: “Khai thác quặng Bauxite là chủ trương lớn của đảng (mà đảng là nhóm lãnh đạo)”. Thỏa hiệp này cho Trung Hoa cộng sản đưa hằng ngàn thậm chí là hằng chục ngàn công nhân và lực lượng quân đội dưới danh nghĩa bảo vệ an ninh vùng khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên miền Trung tạo môi trường sống vùng này trở nên tồi tệ. Và tồi tệ hơn hết nếu giả thuyết sau đây rất có thể trở thành sự thật là một lực lượng quân đội THCS sẽ đồn trú dài hạn nơi đây dưới danh nghĩa nào đó mà lãnh đạo VNCS không thể khước từ do lệ thuộc THCS.
Nước Việt Nam ta qua nhiều ngàn năm lịch sử với biết bao thăng trầm vinh nhục, nhưng chưa có triều đại nào cũng chưa có nhóm lãnh đạo nào tồi tệ đê hèn như nhóm lãnh đạo Việt Nam cộng sản, đã vì quyền lợi riêng tư mà dâng nộp cho Trung Hoa cộng sản 789 cây số vuông (năm 1999) trên dãi đất biên giới, 11.362 cây số vuông (năm 2000) trong vùng vịnh Bắc Việt, và mặc nhiên thỏa hiệp cho Trung Hoa cộng sản sáp nhập quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào huyện Tam Sa của Trung Hoa cộng sản (2007), cộng với nhiều ngàn công nhân lẫn đơn vị quân đội THCS trong khu vực khai thác quặng mõ Bauxite vùng Dak Nong Cao Nguyên Miền Trung (năm 2008). Đây là tội ác ngang hàng với tội ác giáo dục

c. Tội ác tàn sát đồng bào.
- Theo giáo sư Rummel trong quyển “Death by Government” thì cộng sản Việt Nam với tội ác tàn sát đồng bào. Trong giai đoạn 1945-1957, đã giết những thành phần mà họ gọi là các tầng lớp trí thức, tư sản giàu có, khác khuynh hướng chính trị, và những người trong hàng ngũ của họ mà họ cho là chệch tư tưởng cộng sản cũng bị họ giết. Căn cứ vào tài liệu, số người bị giết trong giai đoạn này vào khoảng 50.000 người.
- Trong giai đoạn cải cách ruộng đất trên đất bắc 1953-1955. Bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, cho biết có 172.008 người bị đấu tố (được hiểu là bị giết). Sau khi sửa sai thì đảng với nhà nước đưa ra con số 123.266 người bị coi là oan. Riêng nạn nhân trong chính sách cải cách ruộng đất, theo nhật báo “Nhân Dân” của CSVN ngày 20/7/1955, sau 6 đợt cải cách ruộng đất có 10.303.004 nạn nhân. Theo bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh Tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội năm 2004, số người bị đấu tố lên đến 172.008 người, và sau giai đoạn sửa sai xác định trong tổng số đó có đến 132.266 người bị oan. (trích bài “Con Số 100 Triệu Nạn Nhân” của ông Tú Gàn ngày 25/6/2007).
- Trong Tết Mậu Thân năm 1968, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, thì số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã bắt giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! Nhưng theo sử gia Trần Gia Phụng thì số người tìm được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người!
- CSVN bắt đầu cuộc gây chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954, và đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam Cộng Hòa chúng ta sụp đổ. Theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN năm 1976, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam. Nhưng theo nhà văn nữ (cựu cộng sản) Dương Thu Hương thì số người chết lên đến 10.000.000 người.
- Cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam dưới tên nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với hằng loạt những chính sách đánh quỵ xã hội mà họ vừa chiếm được. Theo tài liệu của Việt Quốc bên Germany, thì Sở Công An Sài Gòn (mà họ cái tên Hồ Chí Minh vào đó), đến cuối tháng 7 năm 1975, Công An đã đẩy 154.772 quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ vào các trại tập trung. Đến cuối tháng 10 cùng năm (1975), Công An bắt thêm 68.037 người nữa. Cộng chung tính đến 30 tháng 10 năm 1975, tổng số cựu quân nhân viên chức Việt Nam Cộng Hòa cũ, bị họ giam giữ trong khoảng 200 trại tập trung trên toàn cõi Việt Nam là 222.809 người. Đến tháng 4/1992, người cuối cùng mới ra khỏi trại tập trung. Trong 17 năm đó, ước lượng từ 8.000 đến 10.000 tù chính trị bị chết do chính sách thù hận thâm độc của nhóm lãnh đạo CSVN..
- CSVN áp dụng những chính sách khắc nghiệt cai trị toàn cõi Việt Nam, là nguyên nhân chính đẩy hơn 3.000.000 người bằng mọi phương cách rời khỏi quê hương tìm tự do trên khắp thế giới! Trong số này có khoảng 150.000 người di tản trước trong và ngay sau ngày 30/4/1975. Tiếp sau đó, dòng người Việt Nam ào ạt trốn chạy khỏi quê hương tị nạn tại các quốc gia tự do trên thế giới gồm 839.200 người trong 20 năm kể từ tháng 6/1975: Giai đoạn 1, tháng 6/1975 - 1979 có 326.000 người tị nạn gồm 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới gọi là Thuyền Nhân”. Giai đoạn 2, 1980 - 1984, có 253.100 người tị nạn gồm 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Giai đoạn 3, 1985 - 1989, có 197.000 người tị nạn gồm 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Và giai đoạn 4, 1990-1995, có 63.100 người tị nạn gồm 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Các cơ quan quốc tế về truyền thông lẫn tị nạn dựa vào tin tức do người tị nạn cung cấp, phỏng đoán cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết mất xác. Theo cách ước tính này, có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài! Đây là tội ác thứ hai sau hai tội ác ngang nhau là giáo dục và lãnh thổ.

