30 thg 6, 2009

Từ tinh thần Trung Hoa tới chủ nghĩa bá quyền


Đoan Trang

Không người dân nước nào không có tinh thần dân tộc. Nhưng để trở thành chất keo gắn kết một khối hơn 1,3 tỷ con người trên khắp thế giới, khiến họ cùng tin và luôn tin vào hình ảnh một đất nước rộng mở, thân thiện, phải là một thứ chủ nghĩa dân tộc đặc biệt, chỉ người Trung Hoa mới có.
Hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, Trung Quốc đã dựa vào tinh thần dân tộc để tồn tại như một thể thống nhất suốt từ thời Tần Thủy Hoàng (259 - 210 trước Công nguyên) đến nay.
Đến lượt mình, Bắc Kinh ngày nay cũng đang sử dụng lòng yêu nước, tự hào dân tộc như một loại "thuốc kích thích" cho sự đoàn kết và phát triển đất nước, để từ đó duy trì sự bền vững của chính thể.

Tự hào để phát triển, phát triển để tự hào

Kể từ khi Đặng Tiểu Bình khởi xướng công cuộc cải cách mở cửa nền kinh tế, chính quyền Trung Quốc đã nhanh chóng nhận thấy sự cần thiết phải sử dụng chủ nghĩa dân tộc làm công cụ đoàn kết và thúc đẩy sức mạnh toàn dân. Điều này càng trở nên bức thiết sau vụ Thiên An Môn năm 1989 và sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 - hai sự cố khiến nhiều người tưởng rằng ngày tàn của chế độ đã gần kề.
Tuy nhiên, sau hai thập niên, dự đoán về sự sụp đổ đã sai và chính thể vẫn ổn định. Trung Quốc có thể đối diện hàng chục vấn đề, nhưng nó có một thứ mà chính phủ của mọi nước đang phát triển đều thèm muốn, đó là tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới: 8-9% trong 30 năm liên tục.
Suy cho cùng, nhờ thế, người dân Trung Quốc càng có lý do để tự hào. Họ chỉ mất 30 năm công nghiệp hóa để chứng kiến những gì châu Âu phải mất 200 năm trải qua. Cứ sau 8 năm, quy mô nền kinh tế Trung Quốc lại tăng gấp đôi. Trong cuốn The Post-American World [i], tác giả Fareed Zakaria viết: "Một chiếc bánh phình to có thể làm cho mọi vấn đề, dù là đáng bi quan nhất, trở nên ít nhiều dễ xử trí hơn".

"Ý thức hệ mới của người Trung Quốc"

"Chính phủ ở Trung Quốc hiện nay là sản phẩm của chủ nghĩa dân tộc hơn là sản phẩm của ý thức hệ mác xít hay cộng sản" - GS Liu Kang, một nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc, thuộc ĐH Duke, nhận định.
Theo ông, chủ nghĩa dân tộc đã trở thành "ý thức hệ chính đáng và mạnh mẽ nhất" tại đất nước hơn một tỷ dân này. Nếu bóc đi ánh sáng dẫn đường của tư tưởng Mao Trạch Đông, thì chỉ còn lại chủ nghĩa dân tộc như chất keo kết dính toàn xã hội.
Mai, một nghiên cứu sinh Việt Nam tại Bắc Kinh, cho hay, Trung Quốc tổ chức phát triển đảng rất mạnh mẽ trong giới trẻ. Thanh niên được kết nạp đảng sớm, nhanh chóng, dễ dàng. Ở trường, họ được học ba môn quan trọng là Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Mao Trạch Đông và Lý luận Đặng Tiểu Bình.
Cô đã gặp không ít người Trung Hoa trẻ tuổi thể hiện một niềm tin tưởng sâu sắc vào chế độ. "Đừng ngạc nhiên nếu họ vui vẻ nói với bạn rằng "Ôi, chủ nghĩa xã hội thật là ưu việt!", và sự kiện Thiên An Môn là cách xử lý không thể tốt hơn của chính phủ trong hoàn cảnh đó" – Mai nói.
"Theo tôi, cái mà họ ủng hộ mang màu sắc của một thứ "chủ nghĩa Trung Hoa", thực chất là “chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc”, chứ không hẳn là chủ nghĩa xã hội".

"Thuốc kích thích"

Năm 2002, Trịnh Tất Kiên - phó hiệu trưởng Trường Trung ương Đảng - đã sáng tạo ra thuật ngữ "trỗi dậy hòa bình" nhằm chuyển tải mục đích âm thầm vươn tới địa vị quyền lực trên thế giới. Từ này bây giờ được sử dụng thường xuyên để mô tả nguyện vọng và phần nào là học thuyết ngoại giao (chưa bao giờ được công bố) của Bắc Kinh.
Chính quyền đại lục cũng đang thực hiện nhiều cách để đảm bảo rằng nhân dân Trung Quốc nắm rõ chiến lược "trỗi dậy hòa bình" của đất nước mình. Năm 2006 - 2007, Truyền hình Trung ương Trung Quốc phát sóng loạt phim 20 tập - Sự trỗi dậy của những dân tộc vĩ đại.
Thông điệp mà Chính phủ mong muốn bộ phim truyền tải đến cho người dân là: đoàn kết dân tộc, thành công về kinh tế và công nghệ, ổn định chính trị, sức mạnh quân sự, một nền văn hóa sáng tạo và quyến rũ, đó là những chìa khóa để một dân tộc vươn thành vĩ đại. Cũng qua đây, Trung Quốc vẽ nên trong mắt người dân hình ảnh một đất nước yêu hòa bình và sẽ chỉ vươn lên địa vị bá chủ một cách hòa bình và hấp dẫn.
Thử hỏi người Trung Quốc có ai lại không tự hào làm dân một đất nước như thế?
Lòng ái quốc, tinh thần dân tộc luôn phát huy hiệu quả rất tốt nếu được đặt đúng vị trí. Cho đến giờ, Bắc Kinh vẫn tỏ ra khéo léo trong việc huy động "chủ nghĩa Trung Hoa" vào công cuộc phát triển kinh tế và giữ vững khối đại đoàn kết dân tộc. Các chính phủ hay các công ty nước ngoài tới Trung Quốc làm ăn cũng nên học tập tấm gương đó.
Một ví dụ (được nhà báo Fareed Zakaria nêu trong cuốn The Post-American World): Trong bao nhiêu năm trời, Microsoft không tài nào bắt Trung Quốc thi hành luật bản quyền. Tình hình chỉ thay đổi khi tập đoàn này bỏ ra rất nhiều nỗ lực phát triển quan hệ với chính quyền, khiến họ thấy rõ là Microsoft muốn góp phần thúc đẩy kinh tế và hệ thống giáo dục Trung Quốc. Đến lúc đó, những quy định pháp luật tương tự mới bắt đầu có hiệu lực.
Còn một khi chính quyền trung ương Trung Quốc đã nổi giận thì hậu quả thật khó lường. Sau khi Nhật Bản cho lưu hành sách giáo khoa với nội dung "nói giảm, nói tránh" về những tội ác mà phát xít Nhật gây ra tại Trung Quốc trong quá khứ, phong trào bài Nhật đã bùng nổ ở đại lục. Người dân tẩy chay hàng Nhật, thậm chí tấn công cả vào đại sứ quán Nhật Bản tại Bắc Kinh.
Cũng với tinh thần dân tộc được đẩy tới mức cao nhất này mà ở Trung Quốc lâu nay có một phong trào "Trung Hoa hóa" những nhân vật nước ngoài nổi tiếng. Chẳng hạn, một bộ phận khá đông dân chúng tin rằng Thành Cát Tư Hãn là người Trung Quốc.
Vụ việc mới đây và có liên quan đến Việt Nam là cuốn Hồ Chí Minh sinh bình khảo của GS Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, phát hành tháng 11/2008. Trong cuốn sách, tác giả cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh chính danh là Hồ Tập Chương, nguyên là một người Khách Gia, tức thuộc Hán tộc. [ii]
Còn khi phía nước ngoài có các phát hiện theo hướng "ngoại quốc hóa" các nhân vật ưu tú của Trung Quốc, thì dĩ nhiên là sóng gió đùng đùng nổi lên. Học giả Hàn Quốc từng lưu truyền một tài liệu chứng minh Khổng Phu Tử là người Hàn, hay nghề in khắc - một trong "tứ đại phát minh" của Trung Hoa - té ra lại xuất xứ từ... Hàn Quốc.
Kết quả là theo một khảo sát không chính thức, người Hàn Quốc bị dân chúng Trung Quốc ghét ngang Nhật Bản.

Tác hại của thuốc kích thích

Điều đặc biệt là, thứ chủ nghĩa dân tộc mà Đảng Cộng sản Trung Quốc theo đuổi không chỉ gắn kết dân chúng ở lục địa, mà còn kết nối người Hoa trên toàn cầu. Đó là nhờ sự bùng nổ của mạng Internet. Chính Internet đã tạo ra một dòng chảy thông tin giữa người Trung Quốc ở trong nước với cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á, châu Âu và Bắc Mỹ.
Nhưng Internet cũng là môi trường cho chủ nghĩa dân tộc cực đoan phát triển. Tháng 5/1999, máy bay Mỹ ném bom trúng đại sứ quán Trung Quốc tại Belgarde. Phong trào phản đối dâng khắp đại lục. Chính phủ Trung Quốc đòi Mỹ phải xin lỗi, tuyên bố "CHDCND Trung Hoa vĩ đại không dễ bị bắt nạt". Cùng lúc đó, làn sóng phẫn nộ lan tràn trên không gian mạng.
Ngập lụt trong hàng nghìn email chửi rủa từ Trung Quốc, website của Nhà Trắng bị sập một thời gian. Hacker còn tấn công website của đại sứ quán Mỹ tại Bắc Kinh, chèn dòng chữ "Đả đảo bọn man rợ" lên trang chủ.
Tinh thần dân tộc Trung Hoa cũng được đẩy tới mức cực đoan trong cuốn best-seller của họ năm 1996 là China Can Say No (Trung Quốc có thể nói Không). Sách tràn ngập tư tưởng chống phương Tây và Nhật Bản. Có đoạn: "Trung Quốc phải mong muốn chiếm chỗ ngồi của cường quốc thế giới chứ có đâu tự bằng lòng bắt chước xã hội Tây phương một cách thảm hại như Nhật Bản trước đây!".
Theo các chuyên gia, mặc dù chủ nghĩa dân tộc là một công cụ hiệu quả cho chính quyền Trung Quốc gây thiện cảm với người dân và đoàn kết họ vì một mục tiêu phát triển chung, nhưng nó lại đe dọa khao khát "trỗi dậy hòa bình" của Trung Quốc. Nó làm các nước khác lo ngại, và là một trở ngại cho việc Trung Quốc xây dựng hình ảnh như một người anh lớn đầy trách nhiệm.

Và thuốc kích thích sẽ tăng liều!

Trung Quốc tự coi mình là một dân tộc chỉ mong muốn trỗi dậy hòa bình. Nhưng lịch sử cho thấy rất nhiều nước lớn cũng đã tự vẽ mình như thế – cho đến khi tinh thần dân tộc của họ biến thành cực đoan, và họ bắt đầu bành trướng tầm ảnh hưởng chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh.
Khi một nước lớn gia tăng lợi ích, tất yếu họ sẽ thấy sự cần thiết phải hành động bảo vệ lợi ích của mình. Nhất là nếu lợi ích ấy sinh ra từ thứ thuốc kích thích mang tên chủ nghĩa dân tộc, thì họ không có lý do gì để dừng lại.
Nói cách khác, thứ thuốc kích thích mang tên chủ nghĩa dân tộc này sẽ không ngừng buộc người dùng phải tăng liều. Từ tinh thần dân tộc tới chủ nghĩa cực đoan, bành trướng và bá quyền chỉ là một bước ngắn so với lịch sử.

[i] The Post-American World, NXB W.W. Norton & Co., tháng 4/2008. Tác giả Fareed Zakaria là biên tập viên tờ Newsweek. Bản tiếng Việt "Thế giới hậu Mỹ" sẽ được phát hành tại Việt Nam trong năm 2009.

[ii] Khách Gia (tiếng Anh: Hakka, tiếng Việt gọi là người Khách hay người Hẹ) là một tộc Hán từ miền bắc Trung Hoa di cư xuống miền nam nước này. Ngoài ra, họ cũng di tản đến nhiều nước khác ở Đông Nam Á. Tôn Trung Sơn, Đặng Tiểu Bình, Lý Quang Diệu, Thaksin Shinawatra… là những người Khách Gia nổi tiếng.

Ngậm Ngùi



Huy Cận

Nắng chia nửa bãi, chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi ! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường !
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau ?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi ...

27 thg 6, 2009

Om Mani Padme Hum


MẬT TÔNG

Phạm Công Thiện

Những Lời dạy thực tiễn của Tổ Sư Thánh Tăng Ấn Độ ATISA

TẤT CẢ ĐỀU CÓ SẴN TRONG TÂM THỨC CHÚNG TA

Nếu chúng ta biết cách điều động hướng dẫn trí tưởng tượng của chúng ta, chúng ta sẽ giựt mình nhận ngay rằng sức mạnh kinh hồn của trí tưởng tượng linh hoạt trong mọi bình diện đời sống, những điều lớn lao nhất trong đời đều có sẵn trong chúng ta. Chính sức mạnh của trí tưởng tượng có khả năng vô biên sáng tạo ra những cái cụ thể mà chúng ta thường gọi là thực tại và thực tế. Tất cả những điều chúng ta tưởng tượng mỗi ngày chính là đièu xô đẩy mình (lúc chết) đầu thai vào những cõi tối tăm xấu ác bi thảm. Biết tưởng tượng ra điều cao đẹp thì được sống cõi cao đẹp.

Chuyển hóa tâm thức cũng là một cách tích cực xoay chuyển trí tưởng tượng mìn vào trên đỉnh núi, mở rộng tầm nhìn của mình vọng thẳng lên bầu trời bao la mênh mông, quán tưởng, và quán tượng vô số chư Phật và chư Đại Bồ Tát đang vân tập như mây ngũ sắc đầy trời. Tất cả đều có sẵn trong tâm thức của chúng ta, chỉ khi nào tâm được trống trải, trống rỗng, sáng ngời, sáng rực thực sự, lúc ấy niềm cực lạc xuất hiện trọn vẹn đồng lúc với sự thông đạt vô ngại của Không Tính.

Phải làm gì để đạt tới được sự xoay chuyển trọn vẹn của tâm thức quay trở về lại Phật Tính?

Bước đầu tiên là phải qui y Tam Bảo. Khi đã qui y Tam Bảo thì không bao giờ trở lại qui y thế gian và qui y thế tục, không bao giờ có thể qui y tà ma hay quỉ thần ngoại đạo, dù có phải chịu tử hình hay bị phá hủy thân mạng cũng dứt khoát không bao giờ từ bỏ Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), nhất cử nhất động, mỗi một cử chỉ và mỗi một hơi thở đều xoay hướng tạ ơn, ngưỡng mộ, và tôn kính Phật, Pháp, Tăng. Một lúc nào đó, hơi thở sẽ trở nên thơm ngát như bông sen.

TAM BẢO CHÍNH LÀ TÂM THỨC CỦA CHÚNG TA

Tam Bảo chính là tâm thức của chúng ta:

Mỗi lúc tâm thức mình bất ngờ được chuyển hóa toàn diện, được lọc sạch trong sáng rực ngời, lúc ấy Phật, Pháp và Tăng không còn là cái gì ở bên ngoài mình, không còn cách biệt với mình: Tam Bảo trở thành bản thân và bản thức của chính mình. Qui y Tam Bảo, tri ơn, ngưỡng mộ, tôn kính Phật, Pháp và Tăng: đó là tri ơn, ngưỡng mộ, tôn kính "bản lai diện mục" của mình. Mình thờ phụng, quì lạy liên tục, cúng dường, sám hối, thỉnh cầu sự hiện diện thường xuyên của tất cả những gì cao quí nhất.

Đời người chỉ có ý nghĩa thực sự mỗi khi mình được thường trực sống thở ngay vào bên trong lòng bông sen thơm trắng, lúc thành Phật thì chính mình sẽ ngồi trên cái bông sen tinh khiết ấy. Phật tử đúng nghĩa phải là người qui y Tam Bảo và không bao giờ qui y tám pháp của thế gian, Phật tử đúng nghĩa xa lìa dứt khoát tám điều dao động bản thân một cách dữ dội nhất, gọi là tám cơn gíó chướng:

1) Vui sướng khi được khen ngợi ca tụng.

2) Đau đớn khi bị mắng chửi.

3) Vui sướng khi được lợi lộc tài sản.

4) Đau khổ khi mất lợi lộc tài sản.

5) Vui sướng khi được nổi tiếng, khi được thành công.

6) Đau khổ vì bị thất bại hay vô danh.

7) Vui sướng khi được tiện nghi thoải mái.

8) Đau đớn khi bị mất tiện nghi.

Nói gọn lại: danh thơm, tiếng xấu, được mất, khen, chê, sướng, khổ. Dù tu hành trọn đời cho đến 95 tuổi, lúc chết lại bất ngờ bị một trong tám cơn gió chướng này thổi đến làm dao động tâm thức, lúc ấy, vừa chết liền đọa ngay địa ngục, vì đã đánh mất Bồ Đề Tâm.

Do đó, điều quan trọng vô cùng, mỗi khi vừa qui Tam Bảo, phải dứt khoát vững vàng, kiên định, bất lay chuyển trước tám ngọn gió đời và phát nguyện thể hiện Bồ Đề Tâm.

KHÔNG CÓ BỒ ĐỀ TÂM THÌ CHẲNG CÓ PHẬT, PHÁP VÀ TĂNG

Không có Bồ Đề Tâm thì chẳng có Phật, Pháp, và Tăng:

Nhà đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã dịch "Bồ Đề Tâm" là "lòng Bồ Đề", chữ "lòng" đã nói lên tất cả dị biệt siêu việt của tiếng nói quê hương. Đạo Phật không xuất thế và cũng không nhập thế: đạo Phật vẫn liên tục chuyển thế trong từng giây phút trôi qua trên mặt đất và trong cả toàn thể vũ trụ với hàng trăm tỷ thiên hà bao la.

Bồ Đề Tâm là gì? Lòng Bồ Đề là tấm lòng sắt son quyết kiệt chứng nhập Giác Ngộ viên mãn vì lợi ích mênh mọng sâu rộng cho tất cả chúng sinh. Bồ Đề là bỏ mình cho người khác.

Bỏ mình cho tất cả mọi kẻ khác và cho tất cả sinh vật khác một cách sáng suốt, trong sạch, trống trải, rực ngời, khỏe mạnh. Điều này không phải chỉ nằm trong ý nguyện hay đại nguyện thôi mà lại được thực hiện trọn vẹn ngay trong từng bước chân của bực Bồ Tát trên con đường thu nhiếp lại cứu cánh tối hậu: mỗi bước chân đã là lộ trình trọn vẹn, chỗ đi tới đã lập tức được thực hiện trong từng bước chân, vì chứng nhập rằng không có đến và không có đi, mà Bồ Tát Hạnh có nghĩa là vẫn đi hoài, vì lợi ích sâu rộng cho chúng sinh.

Khi nào còn Bồ Đề Tâm thì còn Bồ Tát và còn Phật, Pháp và Tăng. Tam Bảo sẽ bị tiêu diệt trên mặt đất này nếu tất cả mọi người đều quên mất Bồ Đề Tâm. Lúc sáu bảy tỉ người đều quên mất Bồ Đề Tâm, lúc ấy chỉ còn một người duy nhất thể hiện chứng nhập Bồ Đề Tâm thì Phật, Pháp và Tăng vẫn còn xuất hiện để cứu thoát nhân loại. Bồ Đề Tâm hay lòng Bồ Đề là lòng phát hiện Giác Ngộ viên mãn vì lợi ích phi thường cho tất cả sinh vật của tất cả vũ trụ. Theo nghĩa bình thường, Bồ Đề Tâm được thể hiện nơi lòng từ bi sâu rộng bao la. Theo nghĩa phi thưòng, Bồ Đề Tâm được thực hiện qua sự chứng nhập Không Tính: tất cả đều không có tự tính, tất cả đều trống trải, rực sáng, vô ngại, cực lạc.

TỪ BI LÀ TRÍ HUỆ

Từ Bi là Trí Huệ:

Mỗi bưóc chân khởi đầu đã là chỗ đi tới rồi: Bất Nhị luôn luôn là "lý nhất quán" của Phật Pháp. Bất Nhị là vô tự tính, nghĩa là Không Tính, và Không Tính đã được lưu động trong chân lý bình thường là Duyên Khởi. Về mặt Duyên Khởi là Từ Bi, về mặt Không Tính là Trí Huệ. Từ Bi Siêu Việt (Đại Từ Bi) và Trí Huệ Siêu Việt (Đại Bát Nhã, Đại Trí Huệ) đã được thu nhiếp trong lực tự chân ngôn thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát: "Om Mani Padmé Hum". Mỗi khi tụng lên thần chú Om Mani Padmé Hum thì Quán Thế Âm Bồ Tát xuất hiện ngay lập tức. Có người không thấy gì hết, điều này cũng tốt: chỉ cần nói thầm Om Mani Padmé Hum một lần thôi, dù mình không thấy gì hết, nhưng thực sự trong cõi cực kỳ vi tế của tâm thức của chính mình đã xuất hiện hạt giống tốt đẹp cho cả rừng cây dược thụ tương lai.

Khi đứng ở bình diện phi thường, sáu vần của câu thần chú Om Mani Padmé Hum không phải nói về Quán Thế Âm Bồ Tát mà lại chính là Quán Thế Âm Bồ Tát: Quán Thế Âm không khác biệt với sáu âm thanh Om Mani Padmé Hum, và Om Mani Padmé Hum không khác với Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát tức là Om Mani Padmé Hum, và Om Mani Padmé Hum tức là Quán Thế Âm Bồ Tát.

Lòng Từ chỉ là lòng Từ vì đã có lòng Bi, và vì có lòng Từ Bi mới có được Trí Huệ: có từ thì có bi, có bi thì có trí, có trí thì có huệ. Thực ra tất cả đều xảy ra nhất loạt, tất cả đều được xuất hiện và thực hiện đồng lúc ngay lập tức. Lòng Đại Bi là phương tiện thiện xảo, giống như con trai. Lòng Đại Bi nhập một với Trí Huệ mà Trí Huệ (Không Tính) thì giống như con gái. Đại lạc xuất hiện trong tính nhập giữa Từ Bi và Trí Huệ, cái chùy kim cương (Từ Bi) và cái chuông (Trí Huệ); cái chùy kim cương được thu lấy trong bàn tay phải và cái chuông được giữ yên ở bàn tay trái của Đức Phật Kim Cương Tát Trụy (Vajrasattva) trong Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng.

Chuyển qua một bình diện khác, qua một luồng sánh sáng khác trong sáng hiền hậu hơn nữa: cha mẹ của mình ôm nhau khăng khít mặn nồng trong cơn hoan lạc vô biên (đại lạc), nhờ thế mình mới được đầu thai ra đời. Tây Tạng gọi là yab-yum (cha mẹ) trong sự thể hiện Phật Pháp một cách cụ thể siêu việt sự hòa nhập giữa cha (yab) và mẹ (yum) là chứng nhập Giác Ngộ (Đại Lạc) giữa lòng kết hợp; hội nhập trọn vẹn từ thể xác đến tinh thần giữa cha là phương tiện thiện xảo (lòng từ bi) và mẹ là Không Tính (trí huệ). Cha bên phải (chùy kim cương bên phải bàn tay mặt của Đức Phật Kim Cương Tát Trụy) và mẹ bên trái (cái chuông bên trái của ngài Kim Cương Tát Trụy). Cha là Cực lạc và mẹ là Không Tính; cha là tha lợi (vì lợi ích cho kẻ khác) và mẹ là tự lợi (vì lợi ích cho chính mình); cha là tha lực (Tịnh Độ Tông) và mẹ là tự lực (Thiên Tông); cha là sắc thân (rupakaya) và mẹ là pháp thân (dharmakaya). Đó là ý nghĩa phi thường siêu việt về những ảnh tượng Phật Cha và Phật Mẹ ôm nhau giao hợp mà chúng ta thưòng được nhìn thấy trong Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng. Có nhiều người đã hiểu sai lạc về những ảnh tượng siêu việt ấy, thực ra chỉ có Phật Giáo Tây Tạng là một truyền thống Phật Pháp duy nhất hiện nay còn giữ lại tất cả tinh túy nguyên vẹn trong sạch nhất của Phật Giáo Ấn Độ, sau khi Phật Giáo Ấn Độ đã bị tiêu diệt trọn vẹn vào thế kỷ thứ mười ba, do những thế lực tàn ác dã man của ngoại đạo ngoại bang.

Tất cả tinh ba tinh túy của Phật Giáo Đại Thừa Ấn Độ và Phật Giáo Kim Cương Thừa Tây Tạng được thu gọn lại trong sáu âm thanh linh thiêng của lục tự đại chân ngôn, lục tự đại thần chú Om Mani Padmé Hum (Án Ma Ni Bát Di Hồng). Sáu âm thanh linh hiện này đóng khép lại sáu cửa luân hồi: người đọc tụng thần chú này thì nhất định sẽ không bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, người, a tu la, chư thiên. Thế là thoát vượt ra cõi luân hồi.

Om tức A,U, M, nghĩa là thân khẩu, ý của chư Phật.

Mani là ngọc như ý (tức là cha, nghĩa là phương tiện thiện xảo, chính là lòng Đại Bi).

Padmé là hoa sen, (tức là mẹ, nghĩa là Không tính, chính là Trí Huệ).

Hum là chủng tự bí mật nói lên sự Hòa Nhập, tính cách Bất Nhị bất động giữa lòng Đại Bi và Đại Trí Huệ.


Có nhiều vị thánh tăng Phật Giáo ở Hy Mã Lạp Sơn đã trì tụng đại thần chú Om Mani Padmé Hum đến cả năm triệu lần hoặc nhiều hơn nữa. Đối với chúng ta, có lẽ chỉ đọc được khoảng 108 lần mỗi ngày và cũng đủ tự cho rằng mình khá tinh tấn?

PHƯƠNG PHÁP THỰC TIỄN GIẢN DỊ ĐỂ TU HÀNH PHẬT PHÁP

Phương thực tiễn giản dị để tu hành Phật Pháp:

Chúng ta khó theo được sức mạnh tinh tấn dị thường của những bậc thánh tăng như Milarepa và Shabkar. Ngay đến thế kỷ 20 này, vị thánh tăng Tây Tạng Deshung Rinpoche (1906-1987) mới vừa mất cách đây mười năm, mỗi ngày, ngài thức dậy lúc 2 giờ sáng và thực hành đủ mọi pháp môn quán tưởng thiền định mật tông (từ pháp môn quán tưởng Hevajra, Vajrayogini cho đến Manjushri và Tara), rồi đến chiều thì quán tưởng thiền mật về pháp môn Quán Thế Âm Bồ Tát, rồi qui y Tam Bảo đến 108 lần mỗi ngày (vừa đọc chú, vừa quán tưởng, vừa quì lạy), rồi sám hối theo pháp môn Kim Cương Tát Trụy, rồi cúng dường, v.v... Tối trước khi ngủ, ngài lại thực hành pháp môn du già lúc ngủ, rồi lại đọc tụng mỗi đêm về Bảy Điểm Chuyển Tâm của truyền thống tổ sư tông phái Kadampa mà người khai sáng là Tổ Sư Ấn Độ Atisa (A Tỳ Sa).

Đó là chưa kể đến việc trì chú thường xuyên của ngài, mỗi ngày Deshung Rinpiche (Deshung Đại Bảo) trì chú Om Mani Padmé Hum đến hai chục ngàn lần. Như thế, chỉ mười ngày thì đã đến 200,000 lần, một trăm ngày thì đã tới hai triệu lần, ngài sống đến 81 tuổi, như vậy, khó mà đếm được mấy trăm triệu lần ngài đã trì chú Om Mani Padmé Hum!

Phương pháp thực tiễn giản dị nhất để tập tu hành Phật Pháp là noi theo gương của ngài Desung Rinpoche; còn nếu theo ngài không được thì chúng ta cũng học được tính khiêm tốn, khiêm nhường và ý thức trọn vẹn rằng mình chỉ là một kẻ chưa hiểu biết gì về Phật Pháp cả. Nếu có học tu hành chút ít chỉ mong đọc Om Mani Padmé Hum cho đến một ngàn lần mỗi ngày, hoặc tệ nhất cũng 108 lần mỗi ngày.

Chúng ta cũng không nên quên rằng một người mới bắt đầu khởi sự tu hành Phật Giáo Tây Tạng, sơ khởi là phải quì lạy 500,000 lần (vừa đọc chú, vừa quán tưởng, vừa quì lạy): một trăm ngàn lần qui y Tam Bảo, một trăm ngàn lần lạy Phật Pháp Tăng, một trăm ngàn lần quán tưởng Kim Cương Tát Trụy và làm nghi thức sám hối với chú bách tự của Kim Cương Tát Trụy (Vajrasattva) phải trì tụng đến một trăm ngàn lần, rồi lại cúng dường mạn đà la cho Tam Bảo đến một trăm ngàn lần, rồi lại thực hiện quán tưởng du già bản sư (guru yoga) cho đến một trăm ngàn lần nữa. Rồi sau đó, tốt nhất là tự nhốt mình (nhập thất) để thiền định quán tưởng trong hang động đến 3 năm 3 tháng 3 ngày, hoặc sau đó lập lại 3 năm nữa, hoặc vài ba lần chu kỳ 3 năm ...

Khó tình làm được như vậy, nhưng cả ngàn năm nay, trên núi Hy Mã Lạp Sơn, có vô số tu sĩ, đạo sĩ đã thực hiện nhiều việc tu hành Phật Pháp còn khó khăn gấp vạn lần trên: thí dụ cụ thể là Milarepa và Shabkar mà chúng ta còn biết được qua những tài liệu dịch từ tiếng Tây Tạng trong mấy chục năm nay.

Bài học lớn nhất về Phật Pháp, phương pháp thực tiễn giản dị nhất để tu hành Phật Pháp là gì? Đó là pháp môn chuyển hóa tâm thức mà Tổ Sư Ấn Độ Atisa đã truyền qua Tây Tạng từ thế kỷ 11 và vẫn còn được tất cả chư tăng của tất cả tông phái mật tông Tây Tạng áp dụng hành trì hằng ngày hằng đêm cho đến ngày hôm nay.

Điều thực tiễn giản dị đầu tiên để tu hành Phật Pháp chính là lòng kiên nhẫn. Tổ Sư Thánh Tăng Ấn Độ Atisa đã dạy như vầy: "Sự kiên nhẫn cao lớn nhất chính là lòng khiêm tốn, khiêm nhường".

Một hôm tại Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ vào năm 1974, một bậc cao tăng vĩ đại thuộc tông phái dòng tổ Atisa, đức Đạt lai Lạt Ma (Daila Lama) đã từng nói như vầy:

"Chỉ cần biết một chữ của Phật Pháp thôi và đem chữ ấy vào việc thực hành tu chứng, điều này đem đến những kết quả tu hành sâu thẳm và đặc biệt, trái lại những kẻ nào có thể tụng thuộc lòng một trăm ngàn quyển kinh luận mà không thực hành tu chứng Phật Pháp thì chẳng chứng nghiệm lợi ích bao nhiêu cả".

Vậy, chúng ta chỉ cần kiên nhẫn khiêm tốn thực hành trì tụng câu thần chú Quán Thế Âm Om Mani Padmé Hum đến vài ngàn lần mỗi ngày, liên tục, đều đặn, và tất nhiên nhất định tâm thức của mình sẽ chuyển hóa toàn diện.

Phạm Công Thiện

Hành xử khi trở thành cường quốc kinh tế.


MartianMobile

Trong khi kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái thì Ngân Hàng Thế Giới đã nâng dự đoán về kinh tế Trung Quốc là 7.2% cho năm 2009 và 7.7% cho năm 2010 hôm Thứ Tư tuần trước. Đây là niềm vui của chính phủ và nhân dân Trung Quốc nhưng cách hành xử của họ ngày càng làm quan ngại cho các quốc gia trong vùng và trên thế giới.

Đài Loan

Thay vì phải đối đầu trực tiếp về quân sự vì sự tranh chấp bán đảo Đài Loan, Trung Quốc đã học được bài bản của Hoa Kỳ là dùng áp lực kinh tế và mua tài nguyên về nhân lực của Đài Loan. Theo đo lường không chính thức thì khoảng 30% - từ chuyên gia cho đến nhân công của Đài Loan đang làm việc tại trong đại lục hiện nay, Trung Quốc thấy rằng dùng tiền mua đứt cái nhức đầu Đài Loan có lẽ là rẻ hơn tấn công hòn đảo nhỏ bé này. Theo Trung Quốc nếu theo đuổi cuộc chiến tranh này có thể Trung Quốc gây ra tình trạng nguy hiểm về chiến tranh cả thế giới. Cộng thêm theo đuổi cuộc dứt điểm Đài Loan qua kinh tế, Trung Quốc hiện nay làm cho Hoa Kỳ phải nhức đầu vì thay đổi chính sách với Đài Loan. Lúc trước Đài Loan còn cần Hoa Kỳ về hậu thuẫn nay nó đẩy Hoa Kỳ vào một vị thế là Hoa Kỳ phải tự hỏi là họ có còn là quan trọng cho bán đảo này nữa hay không?

Điều này được thấy rõ vào hôm thứ Hai ngày 22 tháng 6, 2009, Hoa Kỳ lần đầu tiên trong bao nhiêu năm bỏ quên Đài Loan đã phải bỏ $170 triệu dollars để xây một trung tâm mới cho American Institute tại Taiwan, (Hoa Kỳ không có tòa Đại Sứ tại đây từ khi từ bỏ Đài Loan và chấp nhận Trung Quốc là quốc gia đại diện chính thức) do đó American Institute in Taiwan là một tên hình thức cho tòa Đại Sứ của Hoa Kỳ. Trong buổi lễ này khánh thành "tòa Đại Sứ" mới, ông Giám Đốc hay "ngài Đại Sứ" Mỹ Stephen Young nhấn mạnh sự chia xẻ cùng một giá trị chung như dân chủ và Thị Trường mậu dịch tự do giữa nhân dân Đài Loan và Hoa Kỳ và ông cũng "cố tình quên" hay lờ đi sự "đằm thắm chặt chẽ của anh em" Trung Quốc và Đài Loan.

Trong hơn một năm lãnh đạo của Ma Ying-jeou, Tổng Thống Đài Loan, đã thay đổi hoàn toàn chính sách với Trung Quốc. Đây được coi như là một thời điểm thay đổi rất quan trọng trong hơn 60 năm tranh chấp Trung Quốc và Đài Loan. Điều này cũng thấy trớ trêu là người đại diện cho Đài Loan trong buổi lễ khánh thành "Tòa Đại Sứ" mới này là Su Chi, nhân vật đẻ ra chính sách của chính phủ Đài Loan trong quan hệ chặt chẽ với "anh em" Trung Quốc. Đây cũng là một điểm mà ông Obama sẽ phải suy nghĩ khi quyết định tiếp tục bán 66 máy bay F-16 cải tiến cho Đài Loan cuối năm nay khi có thể hai anh em Đài Loan và Trung Quốc xum họp trong một nhà.

Ấn Độ

Với kinh tế phát triển chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ cũng vừa được Ngân Hàng Thế Giới nâng dự đoán phát triển là 5.1% cho năm 2009 và 8.1% cho năm 2010.

Gần đây, khi Trung Quốc tuyên bố là vùng giáp ranh với Ấn Độ, Arunachal Pradesh là đất của của họ, Ấn Độ rất lo ngại. Theo Ấn Độ thì sau khi tuyên bố điều này, người Trung Quốc đã thường xuyên sang thăm dò hay dò thám bang Sikkim của Ấn Độ. Mức độ người Trung Quốc thăm dò có thể nói là được gia tăng cùng chiều với kinh tế của Trung Quốc ngày càng phát triển và Trung Quốc không ngàn ngại dùng ảnh hưởng này của mình để ảnh hưởng thế giới khi tranh cái về mảnh đát này.

Thế giới được biết phương pháp "xâm lăng" của Trung Quốc được dùng từng giai đoạn một trong đó là sau khi xác nhận chủ quyền của họ đối với các vùng tranh chấp thì Trung Quốc sẽ xây hạ tầng cơ sở như đường xá, xa lộ ngay vùng tranh chấp để mang hàng hóa, người Trung Quốc và cả bộ đội chính quy từ từ xâm chiếm hay cư ngụ tại vùng tranh chấp. Ấn Độ đang cảm thấy khó chịu về việc "xâm lăng" gâm nhấm này. Ấn Độ đã học bài học xâm lăng của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh giữa hai nước năm 1962. Mặc dù cả hai bên tiếp tục đổ lỗi lẫn nhau là ai là kẻ tấn công trước nhưng kết quả thì thật là tai họa cho Ấn Độ. Cả vùng bình nguyên Tibet đã mất về tray Trung Quốc và Ấn Độ chỉ còn phần còn lại là Arunachal Pradesh mà ngày nay Trung Quốc bắt đầu lên tiếng là vùng đất của họ.

Ấn Độ đã cảm thấy không thể để mất lãnh thổ của mình một lần nữa, hôm 8 tháng 6, 2009 đã điều động 2 sư đoàn thiện chiến và 2 phân đội chiến đấu cơ phản lực tối tân của họ đến vùng tranh chấp Arunachal Pradesh này. Điều này đã làm Bejing tức giận và tuyên bố cương quyết bào vệ chủ quyền vùng đất tranh chấp này là của họ. Hiện nay tại Arunachal Pradesh, Ấn Độ có khoảng 100,000 lính chính quy và các chiến đấu cơ của Ấn Độ là loại chiến đấu cơ hiện đại Sukhoi-30 MKI đóng tại Tezpur và Assam chưa kể Ấn Độ đã điều động ba phi cơ cho Hệ Thống Báo Động và Kiểm Soát Không Trung, tương tự như hệ thống Airborne Warning và Control Systems của Hoa Kỳ. Và Ấn Độ tiếp tục xây dựng thêm sân bay và căn cứ quân sự trong vùng.