d. Tội ác áp bức cướp đoạt tài sản.
Sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa 30/4/1975, đẩy hơn 200.000 viên chức cán bộ và quân nhân vào các trại tập trung, CSVN bắt đầu cướp đoạt tài sản mọi thành phần xã hội Việt Nam Cộng Hòa cũ:
Ngày 20 tháng 8 năm 1975, Bộ Văn Hoá Thông Tin cộng sản Việt Nam, ra lệnh mọi người phải tiêu hủy toàn bộ văn hoá phẩm thời Việt Nam Cộng Hòa mà họ gọi là văn hóa phẩm đồi trụy và phản động. Họ mở chiến dịch truy lùng bắt giữ những ai tàng trữ, buôn bán, bắt giữ, và truy tố ra “tòa án nhân dân”. Chính sách này giống chính sách của vua Tần Thỉ Hoàng thời Trung Hoa phong kiến, và thời Mao Trạch Đông cộng sản. Nhà văn nữ cộng sản Dương Thu Hương viết rằng: “Sau 30/4/1965, tôi vào miền Nam choáng váng khi nhận thấy hệ thống thông tin ở đây quá phong phú. Trên các quày sách với vô số các tác phẩm văn chương, khoa học, triết học của thế giới kim cổ Đông Tây. Rất nhiều sách triết học Mác - Lê, sách văn học Nga và Sô Viết. Trong khi ở miền bắc mấy chục năm trời chỉ có một luồng thông tin, làm sao nhìn hết sự vật để đánh giá!”

Ngày 18 tháng 9 năm 1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất thình lình thực hiện chính sách đổi tiền. Họ không giới hạn số tiền mang đến đổi, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng mới, mà họ qui định 1 đồng bạc mới bằng 500 đồng bạc cũ (1 mới = 500 cũ). Số tiền còn lại, mỗi khi gia đình có nhu cầu phải làm đơn xin và phải được Phường/Xã chứng nhận mới được cứu xét. Còn cứu xét như thế nào thì tùy họ khi vui lúc buồn. Tháng 5/1978 đổi tiền lần nữa với trị giá 1 đồng mới = 10 đồng đang lưu hành. Như vậy, 1 đồng bạc mới = 5.000 đồng Việt Nam Cộng Hòa cũ. Một chút so sánh: Đến ngày 6/3/2009, 1 mỹ kim = 17.380 đồng VNCS. Nếu đem 1 mỹ kim x 17.380 đồng VNCS x 5.000 VNCH năm 1975 sẽ là = 86.900.000 đồng. Con số này nói rât rõ về sự mất giá của đồng bạc VNCS đến mức nào sau 33 năm cầm quyền!