Phản ứng quyết liệt của Bejing trong chủ nghĩa bành trướng đã làm ngạc nhiên nhiều người. Tờ báo Nhân Dân Hằng Ngày của đảng Cộng Sản Trung Quốc ngày 11 tháng 6, 2009, đã đăng một bài quan trọng chỉ trích chính quyền Ấn Độ của ông Singh với chính sách về Trung Quốc là "thiếu hiểu biết", "nguy hiểm" và "Ấn Độ nên tự suy nghĩ là liệu có đủ sức để gánh lấy hậu quả nếu chống lại Trung Quốc." Tờ báo này còn diễu Ấn Độ là không thể bắt kịp với Trung Quốc về kinh tế (thì đừng suy nghĩ về theo đuổi tranh chấp với Trung Quốc về quân sự). Điều này làm thật là ngạc nhiên nhiều người về lời lẽ "ngạo mạn" của tờ báo đại diện cho đảng Công Sản Trung Quốc. Theo nhận định của các chuyên gia thì đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc đối xử thiếu ngoại giao trong vấn đề này. Trung Quốc từng không cấp giấy nhập cảnh cho viên chức Ấn Độ sống tại vùng Arunachal Pradesh vì Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố là tất cả người sống tại Arunachal Pradesh là dân chúng Trung Quốc do đó họ không cần giấy nhập cảnh để vào đất nước Trung Quốc hay trong một việc hành xử chính trị khác là hiện nay Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ phiến quân Naxalites theo đuổi chủ nghĩa Maoist nổi loạn tại Ấn Độ hay giúp đỡ quân sự cho Pakistan, quốc gia thường xuyên giao tranh với Ấn Độ về giải đất tranh chấp Kashmir.

Về kinh tế và chính trị, Trung Quốc còn thể hiện sức bá quyền của họ trong tháng 3 năm nay khi họ từ bỏ truyền thống của Ngân Hàng Phát Triển Á Châu bằng cách ngang nhiên ngăn chặn loan nợ $2.9 tỉ dollars của Ấn Độ chỉ vì trong số này $60 triệu dollars Ấn Độ sẽ chi tiêu để xây dựng hệ thống chống lụt lội tại vùng đang tranh chấp Arunachal Pradesh. Cho đến khi Hoa Kỳ dùng sức mạnh của mình và phủ quyết quyền của Trung Quốc tuần trước thì loan nợ này mới được chấp thuận cho Ấn Độ. Chưa kể trong quá khứ Trung Quốc nhiều lần phá hoại sự hợp tác giữa Hoa Kỳ và Ấn Độ trong lãnh vực nguyên tử và ngăn chặn Ấn Độ trở thành thành viên chính thức của Hội Đồng Bảo An của Liên Hiệp Quốc nếu được nới rộng.

Hoa Kỳ và Tây Phương

Trong việc trao đổi thương mại dịch vụ với tư nhân, Trung Quốc làm khó dễ các công ty Hoa Kỳ và Tây Phương mở rộng dịch vụ tại Trung Quốc như vụ chính phủ Trung Quốc không cho phép hãng Coca-Cola của Mỹ mua hãng Huiyuan Juice của Trung Quốc với lí do dân chúng bất bình. Nhưng trong tuần Trung Quốc buộc tôi hãng Google là phát tán phim ảnh dâm dục tại nước họ là một biến cố mới nhất. Chính phủ Trung Quốc nói là họ có bằng chứng là người dân Trung Quốc xử dụng tìm kiếm qua Goolge bảng tiếng Anh được dẫn tới những Website thiếu lành mạnh và đã vi phạm luật lệ Trung Quốc. Ông Qin Gang, người phát ngôn của bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã không trả lời khi được hỏi là chính quyền Trung Quốc đang ngăn chặn người dân đi vào Google Website. Google đang chật vật bành trướng dich vụ tại Trung Quốc từ khi chính quyền Trung Quốc lọc lại và ngăn chặn người tìm kiếm dich vụ đi vào Google Website. Chưa kể những vụ nho nhỏ đủ để làm Google mất uy tín như hôm qua khi dịch vụ của Google bị ngăn chặn, trong lúc Google đang tìm hiểu nguyên nhân và sửa chữa thì trên Twitter site xuất hiện nhân vật @kaifulee, giả mạo là Tổng Giám Đốc Google ở Trung Quốc, tấn công và chỉ trích Google. Cho đến hôm sau Twitter tuyên bố là nhân vât @kaifulee là người ỏ shanzhai và Twitter đã đóng account này vì "có những hành vi đáng nghi ngờ."

Trong việc quan hệ về kinh tế và chính trị giứa Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Tây Phương thì lần đầu tiên trong thời kỳ Tổng Thống của ông Obama, Hoa Kỳ đã hợp tác với Liên Hiệp Âu Châu và thưa kiện Trung Quốc ra Tổ Chức Trao Đổi Thế Giới (World Trade Organization - WTO) về tội Trung Quốc bảo hộ 9 loại nguyên liệu. Theo văn bản kiện tụng thì Hoa Kỳ và Âu Châu nói rằng trong thời gian 2001 khi Trung Quốc gia nhập WTO, họ đã bằng lòng xóa bỏ thuế má trong đó có 9 loại nhiên liệu như than dùng trong công nghệ, bauxite, kền, etc. nhưng Trung Quốc vẫn chưa thực hiện điều này. Hiện nay Hoa Kỳ và Âu Châu phải đóng thuế 40% trên than, 15% trên bauxite, nặng nhất là phosphorous vàng đóng thuế tới 70%. Có thể Hoa Kỳ đã có lý khi thưa Trung Quốc nhưng chính quyền Obama lại không có căn bản chính đáng trong vụ này chỉ vì ai cũng biết là chính quyền ông Obama muốn đền đáp chính trị cho các nghiệp đoàn Steelworking khi ủng hộ ông ta trong cuộc bầu cử năm ngoái. Nhiều quốc gia cũng quan ngại là Hoa Kỳ thiếu đạo đức về kinh tế nếu thưa kiện trong vụ này mà không đứng trên tinh thần trao đổi mậu dịch tự do. Trong lúc đã có những thiếu đồng nhất trong vụ kiện tụng này thì Trung Quốc đã phản pháo với một vụ thưa kiện ngược lại Hoa Kỳ qua tổ chức WTO qua vụ Hoa Kỳ cấm nhập khẩu gà của Trung Quốc. Theo họ thì Hoa Kỳ đã lợi dụng dịch cúm gà cách đây hai năm và tiếp tục cấm nhập khẩu gà Trung Quốc.

Trung Quốc cũng không từ bỏ bất kỳ một cơ hội nào để tấn công lại Hoa Kỳ. Điển hình là khi đầu năm nay, khi Quốc Hội Hoa Kỳ với đầu óc thiển cận đã thông qua đạo luật về cứu trợ kinh tế đã dùng những danh từ như bắt buộc khi dùng tiền cứu trợ phải "Mua hàng Mỹ" ("Buy American"). Ngay lập tức Trung Quốc vừa ban ra đạo luật tương tự như vậy với khẩu hiệu bắt buộc "Mua đồ Trung Quốc" ("Buy Chinese"). Hiện nay chính quyền Obama đang suy nghĩ sẽ dùng quota để hạn chế nhập cảng bánh xe từ Trung Quốc và chúng ta sẽ thấy là Trung Quốc sẽ đáp trả với một hành động tương tự với Hoa Kỳ hay Âu Châu.

Nhiều người trong chúng ta vẫn tiếp tục coi thường Trung Quốc, cho là họ thiếu khả năng hay chúng ta tự hào quá đáng về sức mạnh của Hoa Kỳ và Tây Phương. Cho dù là sức mạnh của Hoa Kỳ vẫn còn nhưng bên cạnh Hoa Kỳ là một quốc gia khổng lồ và có kỷ luật Trung Quốc bắt đầu ra biển cả, lần đầu tiên thấy thể giới nề sợ với sức mạnh kinh tế của họ. Với chiến thuật gậm nhấm các quốc gia chung quanh bằng cách dùng sức mạnh kinh tế đầu tư, xây dựng cơ sở hải quân, quân sự , ngay cả đến các cảng thương mại trong vùng Đông Nam Á. Trung Quốc đã có các cảng dịch vụ tại Bangladesh, trung tâm radar và tiếp liệu tại Burma. Các nước như Thailand, Cambodia và Pakistan đang mời đón những công trình của Trung Quốc. Chưa kể xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, lợi dụng nội chiến tại Sri Lanka và Nepal để lũng đoạn và dùng quân sự để ảnh hưởng tại những quốc gia này. Hay phát huy sức mạnh kinh tế và quân sự để đạt được cái mình muốn như tại Đài Loan và Ấn Độ. Hoa Kỳ có thể làm gì? Nhiều chuyên gia cho rằng Hoa Kỳ nên tiếp tục làm bạn của các quốc gia trong vùng, dùng ảnh hưởng kinh tế để tạo ảnh hưởng và tiếng nói trên thế giới, tiếp tục kiếm những đồng minh chiến lược như Ấn Độ. Nhưng một điều Hoa Kỳ cần phải làm là phải minh bạch, rõ ràng và cương quyết trong thiết lập quan hệ hay hòa giải tranh chấp biên giới để các quốc gia trong vùng các quốc gia này có thể tin cậy khi cần đến nếu không Hoa Kỳ sẽ chỉ là một cường quốc ích kỷ, bảo thủ và ngày càng mệt mỏi.

****************************************

Tài liệu tham khảo:

Chinese media attacks India over reports on troop deployment on border

American Institute in Taiwan

World Bank says developing countries' GDP to slow to 1.2%

Chinadaily BBS

Coca-Cola/Huiyuan: Ministry's Prohibition Sparks Controversy

25 thg 6, 2009

Những thay đổi trong cơ thể khi về già


Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

Với sự hóa già, sẽ có vài thay đổi về cấu tạo cũng như chức năng của một số cơ quan bộ phận chính trong cơ thể như sau đây:

1- Thay đổi của bộ máy tiêu hóa

Sự tiêu hóa thực phẩm bắt đầu từ miệng.
Thức ăn được răng nhai nghiền nhỏ để có thể nuốt xuống bao tử, với sự hỗ trợ của nước miếng.
Dạ dày co bóp, chuyển động như cái máy giặt quần áo để biến đổi thức ăn sang trạng thái lỏng, với tác dụng của dịch vị tiết từ bao tử. Một phần lớn chất đạm được tiêu hóa ở đây.
Sau đó thức ăn được chuyển xuống sáu thước ruột non. Nơi đây, hóa chất hữu cơ của tụy tạng và ruột non tiếp tục tiêu hóa đạm chất và carbohydrate, đồng thời cũng có sự tiêu hóa chất mỡ dưới tác dụng của mật. Cũng chính ở ruột non, việc nuôi dưỡng cụ thể cho con người được thực hiện với sự hấp thụ các chất bổ dưỡng vào mạch máu.
Khi thức ăn vào đến ruột già, nước được hút lại, còn chất bã được phế thải ra ngoài.
Trung bình, diễn tiến hoàn tất sự tiêu hóa thực phẩm từ khi vào miệng tới khi phế thải kéo dài từ 7 đến 12 giờ đồng hồ.

Với tuổi cao, sẽ có vài thay đổi như sau:
- Miệng khô vì hạch nước miếng tiết ít nước làm ta nhai khó khăn và giảm thưởng thức vị ngon của thực phẩm.
- Dịch vị bao tử giảm khoảng 25% khi ta tới tuổi 60, sự co bóp của bao tử cũng yếu đi chút ít.
- Nơi ruột non, sự hấp thụ calcium giảm làm yếu xương; hấp thụ sinh tố B12 kém. Sinh tố này cần cho việc sản xuất hồng huyết cầu cũng như tạo ra sinh lực trong cơ thể.
- Trái với quan niệm thông thường, không có thay đổi mấy về chức năng của ruột già khi tuổi tăng. Nhiều người cứ cho là già hay bị táo bón, chứ thực ra sự đại tiện của người cao tuổi đều lành mạnh giống như của người trẻ. Vậy mà sự tiêu thụ thuốc nhuận tràng vẫn rất nhiều ở lớp tuổi cao này.
- Khi già, chức năng sản suất mật của gan, dịch tụy để biến hóa mỡ không thay đổi mấy. Dù có cắt đi 80% lá gan, ta cũng còn đủ mật cần thiết cho cơ thể.
- Thành ruột già mỏng hơn, vài chỗ phình ra thành túi nhỏ (diverticul), dễ bị nhiễm trùng.
Nói chung, khi về già không có thay đổi đáng kể trong hệ thống tiêu hóa ngoài vài lủng củng nhỏ mà phần lớn liên hệ tới ăn uống không điều độ, thiếu dinh dưỡng, không vận động cơ thể, tác dụng phụ của dược phẩm...
Cho nên ta vẫn thưởng thức được những món ăn mà ta thích từ lúc còn trẻ.

2- Thay đổi cơ quan hô hấp

Bộ phận hô hấp, với nhiệm vụ mang dưỡng khí nuôi cơ thể, gồm hai lá phổi và phế quản.
Phổi gồm cả triệu phế nang, mà khi trải rộng ra có thể bao phủ cả một sân quần vợt. Chính ở những phế nang này mà dưỡng khí được chuyển sang mạch máu nuôi cơ thể và lấy thán khí thải ra ngoài.
Phế quản nom giống như một cái cây lộn ngược, với rất nhiều nhánh nhỏ để dẫn không khí vào phế nang.
Nhịp thở trung bình khi nghỉ là 15 nhịp một phút, nhanh khi cơ thể hoạt động mạnh hoặc thán khí trong máu lên cao. Trong mỗi nhịp thở có khoảng 1/2 lít không khí ra vào phổi.
Khi sự hô hấp ngưng chừng 5 phút thì não bộ đã chịu những tổn thất vĩnh viễn, trầm trọng vì não bộ liên tục cần oxygen.

Với tuổi cao, không có thay đổi đáng kể về hô hấp, ngoại trừ trong phế nang dưỡng khí ít mà thán khí lại cao. Do đó dưỡng khí trong máu giảm, làm cho cơ thể chóng mệt khi hoạt động mạnh.


3- Thay đổi hệ tuần hoàn

Hệ tuần hoàn gồm bộ phận bơm đẩy là trái tim, và mạng lưới mạch máu lớn nhỏ chạy khắp cơ thể.
Tim được ví như tòa nhà song lập hai tầng với hai tâm nhĩ ở trên, hai tâm thất ở dưới ngăn cách nhau bằng một chiếc van để hướng dẫn máu lưu thông một chiều từ trên xuống dưới.
Mạng lưới mạch máu gồm mạch máu phổi bắt nguồn từ tâm thất phải, đưa máu nhiều thán khí lên phổi để trao đổi lấy dưỡng khí. Còn mạng mạch máu tổng quát thì đưa máu đỏ nhiều oxy từ tâm thất trái đi nuôi dưỡng khắp châu thân.
Mỗi ngày tim bơm khoảng 7000 lít máu vào hơn 100,000 cây số mạch máu lớn, nhỏ. Nhịp tim bình thường là 70-80/một phút. Một tế bào máu chạy từ tim xuống ngón chân rồi trở lại tim mất 12 giây.

Khi tới tuổi cao, sẽ có một vài thay đổi về chức năng cũng như cấu tạo của hệ tuần hoàn.
Cách đây 5 thế kỷ, Leonardo da Vinci đã quả quyết là sự dày cứng của mạch máu làm ta già, ngăn cản sự lưu thông của máu và làm giảm sự nuôi dưỡng cơ thể.
Khoa học ngày nay đồng ý một phần nào với da Vinci, nhưng nêu câu hỏi là những thay đổi đó có phải do tuổi già hay do lối sống của con người mà ra.
Thay đổi quan trọng nhất là vách tâm nhĩ trái dày lên, cứng, kém đàn hồi, làm giảm sức bơm của tim, máu đi nuôi cơ thể ít oxy và dưỡng chất.
Mạch máu cũng cứng, dày, kém đàn hồi vì có nhiều chất vôi và collagen đóng lên vách mạch máu, khiến cho máu lưu thông khó khăn, chậm chạp.
Nói chung, với tuổi già, chỉ có một chút giảm sự lưu thông của máu trong cơ thể, giảm cung cấp dưỡng khí khiến ta mau mệt khi hoạt động mạnh.
Còn thắc mắc là tỷ lệ tử vong do bệnh tim ở người già rất cao, thì đó là vì con người mắc bệnh tim do tập quán ăn uống, lối sống, môi trường xấu... chứ không phải do sự hóa già mà ra.

4- Thay đổi Xương-Thịt

a- Xương

Bộ xương giúp cơ thể đứng vững, di chuyển, che trở các bộ phận cốt yếu và là nơi dự trữ calcium.
Xương được cấu tạo bởi một hỗn hợp gồm khoáng chất (nhất là calcium 45%), cơ mềm với mạch máu, tế bào (30%) và nước (25%).
Có 3 loại xương: xương dài cứng; xương ngắn mềm và xương dẹp.
Xương được liên tục tu bổ để thay thế xương cũ bằng xương mới. Khoáng chất calcium giữ vai trò rất quan trọng trong việc tạo xương. Khi về già, calcium trong máu giảm, vì ruột non không hấp thụ calcium tốt như khi còn trẻ và vì khẩu phần không có cân bằng calcium. Do đó, xương trở nên yếu, giòn, dễ gãy lại lâu lành.
Thêm vào đó, khi calcium trong máu xuống thấp, cơ thể lại lấy calcium ở xương ra để đáp ứng các nhu cầu khác như hoạt động của hệ thần kinh, làm đông máu, hoạt động của cơ thịt.
Khối lượng xương cũng giảm, nhất là ở nữ giới khi hết kinh vì kích thích tố nữ estrogen ít đi.

b- Khớp xương

Khớp là nơi hai mặt xương tiếp giáp với nhau.
Có 3 loại khớp chính:
- khớp cử động tự do như khớp xương đầu gối, cổ tay;
- khớp cử động có giới hạn như xương sống; và
- khớp không cử động như khớp xương sọ.
Sở dĩ khớp cử động êm ả là nhờ hóa chất nhờn và sụn nằm độn giữa khớp, như một cái bao, bọc hai đầu xương, đồng thời cũng để tránh sự cọ xát của mặt xương.
Khớp được giữ ở đúng vị trí để cử động nhờ những dây chằng như gân, nối xương với bắp thịt, dây chằng nối hai xương với nhau.
Khi về già, hóa chất nhờn và sụn giảm, gân và dây chằng ít đàn hồi làm cho sự co-duỗi của khớp bị giới hạn.
Với thời gian, khớp cũng gặp những thương tích tuy nhẹ nhưng tích lũy, khiến khớp hay bị đau nhức và cử động khó khăn.

c- Cơ thịt

Trong cơ thể, cơ bắp chiếm gần nửa trọng lượng toàn thân.
Đó là cơ ở trái tim, thành mạch máu, bao tử, ruột, nhất là cơ thịt ở bộ xương gồm những mô nối vào xương và khớp qua gân, dây chằng. Sự kết nối này giúp con người cử động, di chuyển một cách rất tài tình mỗi khi cơ co giãn hay đàn hồi theo ý muốn của ta.
Cử động không những là nhu cầu sinh hoạt cho cơ thể mà còn để duy trì cơ thịt. Vì nếu không vận động, cơ thịt sẽ teo đi, và được thay thế bằng mô mỡ, nước.
Khi hoạt động, cơ cần năng lượng do dưỡng khí và chất dinh dưỡng cung cấp, đồng thời nó cũng thải ra chất bã như lactic acid. Khi tích tụ nhiều, acid sẽ làm cơ đau nhức, mau mệt và ta cần hít thở để oxy đốt acid này.
Chất dinh dưỡng chính của cơ bắp là thức ăn do máu cung cấp như tinh bột, đạm chất, chất béo.
Với tuổi già, khối bắp thịt nhỏ dần do sự giảm kích thước nhất là giảm số lượng những tế bào thịt.
Tế bào thịt, cũng như tế bào thần kinh, khi giảm đi sẽ không được thay thế. Sinh ra, ta đã có một số cơ thịt nhất định và số lượng này được dự trù là tồn tại suốt đời nguời.
Khi không được sử dụng, kém dinh dưỡng hay không tiếp nối với hệ thần kinh, cơ sẽ teo đi. Sự vận động cơ thể không làm tăng số cơ thịt nhưng làm chúng to hơn.
Ở người cao tuổi, đã ít tập dượt lại sống quá tĩnh tại, chức năng bắp thịt thay đổi rõ rệt. Sức mạnh bắp thịt giảm chút ít vào tuổi 40, 50; giảm 20% ở tuổi 50; giảm 40% khi tới tuổi 70-80. Sự suy yếu này xảy ra ở chân nhiều hơn ở tay.
Ngoài ra, chức năng cơ thịt người già cũng giảm vì sự thoái hóa, mất tính đàn hồi của gân và dây chằng.

5- Thay đổi não bộ

Nặng chừng 1, 5 kí lô, não bộ của người trưởng thành là một khối mềm như bột gạo ướt với cả ngàn tỷ tế bào thần kinh màu xám nhạt. Mỗi tế bào thần kinh nối kết với nhau theo nhiều cách, tạo ra một mạng lưới có tác dụng sinh học rộng lớn để điều hòa mọi sinh hoạt của cơ thể.
Sanh ra, ta có số tế bào thần kinh nhất định, không tăng hay tái tạo, nhưng lại mất dần với niên kỷ. Mỗi ngày có từ 50,000 tới 100,000 tế bào chết đi ở những vùng não khác nhau. Cho tới tuổi 65 thì hầu như 1/10 tổng số tế bào thần kinh sẽ bị tiêu hủy vĩnh viễn, không được thay thế.
Câu hỏi thường được đặt ra là tế bào mất tới mức độ nào thì sẽ gây ra sự thay đổi các chức năng của não?
Có nhận xét khoa học cho là, khi một tế bào thần kinh chết đi thì tế bào kế cận sẽ phát ra một hệ thống nối tiếp mới, để hoạt động thay thế tế bào đã mất. Nhờ đó não vẫn hoạt động điều hòa cho tới khi con người đi vào khâu tử, ngoại trừ khi não mang thêm những tổn thất gây ra do bệnh tật, thương tích.

Khi hóa già, có những thay đổi sau đây:
a- Cuống não

Cuống não chịu một phần trách nhiệm trong việc điều hòa nhịp thở của phổi, nhịp đập của tim, sự đi đứng, ngủ nghỉ.
Tế bào cuống nào ít bị tiêu hao, ngoại trừ ở phần kiểm soát sự ngủ. Do đó, người cao tuổi thường hay có khó khăn khi ngủ, nghỉ.

b- Tiểu não

Tiểu não điều khiển tư thế, tác phong con người, như đi, đứng, ngồi, chạy, bằng cách kiểm soát chức năng của cơ thịt, gân, khớp xương. Tiểu não đặt một giới hạn cho các động tác cơ thể.
Khi về già, tế bào tiểu não bị tổn thất rất nhiều, nên người cao tuổi mất thăng bằng khi đi đứng, cử động khó khăn, đôi khi không phối hợp nhịp nhàng với nhau được.

c- Thông não

Thông não nằm sâu trong não bộ, kiểm soát và điều hòa một phần cảm xúc như sợ hãi, tức giận; một số khả năng ngửi mùi vị, nghe âm thanh; điều hòa thân nhiệt, huyết áp.
Thông não thay đổi rất ít với tuổi cao.

d- Hệ viền

Bộ phận chính của hệ viền (limbic system) là hải mã (hippocampus), có nhiệm vụ quan trọng trong việc ghi nhận trí nhớ, nhất là chuyển trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn. Ngoài ra, hệ viền còn điều hòa khứu giác, khả năng học hỏi, cảm xúc vui, sợ, giận dữ.
Hệ viền bị ảnh hưởng rất nhiều vì tuổi cao. Tại vài nơi của hệ viền, có tới 30% tế bào mất đi, gây trở ngại cho sự học cũng như ghi nhận trí nhớ.

e- Não

Não là hai khối hình bán cầu, mà phần chính là vỏ não với 75% tổng số tế bào thần kinh.
Vỏ não được chia làm nhiều vùng với nhiệm vụ riêng biệt cũng như chịu những tổn thất khác nhau vì sự hóa già. Vùng kiểm soát cử động mất từ 20 tới 50%; vùng thị giác mất 50%, vùng thính giác mất 30-40%; vùng trí nhớ hầu như không bị thất thoát gì.
Ngoài ra, với tuổi cao, máu đưa tới não bộ giảm, dưỡng khí và chất dinh dưỡng ít đi. Não thay đổi hình dáng, có nhiều hóa chất có màu như lipofuscin được tạo ra, bám vào tế bào não, gây ra một số trở ngại cho nhiều chức năng của hệ thần kinh.
Nhưng nói chung, não là cơ quan duy nhất trong cơ thể mà khi về già vẫn tiếp tục cải tiến, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm, sự khéo léo, sức sáng tạo, sự xét đoán, độ nhạy cảm và sự khôn ngoan của con người.

6- Thay đổi tính miễn dịch

Khi sanh ra, con người đã được tạo hóa ban cho những hệ thống phòng thủ chống lại bệnh tật, mà khả năng miễn dịch là một.
Khả năng này được thực hiện qua hai loại bạch huyết cầu T-cells, B-cells. Chúng tạo ra kháng thể đặc biệt để tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh và ngăn ngừa sự tái phát của bệnh đó trong tương lai. Chúng cũng rất công hiệu trong việc tiêu diệt tế bào ung thư.
Lúc mới sanh, các huyết cầu này được tuyến ức (Thymus) nằm sau xương ức sản xuất, huấn luyện để chống tác nhân gây bệnh. Đáng tiếc là tuyến thoái hóa với thời gian.
Sau đó thì các huyết cầu miễn dịch sẽ được tủy sống, các hạch và lá lách sản xuất. Nhưng vì không được sự điều khiển, huấn luyện của tuyến ức nên chức năng phòng vệ cơ thể kém phần hiệu nghiệm. Người già do đó dễ bị các bệnh nhiễm trùng cũng như ung thư.

Kết luận

Nói chung, các thay đổi nội quan cũng không gây ra nhiều khó khăn cho sinh hoạt của người cao tuổi, nhất là khi họ duy trì được một nếp sống lành mạnh, tích cực và yêu đời.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

Hữu thân hữu khổ


Võ Hồng

Sau một buổi cày vất vả, Trâu được tháo ách cho đứng gặm cỏ. Nhưng mệt quá, nhai nuốt không vô, bèn cất tiếng than : - Mẹ sinh chi tuổi Sửu, làm thân trâu cho cực dường này. Ruộng sâu, ruộng sình, ruộng lùm, ruộng lún… kéo cho bật được lưỡi cày, tưởng đứt cái cổ, tưởng đứt hơi luôn. Tưởng gãy lìa cái chân, tưởng ngã gục xuống bùn. Vậy mà thằng chủ cứ giáng thẳng roi mây… khích lệ. Đỉa bám hút máu, ruồi châm hút máu, mưa xối thên lưng, nắng đốt da mông. Đền bù lại là một bó cỏ khô, quanh năm chỉ những cỏ khô!

Nhìn thấy con chó mực đang nằm khoanh ngủ, vừa ngủ vừa ngáy, Trâu hươ chân huých cho một cái. Chó mở mắt, ngáp dài, hỏi: - Cái gì?
- Mày sướng hơn tao.
Chó ngơ ngác không hiểu. Nhìn bộ mặt mgốc ngếch của Chó, Trâu cười sằng sặc.
- Tao đang suy nghĩ về cảnh khổ của tao, cả ngày kéo cày. Còn mày thì nằm khoanh mà ngủ.
- Lầm to. Lầm to. Chó cười khẩy. Ngủ ngày là vì phải thức suốt đêm coi nhà. Sục sạo đầu dưới, rược sủa đầu trên.. mà đâu phải chỉ coi nhà, còn coi cả khu vườn rộng cho chủ. Bữa ăn hả? Chỉ toàn xương, xương nhá hết nổi, họ mới ném cho. Con của chủ nhà nghịch ngợm, kéo đuôi, cưỡi lưng, mình gừ một tiếng phản đối thì chủ nhà nạt nộ, đánh đá. Tội thân mình, nói năng đâu có được, trời ban cho chỉ độc có tiếng "gừ". Ngoài thiếng sủa.
- Ừ, coi bộ mày cũng khổ. Trâu chép miệng.
- Chỉ cái việc sủa, sủa sao cho đúng cũng không dễ. Gặp người mà chủ nhà khinh thì sủa ít cũng không được. Gặp người mà chủ nhà trọng thì sủa nhiều không cho. Trong việc bảo tồn nòi giống của mình cũng có cái khổ. Loài người thậm chí ích kỷ, xin chó con để nuôi thì toàn xin chó đực, chó cái không ai chịu rước. Mà không có chó cái thì ai đẻ ra chó đực cho chúng nó xin nữa không biết.
- Thôi được, tao thấy mày khổ rồi. Khỏi cần nói nữa.
Nhưng chó như được khơi lòng tâm sự, không chịu ngừng.
- Thêm cái nạn "mộc tồn". Nuôi thấy mập mập là rủ nhau năm bảy tên bợm nhậu, góp riềng góp sả mà "hạ cờ tây".
- Thôi đủ. Thôi đủ. – Trâu la to – Để hỏi coi thằng Ngựa kia. Ngó bộ nó phong lưu mã thượng.
Sau khi nghe Trâu trình bày lý do, Ngựa nhìn Trâu, khẽ lắc đầu, vẻ thương hại : - Hồi nãy mình nghe cụ Trâu dùng danh từ "mã thượng". Chà, chữ nho gì mà thông thái vậy cụ ? Thằng kĩ nó mới phong lưu mã thượng chớ mình thì thượng chỗ nào. Nó ngồi trên lưng mình, thúc gót giày vào hông mình, giật cương cứa hàm mình bắt mình chạy hụt hơi, chạy sùi bọt mép. Vậy không khổ hả ? Vậy là sướng hả ?
Trâu lý nhí : - Mình thấy cậu đẹp mã, có nệm thêu hoa trải trên lưng, có yên da bóng loáng khuy đồng, có lục lạc reo rủng rẻng.
- Thế cậu có thấy những hồi mình phải kéo xe, mình phải thồ lúa, mình phải chở gỗ không ? Nhẹ nhàng lắm chắc ? Hễ hở việc này, con người nó bắt qua việc khác, có bao giờ để yên ? Cái máy bằng sắt thép còn chịu không thấu, nó bắt chạy suốt hăm bốn trên hăm bốn.
- Bù lại cậu được tạc thành tượng, tượng đồng uy nghi, tượng đá lẫm liệt, tượng những vị anh hùng ngồi trên lưng ngựa.
- Đừng thấy mà ham. Xông lên đột phá, con người tranh đoạt quyền lợi với nhau chớ Ngựa có dính líu gì vào đó ? Vậy mà Ngựa phải trải qua biết bao gian lao nhọc nhằn, biết bao nguy hiểm, phơi xác sa trường. So lại thử đi, Ngựa khổ hay Trâu khổ, hay Chó khổ ?
- Chà… chà… Trâu lý nhí.
Chó thì lanh miệng hơn, biết bắt chước người, biết nói nịnh : - Dạ em thấy anh khổ hơn em.
Giã từ Ngựa và Chó, Trâu bước lững thững
vừa ngẫm nghĩ. Hỏi hai đứ��hì cả hai đều than khổ. Mình nữa là ba. Tại sao vậy cà ? Tại… ? Tại… ?
Đang trầm ngâm suy nghĩ, chợt có một con Chìa vôi vụt hót lên sát tai làm Trâu giật mình. Con chim đang đậu ở một cành mù-U mọc chìa ra đường. Nhìn con Chìa vôi, trí thông minh của Trâu chợt lóe.
- Này chị Chìa vôi, như Chó, Ngựa, và tôi đều khổ là do chúng tôi có tới bốn chân và chân đi giậm đất. Chị có hai cánh bay thì chắc là chị không khổ.
Chìa vôi liến thoắng trả lời liền : - Ờ mình không có khổ. Mình có hai vạch trắng dọc theo cái đuôi đây này. Đẹp không ? Ủ��mà "khổ" là cái gì vậy ?
Trâu bật cười không giữ được.
- Khổ nghĩa là… mình đói, mình khát, mình kéo cày nặng nhọc… mình bị chủ đánh, mình nằm chuồng dột…
Chìa vôi gật gật đầu : - À, vậy là hiểu rồi. Mình có đói. Mấy bữa trời mưa dầm, mưa thúi đất, mưa suốt ngày đêm, mình nằm trong ổ đói phờ râu, đói mờ con mắt, đói muốn mửa mật xanh mật vàng. Mình không có nằm chuồng dột, chỉ cái ổ của mình mưa to nước xối vô như thác đổ, ướt lóp ngóp lạnh run. Cha lũ nhỏ chết năm ngoái cũng vì bị mưa ướt, sưng phổi cấp tính, điều trị không kịp.
Trâu gật gật đầu, nói chậm rải : - Vậy là cũng có… khổ…
Chìa vôi vội cướp lời liền : - Khổ rõ ràng đi chớ. Đang đứng cất tiếng hát cho vui, thằng Người ta lén núp trong bụi, gài một hòn đá vào cái ná cao su, gài một mũi tên lên giây cung, nhắm nhía, rồi thả tay, vậy là mình ngã nhào chết không kịp kêu. Khổ rõ ràng đi chớ, khổ nhất trần gian. Bà má mình năm xưa chết cũng vì mũi tên hòn đạn.
Đồng ý là Chìa vôi nó cũng khổ, nhưng Trâu không tin hết những điều nó nói xoen xoét. Cái gì mà chết nước, gia đình nó cũng có góp phần, mà chết đạn cũng có.
Trên đường về, Trâu tạt lại cái mương con uống nước. Trí óc suy nghĩ đâu đâu. Trâu hụt chân đánh "ùm" một tiếng, nước văng tung tóe. May không lộn nhào, hú hồn. Một con cá rô suýt bị giậm, thoát chết, miệng the thé : - Đi cái kiểu gì ? Con mắt để đâu ? Chút xíu nữa. Đương rình con Nhện nước, sửa soạn búng tới chụp thì gặp trúng đồ cô hồn. Mình đói mấy bữa bay đây. Đồ đui.
- Xin chị bỏ lỗi. Con mắt tôi bị vảy cá…
Chết chết ! – Trâu thầm nghĩ – Lại kêu nhằm tên tộc của nó : Cá ! Nó thưởng mình muốn nói xỏ xiên.
- … Dạ, xin chị bỏ lỗi. Mà sao chị bị bỏ đói vậy ?
- Thằng Người ta nó chận mương, đắp bờ, tát nước để bắt tụi tao, không thấy sao ? Bà con họ hàng tao chết vô số kể. May tao nhỏ người núp trong bụi lác, tu6I nó không thấy. Thoát chết. Ba ngày cứ núp trong bụi lác, đâu có dám mò ra kiếm mồi.
- Ổ, khổ thân cho chị.
- Lũ nó đang kho, đang nướng, đang chiên, đang um, đang nấu canh chua bà con tao.
- Ờ, cả họ hàng chị đang khổ, còn lũ Người thì đang sướng.
- Tụi tao khổ đủ cách. Chúng nó móc mồi ngồi câu, chúng nó câu cắm khỏi mất công ngồi, chúng nó đánh lưới, chúng nó thả lờ, chúng nó ụp nơm, chúng nó đứng nhá, chúng nó thả chà, chúng nó thuốc bằng nhựa cây độc, chúng nó ném thuốc nổ, chúng nó đâm bằng cây lao… ôi chao, kể sao cho hết.
Trâu chép miệng : - Đích thực là khổ. Khổ còn cãi vào đâu được. Khổ nhất trần gian.
Buồn bã, Trâu không còn muốn hỏi ai nữa. Cái gì mà bốn chân đạp đất cũng khổ, hai cánh bay trên trời cũng khổ, mà có vây lội dưới nước cũng khổ. Rốt cuộc, chỉ có lũ Người là sướng. Loài nào cũng bị nó ăn hiếp. Trâu lặng lẽ về chuồng nằm. Bầy muỗi vo ve ào tới đốt, nó cũng không buồn lấy đuôi xua nữa. Đèn ở nhà trên tắt đã từ lâu. Đêm tối om. Ô⮧ chủ bà chủ chắc đã ngủ say. Những người sung sướng thường dễ ngủ. Tiếng con Mực "khổ" sủa đổng một nơi bờ rào. Rồi im lặng. Đêm lặng thinh.
Chợt từ nhà trên tiếng ông chủ vang xuống, nghe rõ mồn một : - Bà làm khổ tôi vừa vừa chớ. Hồi tôi cưới bà, nhà còn nghèo, bà bắt tôi làm lụng đầu tắt mặt tối. Khi khá lên, bà mè nheo bắt tôi chạy kiếm cho được cái chức cái tước. Chức nhỏ, bà bắt chạy cho được chức to. Chữ nghĩa tôi không mấy hột thì ai chịu giao chức to cho ? Vậy là ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia bà cứ chê bai, dằn vặt tôi. Họ xa nhà tôi có thằng buôn lậu ở tù, bà cũng đem tôi ra sỉ vả. Họ mẹ tôi có con nhỏ chửa hoang, bà cũng xách tôi ra mà dạy luân lý, đạo đức. Bỏ cái này, chụp cái khác, cả ngày làm việc quần quật, vậy mà có đêm nào bà cho tôi ngủ được yên đâu ? Con trâu, con ngựa, kéo cày kéo xe ban ngày, nhưng ban đêm chúng nó được nằm nghỉ ( nghe nhắc đến tên mình, Trâu giật mình ). Tôi thì không. Bà hành hạ tôi mỗi giờ. Nói thiệt với bà, con trâu con ngựa, thậm chí con chó còn sướng hơn tôi.
Nghe ông chủ phân bì với mình, Trâu bỗng bật cười không giữ được. Cười ngả nghiêng, bò lê ra đất mà cười. Miệng đang nhai rơm mà cười quá mạnh, một cọng rơm chạy ra lỗ mũi.
( Trích "Chúng tôi có mặt")

Nguyễn An Ninh


Những bài viết trong những năm 1920

N.T.B. Dịch

Những người đại diện xứng đáng của dân tộc An Nam ở đâu rồi? Những người đại diện xứng đáng của dân tộc An Nam là ai? Có bao nhiêu người đại diện xứng đáng của dân tộc An Nam, tức là những người biết những nguyện vọng, những yêu cầu và những đau khổ của dân tộc An Nam và có thể hi sinh vì dân tộc này?