Ngày 10 tháng 11 năm 1975, chính sách đánh vào ngành kinh doanh thương mãi, ép mọi chủ nhân mà họ gọi là “vận động” hiến tặng cho nhà cầm quyền toàn bộ cơ sở kinh doanh thương mãi, kể cả nhà ở, rồi chuyển đến các khu hoang vắng mà họ gọi là “khu kinh tế mới” tự mưu sinh. Trường hợp không chấp hành sự vận động của họ thì bị bắt vào trại tập trung, còn tài sản bị họ tịch thu. Có nghĩa là, cho dù bằng cách nào đi nữa thì tài sản cũng vào tay nhà nước cộng sản, chỉ khác ở chổ là những chủ nhân có bị vào trại tập nhỏ -tức nhà tù- hay vẫn trong trại tập trung lớn -tức xã hội- thế thôi.
Đến chính sách cải tạo văn nghệ sĩ. Tờ L’ humanité của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 21 tháng 3 năm 1976 tại Paris, có đăng tải danh sách 321 văn nghệ sĩ thời Việt Nam Cộng Hòa, đã bị nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bắt vào trại tập trung cải tạo từ ngày 13 tháng 6 năm 1976.
Tháng 6 năm 1977, lại một chính sách khác buộc tất cả nông dân có ruộng mà họ gọi là “vận động”, đem tập trung vào Hợp Tác Xã. Nông dân vẫn canh tác nhưng sản phẩm do Hợp Tác Xã quản trị, còn nông dân tùy theo lao động của mình bỏ ra mà nhận lại đồng lương bằng sản phẩm do Hợp Tác Xã quyết định. Và họ quản trị lao động công việc đồng áng chẳng khác những trại lính. Trần Bá Đệ, một sử gia miền bắc viết rằng: “Trong khi nông nghệp miền bắc đang trên con đường hợp tác hóa trên 15 năm đang ở lối nghẽn chưa tìm ra lối thoát, đảng lại chủ trương đưa nông nghiệp miền nam đi tiếp trên con đường đó”. (trích quyển “Lịch sử hiện đại Việt Nam 1945-2006” của tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành, xuất bản năm 2008, trang 643)

Cái chính sách toàn bộ đất đai trên toàn cõi Việt Nam thuộc về nhà nước mà nhà nước lả đảng cộng sản mả đảng là một nhóm hơn 10 đảng viên trong Bộ Chính Trị. Chính từ chính sách này mà phát sinh vô số người dân phải kêu oan khiếu nại. Từ năm 2006, sự kiện từng đoàn dân oan từ chấp nhận mọi khó khăn trong sinh hoạt hằng ngày và nguy hiểm đến tính mạng, đã các tỉnh kéo vào thành phố kinh tế Sài Gòn và thành phố chính trị Hà Nội ở đó tháng này sang tháng khác, kêu oan khiếu nại với các cơ quan thẩm quyền, là bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự áp bức bóc lột người dân về đất đai, dưới danh nghĩa xây dựng công ích quốc gia nhưng hầu hết đem bán cho các cơ quan đầu tư ngoại quốc xây dựng cơ sở sản xuất cũng như cơ sở giải trí với giá cao trong khi đền bù cho dân quá thấp. Nhà nước cộng sản dành cho cái quyền quản trị đất đai, cho người dân sử dụng nhưng khi cần là họ lấy lại đúng nghĩa của “chế độ (dân) xin và (nhà nước) cho”, nhưng khi thấy có lợi cho họ là họ lấy lại. Tình trạng dân oan khiếu nại kiện thưa từ đó đến cuối năm 2008 càng thêm phức tạp, các cấp lãnh đạo đều gian trá dối gạt đồng bào đến mức người dân oan không còn tin lãnh đạo hứa hẹn, cũng không sợ Công An đàn áp. Các cơ quan truyền thông quốc tế ước lượng có khoảng từ 30.000 đến 50.000 dân oan tham dự khiếu nại thưa kiện tại các tỉnh và thành phố mà nhiều nhất là Sài Gòn và Hà Nội.