Thực tế suy cho cùng, chính quyền có lý khi cấm người An Nam nói đến chính trị, bởi vì tại cái đất này không có chính trị. Ở đây chỉ có nhà cầm quyền làm vua mà thôi:

- Đó là duy trì ở đất nước này sự sợ hãi và cuộn mình lại của những người chiến bại trước những người đi chinh phục. Sự sợ hãi và sự cuộn mình lại được người ta gọi là trật tự.

- Đó là nắm đấm thực dân, được đặt tên là chính quyền để giữ gìn trật tự.

Thật vậy, từ lâu người ta đã nói đến chính sách đồng hóa; rồi khi xuất hiện một số tham vọng nơi người bản xứ, người ta lại nói đến chính sách hợp tác. Từ khi ra mắt, một tờ báo địa phương của An Nam chỉ làm công việc nịnh hót ông đốc tơ Cognacq và tên Darles và những người giống họ, dầu sao cũng đã dám định nghĩa chính sách hợp tác này là: thỏa mãn những tham vọng của anh và... của tôi. Chỉ có định nghĩa ngắn gọn này thôi cũng đáng giá so với những bài diễn văn dài.

Liên kết! Hợp tác! Người ta muốn liên kết với ai? Người ta muốn hợp tác với ai?... Thái độ của những người cai trị cho tới nay đã chẳng tạo thuận lợi cho việc sản sinh những nhân vật có thể hợp tác với họ sao? Hoặc họ chỉ nuôi dưỡng những tên tay sai được trang sức lòe loẹt bằng những mề đay và băng lụa danh dự để làm cho những tên ngu xuẩn hoặc một số tên cảnh sát vừa mới đổ bộ tin rằng người ta không chỉ hứa suông tại xứ sở này mà thôi đâu.

Nhưng hãy thôi, bởi vì chúng ta sẽ có những dịp khác để bàn sâu vấn đề những người cộng tác với chính sách “đề huề”, vấn đề dân tộc An Nam với những người đại diện thật sự và những người đại diện chính thức của dân tộc, tóm lại, về vấn đề chứng tỏ rằng cái mà người ta gọi là chính sách “đề huề” cũng chỉ là cái mẹo để lừa.

Bởi vì để có sự “đề huề” phải có hai yếu tố, thế mà một trong hai yếu tố này không có tại xứ sở này, hay đúng hơn yếu tố này không đáng kể và là yếu tố ma. Vào những dịp khác chúng ta sẽ nói về chủ nghĩa quốc gia là gì đối với người An Nam và khi chúng ta nói về vấn đề này và phơi bày thái độ của chính quyền đối với nó, độc giả của chúng tôi sẽ không cần ai chứng minh để được thuyết phục rằng người ta đã nói dối để giấu giếm những điều mà nước Pháp sẽ xấu hổ khi biết sự thật.
Bí mật của mọi nền chính trị tồi có lẽ là nói dối cho hay.

Ở xứ hạnh phúc

N.M.H. Dịch

Có một cái xứ hiền khô chỉ biết ngồi yên không cựa quậy nhúc nhích tới nỗi người ta tưởng là nó giả chết. Nó cũng là một cái xứ dễ thương, một cái xứ sung sướng nhất trong cái đám những xứ sung sướng.

Công dân ở xứ đó ra sức làm lụng quần quật, quần quật không biết mệt, không biết cho ai hưởng. Cả đời nai lưng trong một công việc không thấy kết quả, chẳng khác gì kẻ múc nước đổ vô một cái thùng lủng lỗ, đổ hoài, đổ bao nhiêu nước cũng chảy ra hết không thấy đầy.

Thành thử chẳng bao giờ họ được đi dạ hội, được bước vô rạp hát, được nghe hòa nhạc, được coi xinêma, được lai vãng tới chốn lầu xanh. Thiệt là cái xứ có nhiều đức hạnh. Như có điều độ: ở đó người ta chỉ ăn cơm với một chút rau luộc và chỉ uống nước ao. Như cần kiệm: ở đó người ta tiêu xài rất ít bởi vì trong túi có xu teng nào đâu mà tiêu xài. Như an phận thủ thường và bằng lòng với số phận: bởi vì hình như ở xứ đó người sung sướng hơn ai hết là người ăn mặc quần áo rách rưới tả tơi. Như biết vâng lời, phục tùng, biết cố sức chịu đựng như mấy con lừa, bị người ta mang giày tây đá đít hay lấy baton đánh vô đầu mà không dám hó hé một câu. Và lúc nào cũng chạy theo củ cà rốt của tên cưỡi ngựa ở phía trước đưa ra nhử để giễu cợt.

Ở đó đức hạnh, đức hạnh nhiều vô số kể! Làm như khoa học là nguồn gốc của mọi tội lỗi và tiền bạc là nguyên nhân của mọi tật xấu, nên ở đó các loại tri thức đều bị cấm và của cải trong công quỹ thì đem ra phung phí tự do. Ở xứ đó những thằng đại bợm ăn cắp được nhiều nhất là những thằng giỏi xoay xở và khôn khéo trong công việc nhà nước...

...Bạn đọc đừng tưởng đó là một xã hội thụt lùi, quá lạc hậu. Theo lời của các quan chức cai trị thì ở đó có nào là bọn bônsơvit, bọn phát xít, bọn bảo hoàng, bọn chủ trương dân chủ, bọn đòi thống nhất, bọn theo đường lối phân ly, bọn cực đoan..., bọn xăng phú bất cần và các đảng phái nhiều vô số kể, nhiều như những cái tên có cái đuôi “it” (*) ở đằng sau, tới nỗi người ta phải duy trì cả một đạo quân thám tử và điềm chỉ viên rất là tốn kém.

Và phải nói rõ là như vậy cũng chưa đủ. Tôi đã được nhìn thấy những người làm cái nghề cao quý đó hành sự một cách cần mẫn, rất có lương tâm ở các góc đường. Thí dụ có ai vừa đọc tới mấy tiếng Moscou hay Petrograd là bị luôn mấy tay này lấy tên và ghi, bạn đọc cũng biết là ghi những gì rồi. Nếu có người nào giơ cao cánh tay quơ quơ gì đó là anh ta liền lấy tên lập tức và ghi thêm là phát-xít, mặc kệ cho người đó hết hơi cải chính, nói là chỉ giơ tay ngoắc chiếc xe kéo thôi nhưng anh ta vẫn không tin, cứ đề quyết là nói láo.

Bạn sẽ nói: “Chuyện như vậy thiệt là ngốc nghếch, ngốc nghếch tới mức làm mình thương hại phát khóc được”. Sai rồi, sai rồi, không phải đâu bạn ơi, tất cả cái đó chỉ là một cách giống như bao nhiêu cách khác để tự làm cho mình cảm thấy sung sướng, bởi vì sung sướng thay là kẻ có thể sống bằng ảo tưởng và có nhiều ảo tưởng...; sung sướng thay là dân tộc nào có thể tự cho mình cái ảo tưởng đạt được trình độ văn minh tiên tiến mà không bị bắt buộc phải trả bằng một cái giá; sung sướng thay là vị quan chức nào đang hò hét la lối những hình nộm bằng rơm mà cứ ảo tưởng mình đang điều khiển chỉ huy những con người siêu hạng.

Bạn lại nói: “Sống bằng ảo tưởng, chỉ bằng ảo tưởng! Như vậy lại càng ngốc nghếch hơn, ngốc nghếch tới mức làm mình thương hại khóc hu hu lên được”.

Này, anh bạn thân mến kia ơi! Quỷ bắt anh cho rồi, bắt anh luôn với cái tật thù ghét ảo tưởng của anh! Hãy để cho người dân được sống yên trong cái xứ đó, cái xứ mà chỉ với một chút xíu khoa học họ đã trở thành nhà thông thái, với hai xu trong túi họ đã trở thành những nhà giàu. Họ cảm thấy thỏa mãn vừa lòng khi chui rúc trong một túp lều. Họ bị áp bức mà không khổ sở và nhất là - nhất là họ bị lừa gạt, bị hăm dọa đòi tiền, bị ăn cắp bóc lột mà vẫn không dè.

Nguyễn An Ninh

24 thg 6, 2009

Nixon ép Sài Gòn ký hòa đàm 1973


Các cuốn băng ghi âm từ năm 1973 được giải mật cho thấy Tổng thống Nixon đã muốn đạt được thỏa thuận tại Hòa đàm Paris với Hà Nội bằng mọi giá và gây sức ép rất lớn đối với Sài Gòn.

Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu được Thư viện Nixon công bố hôm thứ Ba vừa qua có lời của Tổng thống Nixon nói với Cố vấn An ninh Henry A. Kissinger về Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Nixon nói để bắt Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký vào hòa đàm, ông sẵn sàng "cắt đầu y nếu cần thiết" (cut off his head if necessary).

Bài của Shaun Tandon trên AFP hôm 23/06 thì mô tả ông Nixon đã yêu cầu ông Kissinger nói với Tổng thống Việt Nam Cộng hòa rằng Quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không đồng ý với kết quả hòa đàm.

Nhưng có vẻ như ông Nixon sẵn sàng làm mạnh hơn nếu lời đe dọa cắt viện trợ không đạt mục đích.

Các đoạn băng cũng cho thấy một thứ ngôn ngữ rất 'Kissinger' mà Cố vấn An ninh của Tổng thống Hoa Kỳ dùng để nói về đồng minh.

Ông Kissinger nói với Tổng thống về Ngoại trưởng Trần Văn Lắm của Nam Việt Nam, người có mặt khi đó tại Paris để dự họp.

Dùng từ tục để gọi ông Lắm là 'an ass', ông Kissinger nói " Y cũng chẳng làm được gì cả đâu".

Cũng chỉ tháng trước, ông Nixon đã tiếp Ngoại trưởng Nam Việt Nam và hứa sẽ "làm tất cả để giúp Nam Việt Nam" và "nền độc lập" của nước này.

Ông Nixon còn nói: "Điều chính yếu là cần phải nhớ: chúng tôi biết ai là những người bạn thực thụ".
Nhà nghiên cứu về Nixon, ông Ken Hughes từ đại học Virginia nói ông bị chấn động khi nghe đoạn ghi âm mà ông Nixon nói về ông Thiệu.

Báo New York Times 23/06/2009 trích lời ông Hughes, người nghiên cứu các băng ghi âm của nhiều tổng thống Mỹ, nói cuộc đàm thoại trên càng làm ông tin tưởng vào quan điểm rằng cả ông Nixon, ông Thiệu và ông Kissinger đều biết trước rằng cuộc ngưng bắn không thể duy trì nổi.

Đó cũng chẳng phải là "hòa bình trong danh dự" như ông Nixon mô tả, mà chẳng qua chỉ là cách để Hoa Kỳ rút khỏi cuộc chiến mà "không mất mặt".

Vẫn các báo Mỹ trích lời Ken Hughes tin rằng các nhân vật trong cuộc biết rằng Bắc Việt Nam sẽ vi phạm thỏa thuận ngưng bắn và tiến chiếm miền Nam.

Quan điểm Nixon

Các đoạn băng cũng cho thấy một nhân vật Nixon tiếp tục tạo ra các tranh cãi.

Giới quan sát chú ý cả quan điểm của Tổng thống Hoa Kỳ khi ấy về sắc tộc, về người Do Thái và tất nhiên là về vụ Watergate.
Ông Nixon, qua lời thu âm và tài liệu nay được đưa ra ánh sáng dư luận, có quan điểm rằng phá thai là cần thiết nếu quan hệ nam nữ là khác chủng tộc hay thai nhi là hậu quả của hiếp dâm.

Ông nói:

"Có những khi phá thai là cần thiết. Tôi biết. Như khi có quan hệ giữa một người đen và một người da trắng. Hay là trong trường hợp hiếp dâm".

Còn về người Do Thái tại Mỹ, ông cũng chia sẻ phần nào quan điểm của một số giới bảo thủ Hoa Kỳ.

Trong cuộc điện đàm tháng 2/1973 giữa ông và nhà truyền giáo Billy Graham, người ta nay nghe được lời ông Graham than phiền về các lãnh đạo Mỹ gốc Do Thái "chống lại nỗ lực truyền đạo của Cơ đốc giáo".

Hai người đã đồng ý với nhau rằng các nhân vật Do Thái "có nguy cơ làm khuấy động thái độ bài Do Thái".

Tổng thống Nixon còn nói, "Ông cũng biết rằng đã có vấn đề với những người bạn Do Thái của chúng ta từ hàng thế kỷ nay".

Các đoạn băng được ghi bằng các microphone mật đặt trong Phòng Bầu Dục từ tháng 1 đến tháng 2/1973.

Theo New York Times, các cuốn băng rọi thêm ánh sáng vào một giai đoạn quan trọng trong lịch sử Mỹ, gồm cả lễ đăng quang lần thứ nhì của Tổng thống Nixon, cuộc ngưng bắn tại Việt Nam, vụ xử bảy người đột nhập vào trụ sở đảng Dân chủ tại khu nhà Watergate.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2009/06/090624_nixon_tapes_vn.shtml

Bài Ca Sát Thát


Vũ Hoàng Chương

Đoàn người ấy mọc lên trong sa mạc,
Cả một rừng gươm trên lưng ngựa trường thành
Đoàn quân ấy từ phương Đông xuất phát,
Lũ con hoang bất trị của trời xanh

Chỉ nhắp có hơi men sung sát,
Chỉ say sưa bằng những miếng giao tranh,
Nhằm hướng Phi châu
Ngựa vọt tới đâu là đời sống tan tành,
Biển ngập máu còn mang tên Hồng Hải
Cờ phất Âu châu,
Ngựa giẫm tới đâu là xương phơi thịt vãi
Biển đeo tang còn Hắc Hải ghi danh...

Như ngọn cuồng lưu, như cơn bão cát
Từ Mông Cổ, Tân Cương đến Ba Tư Bạch Đát,
Trở về Hoa Hạ, Yên kinh
Lũ Thiên triều từng Bắc chiến, Tây chinh
Lẽ nào để một phương không xéo nát!
Trời Nam riêng cõi thanh bình
Lẽ nào để chiếc ngai vàng Thát Đát
Ba chân trời Đại Lục đứng chêng vênh!

Hay đâu: Bắc phương vừa quẫy đuôi kình
Rồng thiên sớm đã cựa mình Nam phương
Trần triều hai Thánh Đế
Hương Đạo một Đại Vương
Hội mở Diên Hồng, đất nước vang rền khí thế,
Hịch truyền Vạn Kiếp, trời mây sáng rực văn chương.
Ý gửi tự muôn dân, lệnh trao từ chín bệ
Thì nắm đầu giặc như chơi, cướp giáo giặc cũng dễ.
Đây cửa sông Hàm Tử, bến đò Chương Dương!
“Nuốt sao Ngưu” chẳng phải việc hoang đường
Nam phương cường, Bắc phương cường!
Máu đào loang sóng Phú Lương mấy lần...

Sét nổ trăm hai ngọn ải Tần,
Giang hoài biên tỉnh lại ra quân
Năm mươi vạn tinh binh ruổi ngựa
Tràn xuống Thăng Long như một khu rừng bốc lửa.
Những “Cây Sắt” con nòi Thiết Mộc Chân!

Giống Hồng Lạc giữa hai đường sanh tử
Trông lên sợi tóc buộc ngàn cân
Chợt đâu đó xé rèm mây quá khứ,
Xa thăm thẳm mấy ngàn năm Việt sử
Rọi về tia mắt tiền nhân:
Thiêu tàn khoảnh khắc bao do dự
Cả thép vô danh cũng rực ánh gươm thần...

Sát cánh vua cùng dân
Chung lòng với tướng quân
“Phá cường địch” cờ ai sáu chữ
Báo hoàng ân là báo quốc ân
Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự
Sông núi nào riêng một họ Trần.
Bình Than lạ nổi phong vân
Một gươm Tiết chế hai lần trao tay.

Lời Đại Vương truyền nín cỏ cây
Ba quân hào khí ngất tầng mây
Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét:
-Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!
Hán hồ cũng đến chôn thây
Trước sau một khúc sông này mà thôi...

Triều non bạc lên ngôi, giờ lịch sử
Và xuống ngôi, theo lệnh Đại Vương truyền.
Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên
Lấy Đông Hải làm bia nhằm bắn tới
Một ám hiệu Kình nghê vừa mắc lưới,
Thuyền Vương Sư liền quật khởi tranh phong
Tay chèo nổi ngược cơn dông
Tiêng hò “Sát Thát” vang sông ngập bờ.

Duyên Giang một giải,
Lau cũng phất cờ
Mùa xuân gần cuối
Vẫn sóng bay hoa
Ngang trời động sấm tháng ba,
Dọc sông chớp giật, sáng loà gươm đao...

Cũng nơi đây Bạch Đằng Giang một khúc,
Ngô Vương từng chém Hoằng Thao
Gió mây thôi thúc
Quằn quại ba đào
Chợt tưởng niệm máu càng sôi sục,
Tinh thần quyết thắng bốc lên cao.

Thế phản công làm giặc dữ nôn nao
Chúng hoảng hốt vội thu quân về thượng lưu sông Bạch,
Nhưng số phận Hung nô, người phương Nam đã vạch,
Hỡi ơi, bằng giáo sắt cắm ngang sông
Đáy trường giang là cả một bàn chông
Nằm đợi sẵn khi thuỷ triều xuống thấp
Đoàn thuyền giặc lui qua bị xô nghiêng, lật sấp
Bị xé ra từng mảng vở tan thây...

Giữa lúc rồng thiêng mở vuốt tung mây
Quân tiếp ứng của Vương Sư ào xuất trận
Và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
Hiện ra như một vị thần linh
Chớp mắt trên sông bặt sóng kình
Thế là đã nơi này bỏ xác
Lũ con hoang của trời sa mạc
Khắp Á, Âu từng vạn lý trường chinh
Bọn chúng ngờ đâu một sớm cõi Lý Minh
Thân bách chiến bỗng quay về hột cát
Trôi theo sóng cả tiếng tăm nòi Thát Đát
Cả giấc mơ xâm lược chúa Hồ Nguyên...

Ấy ai qua chốn giang biên
Khói đầy khoang giấc sầu miên lạnh lùng
Tiếng kình vang đợt sóng rung
Có nghe chăng có thẹn thùng người xưa?
Riêng ai nước cũ mây mờ
“Thái Bình Diên Yến” câu thơ lệ nhoà
Tháng Giêng kỷ niệm Đống Đa
Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần?

Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân
Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai?

1962

23 thg 6, 2009

Mỹ-VN tăng cường quan hệ quân sự giữa lúc căng thẳng gia tăng ở Biển Ðông


23/06/2009
Viên chức ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ tại Việt Nam cho rằng mối lo ngại của một số người Việt Nam về việc Trung Quốc chuẩn bị tấn công Việt Nam là không có cơ sở. Đại sứ Michael Michalak đã nhận định như thế trong lúc dư luận Việt Nam xôn xao về những hành vi mới đây của Trung Quốc mà họ cho là 'thể hiện dã tâm xâm lược của Đế Quốc Đại Hán'. Ông Michalak cũng cho ban Việt Ngữ đài VOA biết rằng thỏa thuận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về việc cho phép tàu hải quân Mỹ tiến hành việc tìm kiếm quân nhân mất tích trong lãnh hải Việt Nam là một vấn đề nhân đạo và không liên hệ gì tới tình hình căng thẳng ở Biển Đông. Mời quí vị theo dõi thêm một số các chi tiết trong tiết mục Nhìn Về Á Châu với Duy Ái sau đây.

Trong lúc dư luận Việt Nam rất xôn xao về những hành vi mới đây của Trung Quốc mà họ cho là 'thể hiện dã tâm xâm lược của người Hán', viên chức ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ ở Việt Nam nói rằng ông không tin là Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam như một số người đã lo ngại. Trong cuộc tiếp xúc mới đây với cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở vùng thủ đô Washington, Đại sứ Michael Michalak cho biết ông nghĩ rằng tuy có nhiều vấn đề phức tạp nhưng mối quan hệ Việt-Trung hiện nay không đến nỗi xấu. Sau đây là phát biểu của ông Michalak.

Michael Michalak: Tôi không tin là Trung Quốc sẽ tấn công Việt Nam. Tôi không tin như vậy. Trung Quốc và Việt Nam có một mối quan hệ rất phức tạp. Và nếu quí vị nhìn vào quan hệ giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc thì quí vị sẽ thấy hai nước cũng có một mối quan hệ rất phức tạp: có một số vấn đề chúng tôi đồng ý với nhau, và có một số vấn đề chúng tôi không đồng ý với nhau. Tôi nghĩ rằng mối quan hệ tổng quát giữa Việt Nam với Trung Quốc tương đối tốt. Tôi không biết chắc là mối quan hệ này có phải là rất tốt hay không, nhưng tôi biết chắc rằng mối quan hệ này không đến nỗi xấu lắm. Những người bạn Việt Nam thường nói với tôi rằng: chúng tôi có thể chọn bạn nhưng không thể chọn người hàng xóm. Việt Nam có chung biên giới rất nhiều với Trung Quốc. Họ đã có thể giải quyết việc phân định ranh giới trên bộ. Và vị đại sứ Việt Nam ở Washington, Đại sứ Lê Công Phụng, chính là người cầm đầu cuộc đàm phán về vấn đề này. Quí vị có thể hỏi ông ấy xem ông ấy nghĩ sao về quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Về vấn đề ở Biển Đông, Hoa Kỳ không có lập trường nào về những vụ tranh chấp lãnh thổ trong vùng biển này. Chúng tôi tin tưởng vào quyền tự do hàng hải và sự khai phóng của các thủy lộ, và chúng tôi hành xử quyền tự do hàng hải của mình qua việc đưa tàu bè đi qua các thủy lộ này. Chúng tôi đã gặp phải sự can thiệp trái phép của tàu bè Trung Quốc đối với tàu Impeccable. Tôi nghĩ rằng chúng tôi đã có phản ứng thận trọng và thỏa đáng trong vụ này. Chúng tôi cũng đã áp dụng thêm những biện pháp để bảo đảm quyền tự do hàng hải và kiên quyết thể hiện quyền này.

Đại sứ Michalak đã cho biết như thế một ngày sau khi Washington và Hà Nội loan báo một thỏa thuận về việc cho phép tàu bè của hải quân Mỹ được hoạt động trong hải phận Việt Nam để tìm kiếm người Mỹ mất tích. Khi được hỏi là phải chăng diễn tiến này có liên hệ với tình hình ở Biển Đông, ông Michalak đã trả lời như sau.

Michael Michalak: Không, hoàn toàn không có liên hệ nào. Chúng tôi đã tìm cách để đưa một chiếc tàu thăm dò đáy biển vào Việt Nam từ 3 hoặc 4 năm trước. Rốt cuộc, chúng tôi đã vượt qua được những khó khăn của guồng máy hành chánh để làm được việc này. Đây là một hoạt động thuần túy nhân đạo. Thật ra đây là lần thứ nhì chiếc tàu Heezen này tới Việt Nam. Lần đầu, chiếc tàu này đã đến Việt Nam trong một chuyến thăm cảng. Lúc đó chúng tôi đã mời rất nhiều viên chức chính phủ Việt Nam lên tàu tham quan để biết được chiếc tàu có khả năng như thế nào. Lần này, tàu Heezen trở lại Việt Nam để thực hiện một công tác nhân đạo và đó là mục đích duy nhất.

Khi được hỏi ông nghĩ sao nếu có người diễn giải thỏa thuận này như một sự thừa nhận của Hoa Kỳ đối với chủ trương chủ quyền của Việt Nam ở những khu vực mà Trung Quốc cũng tuyên bố là có chủ quyền, vị Đại sứ Mỹ ở Việt Nam đã cho biết ý kiến như sau.

Michael Michalak: Không, họ không thể diễn giải như thế. Mỗi lần chúng tôi có tàu ghé thăm Việt Nam chúng tôi đều phải trải qua một trình tự rất phức tạp và mất rất nhiều thời giờ. Chúng tôi phải giải quyết mọi chi tiết của chuyến viếng thăm với chính phủ Việt Nam và những chi tiết liên quan chỉ được áp dụng cho chuyến viếng thăm đó và cho chiếc tàu đó mà thôi. Việc này được thực hiện trên cơ sở từng trường hợp một, và trong trường hợp này sự giải thích duy nhất mà quí vị có thể có là Việt Nam với Hoa Kỳ làm việc chung với nhau trong một hoạt động nhân đạo – đó là tìm kiếm và thu hồi hài cốt những người Mỹ mất tích.
Đại sứ Michalak nói thêm rằng Hoa Kỳ sẽ làm tất cả những gì cần thiết để có thể xúc tiến những hoạt động mà Washington tin là hợp pháp và được cho phép bởi nhiều hiệp định hiện hành.

Tiến sĩ Trần Vinh Dự, cố vấn của Quĩ Nghiên cứu Biển Đông, là một học giả trẻ đang làm việc cho một công ty tư vấn ở Washington. Ông cho biết rằng thỏa thuận mới đây giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ là một bước tiến dè dặt trong việc tăng cường quan hệ quân sự giữa Hà Nội và Washington.

Trần Vinh Dự: Tôi đồng ý với ông Đại sứ Mỹ rằng không nên coi việc Mỹ đưa tàu tới hải phận Việt Nam để tìm kiếm người Mỹ mất tích hay là các chuyến thăm viếng của tàu chiến Mỹ ở Việt Nam như là một sự khẳng định từ phía Mỹ về chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Theo tôi thì chỉ nên hiểu các động thái này như là một số bước tiến dè dặt trong quan hệ quân sự hai nước mà thôi. Tôi cũng không cho rằng các quan ngại liên quan tới việc Trung Quốc cưỡng chiếm Trường Sa bằng vũ lực là thực sự có cơ sở, đặc biệt là trong ngắn hạn. Mặc dù các đảo ở Trường Sa là một mục tiêu trọng yếu trong chiến lược thu phục biển Đông của Trung Quốc, tôi cho rằng điều quan trọng hơn có lẽ là việc Trung Quốc kiểm soát toàn bộ vùng biển này và khai thác được các tài nguyên ở biển Đông đồng thời ngăn cản các nước khác trong khu vực tham gia vào việc khai thác. Và thực sự tôi thấy Trung Quốc đang tiến nhanh việc hiện thực hóa mục tiêu thứ hai này. Bằng chứng là để kiểm soát biển Đông về lâu dài thì họ cần hiện đại hóa quân đội và tăng cường sự hiện diện quân sự ở biển Đông – điều mà họ vẫn đang làm rất ráo riết. Và để tận thu các nguồn tài nguyên ở Biển Đông họ đang tăng cường các hoạt động xua đuổi tàu đánh cá của ngư dân nước ngoài hoạt động trong vùng có tranh chấp.

Ông Trần Vinh Dự cho biết ngày 17 tháng 6 vừa qua, tờ Wall Street Journal ở Mỹ loan tin là Tập đoàn dầu khí Sinopec của Trung Quốc đang bắt đầu tiến hành các dự án khai thác dầu khí ở vùng nước sâu ngoài biển Đông; và dựa theo bản đồ đi kèm bài báo này thì vùng mà Sinopec định khai thác nằm rất sát với Việt Nam và chắc chắn là chồng lấn lên vùng thềm lục địa và thềm lục địa mở rộng của Việt Nam.

Theo Tiến sĩ Trần Vinh Dự, những diễn tiến này cho thấy rằng VN đang phải đối mặt với một thực trạng nguy hiểm - không phải là nguy cơ mất các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, mà là nguy cơ đánh mất quyền kiểm soát và khai thác các nguồn tài nguyên trong các vùng biển thuộc chủ quyền của mình. Ông nói thêm rằng có một điều đáng sợ hơn nữa là dường như cho đến nay Việt Nam vẫn chưa tìm ra được một đối sách hợp lý để đáp lại những hành vi của Trung Quốc.

www.voanews.com

Nụ Cười Sơn Cước - Nhạc sĩ :Tô Hải

Nụ Cười Sơn Cước
Nhạc sĩ : Tô Hải
Trình bày : Ánh Tuyết

Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh


Ở xứ ta: một xứ hiền khô, dễ thương, hạnh phúc

Tuổi Trẻ Cuối tuần trích đăng một số bài báo của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh viết đầu thế kỉ trước. Độc giả hôm nay có thể tự hỏi: hay những lời ấy được viết ra chính những ngày này:

“Thực tế suy cho cùng, chính quyền có lý khi cấm người An Nam nói đến chính trị, bởi vì tại cái đất này không có chính trị. Ở đây chỉ có nhà cầm quyền làm vua mà thôi…”

“Ở xứ đó những thằng đại bợm ăn cắp được nhiều nhất là những thằng giỏi xoay xở và khôn khéo trong công việc nhà nước…”

“Hãy để cho người dân được sống yên trong cái xứ đó, cái xứ mà chỉ với một chút xíu khoa học họ đã trở thành nhà thông thái, với hai xu trong túi họ đã trở thành những nhà giàu. Họ cảm thấy thỏa mãn vừa lòng khi chui rúc trong một túp lều. Họ bị áp bức mà không khổ sở và nhất là - nhất là họ bị lừa gạt, bị hăm dọa đòi tiền, bị ăn cắp bóc lột mà vẫn không dè…”

22 thg 6, 2009

Long Khánh - 1977


Vai mang khúc củi mắt dõi theo
Quốc lộ 20 bóng ngả chiều
Mong ngóng một chuyến xe khách muộn
Người từ xứ lạnh hút ngang theo

Bước đi trên mặt đường nhựa nóng
Ngang qua phố chợ nhỏ chòm hom
Quản giáo cho phép dừng chân lại
Góp tiền đưa bạn mua đường đen

Cuộc đời cải tạo năm thứ hai
Đã bớt nghe những tiếng thở dài
Nhưng hằng đêm vẫn trằn trọc mất ngủ
Ray rứt nhớ về và nghĩ đến tương lai

Huyvuquangvan


Quân đội Việt Nam — Con đường canh tân


Trần Vũ

Trước hiểm nguy Trung Hoa, không thể phân biệt quân đội quốc gia với quân đội Bắc Việt hay quân đội Cộng hòa với quân đội Cộng sản. Duy nhất một quân đội Việt Nam mà hiện nay là Quân đội Nhân dân, vì quân đội Cộng hòa đã biến mất, vì Quân đội Nhân dân đang mang trọng trách bảo vệ đất nước. Tiên đề này làm nền cho các khảo sát.

1. Tinh thần ái quốc

Khác với quân đội của các đế quốc, quân đội Việt Nam đã luôn phải xây dựng sức mạnh trên chính lòng ái quốc của dân tộc mình. Ngay cả khi Đại Nam đạt đến sức mạnh của một đế quốc Đông Dương, quân đội Đại Nam chưa biết vận dụng sức lực của các sắc tộc Chàm, Ai Lao hay Thủy Chân Lạp. Sức mạnh của quân đội Việt Nam là sức mạnh của sự đoàn kết, chết để giữ đất và chết để mở đất, của sắc tộc Kinh. Mạc Cửu ở Hà Tiên là một biệt lệ.

Ngược hẳn, quân La Mã hay Thập Tự Chinh là một hỗn hợp các sắc dân tham chiến vì lý tưởng chinh phục hoặc chống Hồi giáo. Gần hơn, quân đội Anh trong hai thế chiến tập hợp lính Ái Nhĩ Lan, Tân Tây Lan, Gia Nã Đại, Nam Phi và Ấn Độ. Tinh thần ái quốc không hẳn là động cơ tham chiến của những người lính này. Trường hợp Quân đội Liên hiệp Pháp không khác. Quân đội Pháp sử dụng một bộ phận lớn lính Ma-rốc, Algérie, Tunisie, Sénégal, Cameroun và binh chủng Lê dương. Trên chiến trường Việt Nam, lính ngoại quốc đông hơn lính Pháp, 52% quân số Lê dương là cựu binh Đức. Có thể viết: Sức mạnh của các quân đội đế quốc là sức mạnh tổng hợp, xây dựng trên sức tổng hợp các lý thuyết, nhân chủng, nguyên vật liệu, kỹ thuật, tài chánh và cả lý tưởng.

Quốc gia Việt Nam chưa đạt đến sức mạnh này, tinh thần ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất.

Đến chiến tranh Việt-Pháp, quân đội Việt Nam gặp thử thách: Lần đầu tiên phải đương đầu với quân đội Tây phương. Quân nhà Nguyễn thất bại liên tiếp khiến triều đình Huế phải ký các hòa ước Nhâm Tuất, Giáp Tuất, Quý Mùi, rồi đến hòa ước Giáp Thân, tức hòa ước Patenôtre, công nhận vĩnh viễn nền bảo hộ Pháp. Lòng ái quốc đã không tạo ra đủ sức mạnh để thắng các phương tiện kỹ thuật của đối phương. Chiến thắng của quân viễn chinh Pháp là chiến thắng của một nền công nghiệp nặng đã nghiền nát một nền nông nghiệp lạc hậu. Một cách khác, quân đội nhà Nguyễn tụt hậu kỹ thuật đến mức mà tinh thần ái quốc và lòng can đảm không thể bù đắp. Cái chết tiết tháo của các đại thần Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu để lại trong lòng dân tộc vô vàn thương tiếc, cùng kính trọng. Nhưng những cái chết này không cứu vãn được nền độc lập quốc gia, chúng cứu vãn duy nhất danh dự của một giai cấp quan triều.

Canh tân trở nên cần thiết. Nhưng không phải lúc nào quốc gia cũng có đủ thời gian và đủ khả năng canh tân. Lịch sử là một chuỗi cơ hội mà chỉ những quốc gia nào biết kịp nắm bắt mới có thể giành lấy những cơ hội kế tiếp.

2. Thời điểm canh tân

Hệ thống dân vận và Viện Sử học cố gắng tìm ra những điểm tương đồng giữa phong trào Tây Sơn với Chính quyền Cách mạng. Trong thực tế, nhìn theo chiều dài lịch sử, chính phủ Việt Nam đương quyền có nhiều điểm tương đồng với nhà Nguyễn và rất khác Tây Sơn trong cách đối đầu với phương Bắc. Trên mặt quân sự, quân nhà Nguyễn đã tiến vào Nam Vang lập Trấn Tây thành nhưng không bình định được Chân Lạp, Quân đội Nhân dân cũng đã trải qua kinh nghiệm này. Trên mặt chính trị, chính quyền Tây Sơn không thật sự thần phục nhà Thanh trong lúc các triều vua Nguyễn đã luôn nhìn về phương Bắc và phụ thuộc vào động thái của Thanh triều trong phương cách ngoại giao với Tây phương. Chính quyền Việt Nam hiện nay ứng xử tương tự.

Điểm tương đồng lớn nhất giữa chính phủ hiện tại với nhà Nguyễn nằm ở sự chậm trễ canh tân sau khi thống nhất đất nước.

Kể từ thế kỷ 19, lịch sử dân tộc cho phép duy nhất hai thời kỳ khả dĩ có thể canh tân quân đội: Bốn triều vua đầu nhà Nguyễn và từ thập niên 90 đến nay. Các giai đoạn khác, quốc gia chìm đắm trong chiến tranh và loạn lạc.

Hoàng đế Gia Long có nhiều thuận lợi: Mối giao hảo ban đầu khá tốt đẹp với Pháp hoàng, ngay cả khi Pháp hoàng Louis XVI bị cách mạng đánh đổ, đường dây ngoại giao đã thiết lập, và ngay cả khi mối quan hệ này đứt đoạn, Âu châu đang chìm trong chiến tranh của Nã Phá Luân cho phép Đại Nam một thời kỳ dài bình yên. Các giám mục, giáo sĩ, kỹ sư theo phò Gia Long đã chứng tỏ trung thành và đắc lực. Một chính sách phổ biến kiến thức của các kỹ sư này, một cách quy mô, mở mang công xưởng và tận dụng tri thức Tây phương bằng cách thuê mướn người Âu châu như Nhật Bản sẽ thực hiện về sau, đã có thể cải tổ quân đội Đại Nam một cách hữu hiệu. Gia Long còn thừa hưởng âm vang của hai chiến thắng Rạch Gầm và Đống Đa của Nguyễn Huệ, khiến Xiêm La và Đại Thanh quốc nể vì. Gia Long đã không tận dụng những ưu thế này.

Các hoàng đế kế nhiệm Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã không nhìn thấy bối cảnh thế giới vẫn còn thuận lợi và Đại Nam là một trong những quốc gia mạnh ở Á châu, kể cả khi so sánh với Nhật Bản.

Phía Bắc, Thanh triều phải đối đầu với các nội loạn triền miên ở Lưỡng quảng cho đến 1864 mới dẹp yên Hồng Tú Toàn. Cuộc chiến với Thái bình Thiên quốc làm Thanh triều kiệt quệ. Phía Đông Bắc, Cao Ly đang bị Mãn Thanh chiếm đóng, còn Nhật Bản vẫn đóng cửa không giao tiếp với thế giới. Nhật Bản liên tiếp trải qua 11 trận đói trong suốt một thế kỷ rưỡi, mà nạn đói sau cùng diễn ra vào năm 1837. Các sứ quân Tokugawa suy yếu dần.