Trên tuần báo Saigon Weekly News ngày 31/10/2008 tại Houston, ông John Hendra, phối trí viên của Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cảnh báo rằng: “Dù kinh tế Việt Nam phát triển trong những năm gần đây nhưng nhiều nhóm dân vẫn trong tình trạng có thể bị thiếu thực phẩm, nhất là những nhóm nông dân không có ruộng đất, những nhóm dân nghèo tại các đô thị, và những nhóm dân tộc thiểu số. Giữa lúc giá nhiên liệu và thực phẩm trên thế giới giảm dần thì lạm phát tại Việt Nam vẫn còn ở tỷ lệ 26.7% trong năm 2008, khiến ngân sách gia đình của giới nghèo túng càng thêm kiệt quệ. Trong hơn 10 năm qua, kinh tế Việt Nam phát triển trung bình 7.5% giúp một số dân thoát khỏi cảnh nghèo đói, nhưng tình trạng hiện nay làm cho giới dân nghèo trở thành cơ cực đã tạo nhiều bất ổn trong xã hội (Có lẽ nói đến tình trạng dân nghèo bị bóc lột phải đi khiếu nại kêu oan. PBH). Việt Nam cần phải củng cố các chương trình an sinh xã hội để giúp dân nghèo nhiều rủi ro nhất”.
Bản tin ngày 5/2/2009 do Thời Báo Kinh tế Việt Nam ghi nhận, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cho biết tình hình kinh tế xã hội năm 2008 rất nhiều biến động gần như không thể lường trước được, do đó ông kêu gọi dân chúng phải đồng thuận để tạo sức mạnh đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện nay. Việt Nam chưa cần phá giá đồng bạc, vì phá giá từ 17.000 đồng VN = 1 MK lên 18.000 đồng thì tổng số nợ ngoại quốc từ 18 tỷ mỹ kim (hiện nay) sẽ tăng lên rất nhiều và ảnh hưởng mạnh vào ngân sách. Ngay trong tháng đầu năm 2009, chỉ số của các ngành từ sản xuất kinh doanh đến du lịch, xuất cảng, … đều giảm sút mạnh.

3. Kết luận.
Cộng sản độc tài vẫn là cộng sản độc tài. Họ chỉ phục vụ bản thân họ dưới tên gọi đảng cộng sản Việt Nam. Từ kinh nghiệm dẫn đến khẳng định, đã là cộng sản thì không có người cộng sản tử tế vì những chính sách giáo dục chỉ nhắm đào tạo những thế hệ thần dân tuân phục họ, và những chính sách xã hội chỉ nhắm đè bẹp các quyền tự do của con người trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị người dân, cho nên hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam không có những công dân tử tế để xây dựng một xã hội tử tế trong mục đích phục vụ người dân.
Vậy, ngày nào chế độ CSVN độc tài tàn bạo còn tồn tại thì ngày đó người dân vẫn mất quyền làm người và vẫn bị áp bức bóc lột từ vật chất đến tinh thần. Cách duy nhất mà người dân giành lại quyền làm người của mình là vùng lên lật đổ và triệt tiêu chế độ này, vì lá phiếu không thể chuyển hóa được những kẻ lãnh đạo tàn bạo phi nhân của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng./.

(Trích phụ bản A trong bài đang viết “Quan Niệm Sách Lược Đấu Tranh Lật Đổ CSVN”).
Houston, 12 tháng 3 năm 2009

12 THÁNG ANH ĐI