Phía Nam, Mã Lai không đủ sức uy hiếp Đại Nam. Phía Tây Nam, Xiêm La với 4 triệu dân không cản được Trương Minh Giảng tiến vào Chân Lạp. Phía Tây Bắc, vương quốc Miến Điện với 3 triệu dân không có cả quân đội chính quy để gây hấn với Đại Nam. Lính Miến, trưng binh khi chiến tranh, không được tổ chức thành một đạo quân thường trực.

Phía Đông, biên giới Hoa Kỳ chỉ chạm đến Thái Bình dương vào năm 1848 sau khi giành lấy California từ tay quân đội Mễ. Hiểm nguy đến từ Âu châu. Tuy nhiên, ngoài các thương điếm, Hòa Lan và Bồ Đào Nha không đủ sức mở những cuộc viễn chinh lớn. Tây Ban Nha tuy hiện diện ở Phi Luật Tân đã bắt đầu chu kỳ suy tàn. Đế quốc Phổ, một sức mạnh lục địa, không ưu tiên xây dựng hạm đội và hãy còn đang tìm cách chế ngự quân đội Pháp. Trường hợp Pháp, tiềm năng khoa học kỹ thuật và tham vọng vẫn tràn đầy nhưng hải quân Pháp bị tiêu hủy trong thủy chiến Trafalgar chưa vực dậy. Đế chế Nga tập trung sức lực hoàn thành tuyến đường hỏa xa xuyên Tây Bá Lợi Á để tiến vào Mãn châu bằng đường bộ, vì Bắc Băng dương đóng băng quanh năm, khiến tham vọng Nga giới hạn vào Bắc Á. Hoàng gia Anh đã bắt đầu xuất hiện ở miền duyên hải Miến Điện và Mã Lai ngay từ 1826, mở các thương điếm và ký thương ước. Trước yêu sách của các công ty hàng hải Peninsular and Oriental và Cunard Line, các triều vua George rồi Victoria sẽ gửi thêm chiến thuyền sang Á châu nhưng tập trung vào các vùng đất vừa khám phá ở Úc và Tân Tây Lan, rồi Trung Hoa, khiến lãng quên Đại Nam.

Các vua đầu triều Nguyễn, như thế, vẫn còn thời gian. Ngoài hai năm khởi loạn của Lê Văn Khôi và động loạn của vài bộ tộc thiểu số ở miền Thượng du Bắc Việt, nhà Nguyễn có sự ổn định ngai vàng và đã biết đến sự hiện diện của một nền văn minh khác ở Tây bán cầu, và chính sự hiện diện của nền văn minh này mới có thể giúp canh tân nếu có một chính sách đối ngoại vừa trung lập, vừa tương tác với nhiều quốc gia, vừa mở cửa tiếp nhận kỹ thuật Tây phương. Trong suốt sáu thập kỷ, từ lúc Gia Long tiến vào Phú Xuân cho đến khi Tự Đức nhận tối hậu thư của Pháp, triều Nguyễn đã không canh tân. Chính sự thụ động này đã kết án số phận dân Việt, một kết án chung thân khi những canh tân quyết định thế giới diễn ra trong thế kỷ 19.

Nhà Nguyễn đã không áp dụng phương châm của Bismarck: "Chính trong thời bình phải đúc súng."

Sang thế kỷ 20, đầu thập niên 90, lịch sử đem đến cho dân tộc một cơ hội thứ nhì. Trước đó, Chính quyền Cách mạng đã bị cả hai đế quốc Trung Hoa và Hoa Kỳ cô lập. Trong mặt nội chính, chính quyền này đã tự cấm vận tri thức của dân tộc khi không cho phép bất kỳ một giao dịch nào với thế giới. Thập niên 90, cánh cửa mở ra bên ngoài phơi bày hình ảnh của một quốc gia tụt hậu. Dân chúng ý thức rất rõ: Việt Nam đã bị nhân loại qua mặt. Tuy vậy, quốc gia không nội loạn, đầu tư thế giới đã vực dậy kinh tế, sự thay đổi chiến lược của các đế quốc, sự thay đổi các ý thức hệ, vị trí và tiềm năng quốc gia dần khôi phục cho phép dân tộc một hy vọng. Nhưng cho đến phút này, tiến trình công nghiệp nặng và hiện đại hóa quân đội vẫn chưa thực sự bắt đầu. Có thể giải thích vì Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo, dân trí thấp. Câu trả lời là nếu không canh tân, sẽ không bao giờ có thể nâng cao dân trí và nâng cao mức thu nhập quốc dân mà không vay mượn.

Hiểm nguy Trung Hoa còn là một lý do cấp thiết. Thời Mã viện, dân tộc bị đô hộ vì thua kém binh lực mà quyết tâm không để bị đồng hóa còn cho phép khởi nghĩa giành lại đất đai, quyền làm người. Dưới triều Tự Đức, dân tộc bị đô hộ vì không thể bắt kịp kỹ thuật Tây phương, vì đã không hiểu các cuộc xâm chiếm nằm trong một chuyển động toàn cầu, trong phân chia giữa các đế quốc. Cả hai nguy hiểm hôm nay nhập một. Với kẻ thù truyền kiếp Trung Hoa.

Nếu thập niên 70 tương đương với nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn và chấm dứt khi Nguyễn Ánh vào Phú Xuân, thập niên 80 tương đương với triều Minh Mạng tiến quân vào Chân Lạp rồi đồn trú và sa lầy, thì thập niên 90 cũng tương đồng với giai đoạn chuyển tiếp của triều Thiệu Trị. Hôm nay, sang thập niên 2010, dân tộc đã ở vào giữa triều Tự Đức mà hiểm nguy đã trông thấy. Nếu chậm trễ, quốc gia sẽ lâm vào hoàn cảnh của Tự Đức còn chưa đầy hai thập niên trước khi nhận tối hậu thư của giặc. Một cách khách quan, ở vào giữa triều Tự Đức là đã muộn. Vì vận tốc canh tân của quốc gia, nếu thực hiện, vẫn chậm hơn vận tốc phát triển kinh tế, binh lực, vũ khí hiện đại của Bắc Kinh đã đạt đến tầm mức lớn. Nhưng dân tộc vẫn muốn tin hãy còn kịp, chưa muộn.

Phải canh tân trước khi một Yalta thứ nhì chia chác các vùng ảnh hưởng được ký kết giữa các đế quốc Nga, Hoa, Mỹ, như đã xảy ra vào tháng 2-1945 giữa Churchill, Roosevelt và Staline, trao những tiểu quốc này vào tay đế quốc kia và những tiểu quốc khác vào tay đế quốc nọ. Với một phân vùng như vậy, Việt Nam sẽ không thoát được số mệnh trở thành chư hầu của Trung Hoa và tương lai dân Việt sẽ tùy thuộc hoàn toàn vào lương tâm Bắc Kinh. Hạn chót của canh tân đã điểm.

3. Quân đội công dân

Khiếm khuyết lớn của Quân đội Nhân dân và Viện Sử học là đã chịu chi phối bởi cách nhìn quân sử của Hồng quân Sô Viết về Âu châu, và của Hồng quân Trung quốc về Á Châu, trong một thời kỳ dài.

Khiếm khuyết lớn của dân tộc Việt là đã say mê khía cạnh chính trị của chiến tranh mà lãng quên khía cạnh thuần học thuật, quân sự của chiến tranh. Clausewitz nổi tiếng với mệnh đề thường xuyên được trích dẫn: "Chiến tranh là cánh tay nối dài của chính trị." Nhưng Clausewitz không viết duy nhất một mệnh đề này, mà soạn thảo tám tổng tập Cẩm nang Chiến tranh mà cho đến phút này vẫn chưa được dịch sang tiếng Việt, ngay cả tóm lược. Clausewitz không duy nhất. August von Gneisenau, Gerhard von Scharnhorst, Helmuth von Moltke và Alfred von Schlieffen là những gương mặt đã cải cách quân đội Phổ, đưa quân đội này từ vị trí thảm bại trước quân Nã Phá Luân đến vị trí thống trị ở Âu châu trong suốt thế kỷ 19 sang đến đầu thế kỷ 20. Có thể kể thêm Hans von Seeckt, đã xây dựng nền móng cho quân đội Wehrmacht.

Clausewitz là một lý thuyết gia quân sự. Gneisenau mới thật sự là một nhà cải cách. Lịch sử quân đội Phổ đánh một khúc quanh quan trọng sau các thảm bại Jena, Auerstaedt trước đại quân Nã Phá Luân. Tập thể sĩ quan ưu tú đặt câu hỏi: Làm cách nào để ngăn chặn sức bành trướng của đế chế Pháp? Xây dựng sức mạnh của quân đội Phổ từ đâu? Những câu hỏi mà quân nhà Nguyễn đã không đặt ra và Quân đội Nhân dân chưa tìm thấy câu trả lời trước uy hiếp của Giải Phóng quân Trung quốc. Các công trình suy nghiệm của Clausewitz, Gneisenau và Scharnhorst đều được biên soạn ở thời kỳ này, khi quân đội Phổ thất thế, ở dưới đáy cùng của bất lực. Điều cần nhấn mạnh là những công trình này, bên cạnh việc tập trung nghiên cứu tìm cách triệt tiêu sức mạnh quân sự của quân đội Pháp, ở cả hai mặt học thuyết và chiến thuật, trong tấn công cũng như trong phòng ngự, còn giải quyết những câu hỏi khái quát, trừu tượng, bằng những giải đáp thực tế.

Gneisenau và Scharnhorst định nghĩa tức khắc, sức mạnh của một quân đội nằm trong 7 yếu tố: Học thuyết, phương tiện, tổ chức, quân số, tinh thần, địa lý và tính tự trị độc lập của quân đội đó. Phải có học thuyết rồi mới có thể vận dụng phương tiện thích ứng để tổ chức, và phải có tổ chức mới có thể thâu nạp, huấn luyện, võ trang, khiển dụng hữu hiệu quân số mà tinh thần làm nên sức mạnh. Nếu sức mạnh này còn tùy thuộc vào địa lý của vùng đất phải tấn công hay phòng thủ, sức mạnh đó chỉ đạt đến viên mãn nếu tập thể quân đội có được sự tự trị độc lập với giới chức chính trị nắm giữ hành pháp mà các mục tiêu thường ngắn hạn không cho phép thực hiện một học thuyết chiến tranh lâu dài. Tất cả khái niệm về quân đội của Gneisenau và Scharnhorst thâu tóm trong khái quát căn bản này.

Trong 7 yếu tố, 3 yếu tố được xem tối quan trọng: Tinh thần, học thuyết và tính độc lập tự trị. Tinh thần không giản dị là tinh thần trách nhiệm, tinh thần tổ chức, tinh thần kỷ luật, hay tinh thần chiến đấu. Đây là những tinh thần phụ, cần có một tinh thần xương sống, xuyên suốt qua 7 yếu tố, để từ tinh thần này nảy sinh các tinh thần phụ kể trên.

Gneisenau viết: "Tập thể quân nhân tìm sức mạnh trong tập thể công dân mà trách nhiệm ngang bằng với dân quyền."

Tuy ăn lộc triều đình, Gneisenau đã yêu sách: Phải đặt khái niệm công dân lên trên khái niệm thần dân của Phổ hoàng. Đặt khái niệm quyền lợi dân sự ngang bằng với khái niệm nghĩa vụ quân sự. Có trách nhiệm thì phải có quyền lợi. Có thi hành thì phải có tham dự. Lòng ái quốc vô điều kiện phải chuyển hoán thành lòng ái quốc có điều kiện. Một cách vắn tắt: Tinh thần công dân.

Trước những tấn công của phái bảo hoàng, Gneisenau phân tích: Một tập thể quân nhân không thể thiếu tinh thần chủ đạo cho tất cả các quyết định. Tinh thần này không thể là tôn giáo, vì một dân tộc không thuần một tôn giáo, vì tôn giáo không cho phép những tư duy khoa học với những phương pháp khoa học. Tôn giáo cũng dễ đẩy đến những quyết định không chiến lược mà thuần đức tin. Còn lại tinh thần ái quốc. Nhưng lòng ái quốc là một tình cảm trừu tượng, thiếu cụ thể, dễ biến thiêng và dễ bị ngụy tạo. Tinh thần ái quốc thăng giảm tùy theo đạo đức chính trị của giới cầm quyền. Tinh thần ái quốc có thể dẫn đến sa ngã, làm chán nản, bất mãn, ly khai, khi đạo đức chính trị suy thoái, tác động đến hiệu năng chiến đấu của quân đội. Ngược lại, an nguy của một quốc gia không giới hạn vào một tập thể hành pháp mà có thể có nhiều chính quyền kế tục nhau nắm giữ hành pháp. Do vậy, quân đội cần phải tự trị, độc lập với chính trị, để có thể giữ được sức mạnh tinh thần của quân đội trong bất kỳ mọi hoàn cảnh. Có nghĩa vụ, phải có quyền lợi. Quyền lợi của công dân trong xã hội là được tham gia việc nước. Quyền lợi của công dân trong quân đội là được tham gia giữ nước ở vị thế bình đẳng với giai cấp quý tộc. Tinh thần công dân phải là tinh thần của quân đội.

Viết thành văn bản, đề nghị canh tân nền tảng, và hành động, Gneisenau xứng đáng là một gương mặt cải cách.

Phổ hoàng Friedrich không tầm thường, đã chuẩn y. Nhiều lý lẽ viện dẫn Phổ hoàng không có chọn lựa vì cần tập hợp toàn dân, toàn quân, chống lại Nã Phá Luân. Giải thích này đúng hoặc sai, không quan trọng. Điều quan trọng là Gneisenau và Scharnhorst đã san bằng giai cấp quý tộc, tuy vẫn hiện diện, thăng thưởng ngạch trật, giao phó trọng trách, sẽ dựa trên khả năng mà không còn trên giai cấp. Hàn lâm viện danh tiếng Bá Linh mở cửa cho các sĩ quan xuất thân từ giới thợ thuyền, bình dân và nông dân. Sự kết hợp toàn dân, ở cùng một vị trí công dân, làm nên sức mạnh của tân quân đội Phổ, trở thành một quân đội quốc gia, thay vì quân đội riêng của Phổ hoàng.

Cùng với Gneisenau, Scharnhorst bắt buộc tất cả các sĩ quan đều phải tốt nghiệp học viện quân sự, không còn sĩ quan chỉ có khả năng thuần trận mạc mà thiếu kiến thức tham mưu, khoa học, quản trị. Từ 3 hàn lâm viện ban đầu ở Bá Linh, Königsberg, Breslau ― Scharnhorst cho xây thêm 10 Kriegschule, học viện chiến tranh, trên khắp lãnh thổ: Anklam, Cassel, Dantzig, Erfurt, Glogaw, Hanovre, Hersfeld, Neisse, Postdam và Munich. Nếu Gneisenau khái quát, còn Clausewitz tổng hợp học thuyết, thì Scharnhorst đào tạo và quảng bá tư tưởng của Gneisenau và Clausewitz. Trong canh tân, Scharnhorst đặt dấu nhấn lên hệ thống giáo dục quân nhân.

Chưa đầy một thập niên sau trận Jena, quân Phổ chiến thắng ở Leipzig rồi Waterloo. Nếu hai chiến thắng này chưa thể xem là thành quả của canh tân vì có sự tham gia của liên quân Nga-Áo tại Leipzig và liên quân Anh-Áo tại Waterloo, đến chiến thắng Sedan về sau của Moltke, nhận đầu hàng của Nã Phá Luân đệ tam ngay tại mặt trận và giành lại hai tỉnh lỵ Alsace và Lorraine, có thể xem công trình canh tân của Gneisenau, Scharnhorst và Clausewitz đã hoàn tất. Số sĩ quan xuất thân bình dân đã chiếm ¾, tuy chưa lên đến thượng tầng, các sĩ quan này đã hiện diện ở các chức vụ trung cấp: trung đoàn phó, trung đoàn trưởng, phó phòng hành quân, phụ tá tham mưu, và suy nghĩ Clausewitz trở thành suy nghĩ của quân đội Reichswerh.

Ngoài kết quả chiến trường, cải tổ của Gneisenau còn mang tính chất căn bản: Quân đội Phổ sẽ từng bước đặt sứ mệnh quốc gia trên sứ mệnh hoàng gia, và đặt quyền lợi của dân tộc trên quyền lợi của dòng họ Hohenzollern đang trị vì. Quyết định đơn phương chấm dứt chiến tranh một thế kỷ sau, vào tháng 11-1918, yêu cầu Phổ hoàng Wilhelm thoái vị để quốc gia không bị chiếm đóng, để có thể giữ được tiềm năng của quân đội cho phép phục hưng về sau, là những quyết định của một quân đội quốc gia, không phải của một quân đội hoàng gia, của một tập thể sĩ quan công dân, không phải của một tập thể sĩ quan thần dân.

Khái niệm quân đội công dân là khái niệm bảo vệ quyền lợi chung của đất nước, thay vì bảo vệ một giai cấp, một cung đình.

4. Tinh thần Đại hòa

Cuối thế kỷ 18, chiến thắng hàng loạt của Nã Phá Luân trên chiến trường Âu châu thâu đạt từ cách vận dụng kỵ binh xé đội hình bộ binh ô vuông của các quốc gia đối phương. Tấn công bằng kỵ binh không phải là một chiến thuật mới. Các đế chế Nga, Thổ vẫn thường xuyên đánh dàn trận bằng kỵ binh đông đúc và áp đảo. Canh tân của Nã Phá Luân là đã tăng cường hỏa lực của kỵ binh bằng cách cho kỵ binh nặng kéo trung pháo và pháo nhẹ 30 ly, 40 ly, thậm chí 75 ly di động theo cùng đoàn kỵ mã, rồi khai hỏa vào cạnh sườn đối phương trước khi xung phong. Pháo nặng của quân đội các quốc gia Nga, Áo, Phổ do ở các đơn vị biệt lập, cố định hay vận chuyển chậm, đã không kịp tác xạ theo hướng di động của chiến trường. Thành công của Nã Phá Luân còn nằm trong chia cắt, đánh từng đạo binh của các quốc gia riêng rẽ, ngăn giao kết. Cải cách của lục quân Phổ thời kỳ này, là tạo khối liên kết hiệp đồng bên cạnh sản xuất hàng loạt pháo binh nhẹ ― theo phương thức của Scharnhorst.

Trường hợp Nhật Bản khác hẳn. Cho đến giữa thế kỷ 19, sức mạnh của quân đội Nhật xây dựng duy nhất trên kiếm pháp của giai cấp võ sĩ đạo. Tương tự Đại Nam, tinh thần ái quốc và lòng can đảm làm nên sức mạnh duy nhất của quân đội này. Tiến trình canh tân do vậy khởi điểm từ lưỡi kiếm samourai trên một mặt bằng nông nghiệp lạc hậu. Dưới triều Minh Trị, tiến trình này nhanh cấp kỳ.

Các sử gia hầu hết đều chuẩn thuận hai thời điểm: 1868 khởi đầu canh tân và 1894 hoàn tất hiện đại hóa quân đội Nhật. Vì sao hai niên lịch này? Vì trước 1868, Nhật Bản chưa sở hữu hạm đội viễn dương và đến 1894 thiên hoàng Minh Trị đủ sức khai chiến với Mãn Thanh giành lấy Cao Ly, Lữ Thuận khẩu và bán đảo Liêu Đông. Rồi vài năm sau tranh chấp Mãn Châu với Nga hoàng. Cả hai xung đột đều kết thúc bằng chiến thắng vang dội của Hải quân Hoàng gia Nhật, đánh chìm Hạm đội Bắc dương của Đinh Nhữ Xương tại Hoàng hải, và đánh đắm hoàn toàn Hạm đội Bắc hải của đô đốc Rojetsvensky tại eo biển Đối Mã. Canh tân Nhật Bản là một thành tựu rực rỡ ― đã thực hiện trong vòng 25 năm.

Vì sao Nhật Bản, một đảo quốc với 42 triệu dân đã dám tuyên chiến với Đại Thanh quốc, một lục địa với 350 triệu dân ở cuối thế kỷ 19, và dám tuyên chiến với đế chế Nga, một đế quốc trải dài từ Thái Bình dương qua hết Bắc Băng dương ở đầu thế kỷ 20? Rất khác quân đội Phổ, một tập thể công dân, quân đội Nhật vẫn là một tập thể thần dân. Nhưng tập thể quân nhân thần dân này, một cách trái nghịch đã tập hợp lại trong một quân đội quốc gia, mà cho đến 1868 chưa hiện hữu. Trước, vương quốc Nhật Bản mang dáng dấp của một cung đình vua Lê, chúa Trịnh. Quyền hành trong tay Mạc phủ, với các lãnh chúa địa phương mà mỗi lãnh chúa thuê mướn các võ sĩ dùng làm quân đội riêng. Vương quốc Nhật, như thế, bao gộp nhiều quân đội tư nhân hay hoàng phái, khi kết hợp, khi đánh lẫn nhau, khi liên kết từng phần để tranh giành quyền bính với Mạc phủ, hoặc giúp Mạc phủ. Những quân đội này không mang sứ mệnh quốc gia vì ăn lộc chúa. Sứ mệnh của các võ sĩ samourai là bảo vệ lãnh chúa của mình. Canh tân trước tiên của Minh Trị Mutsu-Hito nhằm thống nhất quốc gia, tức thống nhất hành chánh và quân đội. Sức mạnh chính của Minh Trị là đã biết cải tổ toàn phần cơ cấu xã hội dựa trên tinh thần Đại hòa của vương quốc Yamato ― Vương quốc Đại hòa xưa cũ. Đại hòa dân tộc là tinh thần cổ xưa của Nhật Bản.

Kể từ thế kỷ 12, xã tắc Nhật Bản không thay đổi. So với Đại Nam đứng dừng từ thế kỷ 15, tổ chức triều chính Nhật Bản bất động lâu hơn nữa. Cho đến khi đề đốc Perry tái xuất hiện ở vịnh Yédo vào tháng 3-1854, với 250 đại bác trí trên các thuyền chiến Hoa Kỳ, xã hội nhật Bản vẫn là một xã hội phong kiến nhiều giai cấp, với các lãnh chúa cát cứ có quyền đúc tiền riêng và quân đội riêng: Các lãnh chúa daimio khiêm nhượng có trên 200 võ sĩ, trong lúc các lãnh chúa ngự trị nhiều địa phương có đến hàng vạn samourai. Toàn xứ Nhật chia làm 276 lãnh địa do 276 lãnh chúa cai quản, toàn quyền sinh sát, tức toàn quyền sắp đặt công lý cá nhân, với nhiều đơn vị tiền khác nhau mà đứng đầu là sứ quân Chôgoun ― một chúa Trịnh của thiên hoàng. Tổng số samourai lên đến 500 ngàn. Chỉ có các võ sĩ có quyền mang kiếm, không phải lao động, không đóng thuế, và không bị áp dụng hình luật phổ thông, thậm chí có quyền "thế thiên hành đạo" nếu bị giai cấp thứ dân rônin bất kính. Sứ quân Tokugawa sở hữu ¼ tổng số đất của đảo Bản châu, đảo lớn nhất chiếm 60% diện tích nước Nhật, và chiêu tập dưới trướng 50 ngàn võ sĩ. Thiên hoàng chỉ là một vua Lê mờ nhạt, với các hoàng thân tạo ra giai cấp quý tộc kugé chỉ chiếm giữ một số ít đất đai. Trong suốt tám thế kỷ, Mạc phủ ngăn cấm thiên hoàng tiếp xúc với các lãnh chúa, ngược lại các lãnh chúa không được quyền lên đế đô Kyoto gặp thiên hoàng, tất cả phải thông qua sứ quân. Trong suốt tám thế kỷ, thiên hoàng không biểu trưng quốc gia Nhật Bản mà duy nhất làm một hình bóng dòng dõi thần linh theo truyền thuyết.

Ngay sau khi đăng quang vào năm 1868, Minh Trị hiểu ra tức khắc, không thể hiện đại hóa quân đội mà không cải cách toàn diện xã hội. Sáng suốt của thiên hoàng Mục Nhân là đã ý thức trong bất kỳ mọi cải cách sâu rộng, sẽ xảy ra thiệt hại cho một hay nhiều giai cấp, vì phải tước đặc quyền của một bộ phận dân chúng để trao cho nhiều bộ phận dân chúng. Nguy cơ lật đổ là khả dĩ. Nếu trầm trọng sẽ trở thành nội chiến, hay ít hơn tạo ra bất mãn ly khai và thụ động làm suy giảm tiềm lực đất nước. Giải pháp Đại hòa, xây dựng trên tinh thần Đại hòa truyền thống của vương quốc Yamato từng hiện hữu cho đến thế kỷ 12, sẽ được Minh Trị áp dụng.

Công thức canh tân của Mitsu-Hito có thể tóm lược vào một nguyên tắc: San hòa đồng đều quyền lợi và hy sinh.

Với Đại Hiến chương ban hành ngày 6 tháng 4-1868, còn gọi Khế ước 5 điểm, Minh Trị hiệu triệu quốc dân và cam kết: Xóa bỏ thể chế phong kiến. Thâu thập tri thức của toàn thế giới. Thực hiện ý nguyện chính đáng của mọi tầng lớp. Sự tham gia của quần chúng vào việc nước làm nền tảng của thể chế mới. Toàn dân bình đẳng.

Không còn sứ quân chôgoun, lãnh chúa daimio, quý tộc kugé, võ sĩ samourai hay cùng đinh rônin. Minh Trị trao trả tất cả đất đai của sứ quân và lãnh chúa cho nông dân, mà cho đến khi đó cày ruộng thuê cho lãnh chúa, phải giao nộp tất cả thóc lúa đổi lấy tiền công. Tất cả nông dân, ai đang cày thuê bao nhiêu sào ruộng thì trở thành chủ điền của các sào ruộng ấy, thay vì nộp toàn bộ hoa lợi cho lãnh chúa, được giữ lại và chỉ đóng thuế thu nhập theo gặt hái và thuế thổ trạch. Với tiền thuế này, Minh Trị bồi hoàn đất đai cho lãnh chúa, thu hồi cung điện, lâu đài làm dinh thự chính phủ, trợ cấp hàng tháng đủ bảo đảm phú quý cho lãnh chúa với điều kiện phải rời khỏi địa phương để lên sống ở Kyoto. Giải thể các võ sĩ, cho về quê, hưởng phụ cấp để sinh sống. Biện pháp đối với giai cấp quý tộc hoàng phái không khác. Trên mặt tài chánh, đồng yen, đơn vị tiền tệ quốc gia ra đời; trên mặt giáo dục, tiểu học bắt buộc cho cả hai giới tính, bắt buộc nam giới lên đến trung học; trên mặt truyền thông, báo chí tư nhân phát hành đầu tiên năm 1871, bốn năm sau trên 100 nhật trình và tập san định kỳ.

Các sử gia đặt câu hỏi vì sao sứ quân và các lãnh chúa đã đầu hàng nhanh chóng như vậy, sau tám thế kỷ ngự trị? Các sử gia cùng tìm ra câu trả lời: Sự suy vi của Mạc phủ Tokugawa, vì không giải quyết được nạn đói 1837 và hoàn toàn bất lực nhục nhã trước khiêu chiến của Âu Mỹ, đã đưa đến khinh thường rồi bất phục tòng của các lãnh chúa là một nguyên nhân. Lòng trung quân của một số lãnh chúa phê phán sứ quân chuyên quyền là một nguyên nhân khác. Nhưng nguyên nhân chính nằm trong sự phân rã của giai cấp lãnh chúa, khiến các lãnh chúa khiêm nhượng muốn quay về với thiên hoàng trước nguy cơ sẽ bị các lãnh chúa mạnh hơn tiêu diệt, các lãnh chúa cấp trung bình thiếu đoàn kết không cùng phù trợ một lãnh chúa mạnh nào để tạo ra thế lực đối kháng. Sau cùng, vì giữa các lãnh chúa mạnh thường trực kình chống nhau, không ai muốn đối thủ trở thành sứ quân thay thế Mạc phủ. Trên tổng số 276 lãnh chúa, duy nhất 17 lãnh chúa chống lại thiên hoàng.

Với giai cấp võ sĩ, mà tiền phụ cấp quá ít, cũng như đặc quyền mang gươm biến mất, Minh Trị nhanh chóng nhận ra phải vận dụng, thay vì lãng quên. Các samourai được mời gọi gia nhập quân đội hoàng gia, cảnh sát, hành chánh, kỹ nghệ mà với truyền thống võ sĩ đạo tinh tuyền, cùng khả năng được tôi luyện, giai cấp này nhanh chóng chiếm lĩnh các chức vụ chỉ huy trong tân quân đội Nhật Bản, và ở các ban ngành khác, đặc biệt trong kỹ thuật. Một cách gián tiếp Minh Trị đã chuyển hóa giai cấp võ sĩ thành một giai cấp kỹ trị. Các samourai mà truyền thống hiến thân, xả thân, xem trọng danh dự, khinh thường cái chết, sẽ từ bất mãn vì quyền lợi thâu hẹp, sang phục vụ và trở thành nhân tố thực hiện canh tân vì đã tìm lại được vị trí trong xã hội.

Đối với giai cấp thứ dân rônin, quyền sở hữu đất đai hơn một ân huệ, một thức tỉnh đất đai thuộc về quốc gia mà quốc gia thuộc về dân, không thuộc một thiểu số nào. Các nông dân khi tham gia quân đội, ý thức đang tham gia bảo vệ chính quyền lợi đất đai, quyền thụ hưởng một công lý minh bạch duy nhất, và vị thế bình đẳng của bản thân, gia đình mình. Cải cách sâu đậm này của Minh Trị khiến hình ảnh thiên hoàng trở nên biểu tượng quốc gia vì biểu trưng cho quyền lợi chung. Vẫn còn là thần dân trong một quân đội hoàng gia, nhưng việc quân đội này phụng sự thiên hoàng trở nên tương đồng với việc phụng sự quốc gia. Một bước đi vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản đã thoát ra khỏi thời kỳ Mạc phủ.

Các tóm lược trên, nằm trong chính sách san hòa quyền lợi. Còn sự san hòa hy sinh vì canh tân?

Để thủy sư đô đốc Ito Sukeyuki có thể chỉ huy một hạm đội hiện đại vào năm 1894, tiến vào biển Hoàng hải giao chiến với hạm đội Mãn Thanh, dân Nhật đã phải hy sinh rất nhiều. Vào năm 1893, khi Bộ Hải quân quyết định mua thêm hai tuần dương hạm nặng 12 ngàn tấn của Anh, Bộ Tài chánh đã từ chối với sự đồng ý của thủ tướng Hirobumi Ito vì lý do ngân khố sắp cạn. Quốc hội Kokkai, với Hạ viện Shugi-in và Thượng viện Sangi-in, và kể cả Hội đồng Trưởng lão Genro chuẩn y.

Thiên hoàng Minh Trị đã can thiệp tức khắc, bằng đạo dụ ngày 10 tháng 2-1893: "Nếu chúng ta phạm bất kỳ một sai lầm nào trong an ninh quốc phòng, sai lầm này sẽ đè nặng lên dân tộc chúng ta trong suốt một thế kỷ."
[Meiji Mutsu-Hito, Rescrit du 10 février 1893, dẫn theo sử gia Pierre Renouvin, trong tập Câu hỏi Viễn Đông, chương Mâu thuẫn Hoa-Nhật 1894-1895, trang 142, Nxb Librairie Hachette, 1947]

Minh Trị quyết định cắt lương công chức, tỷ lệ thuận với mức lương và chức vụ. Số lương tiết kiệm dùng thanh toán phí tổn của hai tuần dương hạm. Vẫn giữ vững tinh thần Đại hòa, Minh Trị xuống chiếu cho phép tất cả con em công chức bị trừ lương được ưu tiên thi vào các trường trung học, đại học, học viện quân sự, cũng như cao học hành chánh hay công sở và ưu tiên được chọn ban, ngành, binh chủng. Ưu tiên, không có nghĩa đương nhiên thâu nhận mà không qua thi tuyển, ngược lại vẫn phải hội đủ sức khỏe, khả năng, trình độ và trí thông minh, tuy nhiên mỗi con em gia đình đã đóng góp cho đất nước hai tuần dương hạm sẽ được tăng thêm điểm, xem như quốc gia cộng cả công lao của cha mẹ vào điểm học vấn. Việc ưu tiên cứu xét còn cho phép các gia đình công chức cấp thấp một cơ may thăng tiến xã hội ở thế hệ thứ nhì. Đây chỉ là một chi tiết, nhìn rộng ra, tất cả nguồn vốn đầu tư của nước ngoài và cả vay mượn của chánh phủ đều dùng cho mục đích canh tân mà không tiêu sài cho mục đích tiện nghi. Nhật Bản không cải tạo đường xá, ngoài các quốc lộ chính dẫn đến hải cảng; không xây các đô thị nhà ở cao cấp, dân Nhật vẫn tiếp tục sống trong những ngôi nhà gỗ, cửa giấy, chật hẹp. Bốn công trình lớn: mỏ than Chikouho trên đảo Cửu châu, đường hỏa xa, điện lực, dẫn thủy canh nông - lâm thủy sản, dù đem đến thêm chút tiện ích và lương thực cho dân Nhật, vẫn không ra ngoài mục đích xây dựng quân đội mạnh. Tuyến đường xe hỏa nhằm vận chuyển khí cụ, nguyên vật liệu, điều phối các đơn vị quân đội; điện lực và than đá cần thiết để phát triển công nghiệp; khai thác quy mô canh nông - lâm thủy sản nhằm gia tăng dự trữ lương thảo của quân đội, tránh nạn đói trong quá khứ giúp tăng dân số để tăng quân, và sau hết khuếch trương xuất cảng trả vốn vay ngân hàng.

Năm 1878, chính phủ ra luật trái phiếu, bắt buộc dân Nhật phải mua công khố phiếu dài hạn với lãi suất thấp nhằm tài trợ tuyến đường xe hỏa Tokyo-Kobé, là một hình thức bắt buộc hy sinh ― để xây dựng hạ tầng cơ sở. Tuy khá gần với khái niệm "dân quyền" và "nghĩa vụ" của Gneisenau, sự hy sinh của dân chúng Nhật cao hơn mức ghi trong hiến pháp. Tiêu biểu là để có quyền chọn dân biểu của mình, mỗi cử tri phải mua lá phiếu với giá 15 yen để bỏ vào thùng phiếu. Cử tri có nghĩa vụ phải đến phòng phiếu nhưng muốn có dân quyền phải góp thêm tài chánh.

Sự san hòa hy sinh này vừa mang tính chất lý tưởng, vừa cụ thể, vừa áp đặt từ quyết tâm của thượng tầng.

Một khía cạnh khác của tinh thần Đại hòa còn nằm trong cách Minh Trị đã ân xá phó tổng tài hải quân Takeaki Enomoto, đã theo sứ quân sau cùng Tokugawa Yoshinobu làm phản. Sau khi dẹp yên, Minh Trị đã trao cho Enomoto chức phó đô đốc rồi bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản. Vì khả năng tổ chức của Enomoto, mà cũng vì muốn tránh phân ly, cần hợp sức của toàn dân.

Bài học canh tân nhật Bản, trước nhất là bài học phải cải tổ cấu trúc thể chế-xã hội để có thể cải cách toàn diện. Các thiệt hại cùng quyền lợi phát sinh phải chia đều cho công chúng. Đối với Quân đội Nhân dân, tinh thần Đại hòa có thể hiểu giản dị là đi tìm đồng thuận xã hội để đạt sức mạnh hiệp nhất.

5. Chiến lược canh tân

Các sử gia liệt kê 4 nguyên nhân thành công của Nhật Bản: Quyết tâm canh tân từ thượng tầng, chiến lược thích ứng, khả năng tiếp thu và vận dụng kỹ thuật Tây phương. Sau hết: bản sắc ái quốc, kỷ luật và tính hiếu kỳ của dân tộc Nhật làm điểm tựa cho Minh Trị.

Trong 4 nguyên nhân thành công kể trên, dân Việt có thể tự hào sở hữu hai thành tố: Khả năng học tập rồi áp dụng kỹ thuật Tây phương và bản sắc ái quốc cùng tính hiếu kỳ du nhập những đổi mới. Còn kỷ luật? Kỷ luật hay không là do kỷ cương nhà nước. Muốn một dân tộc kỷ luật thì nhà nước phải kỷ luật. Và muốn một dân tộc hùng cường thì nhà nước phải có hùng khí. Yếu kém quyết tâm và yếu kém kỷ cương ở thượng tầng quốc gia Việt Nam là nguyên nhân chính làm chậm phát triển quốc gia này.

Tể tướng Bismarck, trong những ngày cực thịnh của đế chế Phổ, rao giảng đức tin: Ngoại giao là vũ khí mạnh nhất của quân đội, trong điều kiện quân đội đó phải có thực lực để tiếng nói ngoại giao có trọng lượng, trường hợp quân đội chưa đủ mạnh, thế chiến lược của địa lý phải được khai thác để phủ dụ các tham vọng bằng chính sức mạnh của các tham vọng đối phương. Bismarck, bậc thầy của các hiệp ước, đã đi vào lịch sử Đức ở vị thế của một tể tướng giỏi nhất.

Đế quốc Phổ là một nền Quân chủ Tuyệt đối. Nhật Bản dưới triều Minh Trị cũng là một nền Quân chủ Tuyệt đối. Nhật Bản đã sao chép hiến chương quân chủ Phổ mà không phải hiến chương quân chủ Anh. Các thủ tướng Nhật từ Hirobumi Ito, Kiyotaka Kuroda đến Aritomo Yamagata đã theo sát Bismarck. Vấn đề an ninh đặt ra tức khắc: Phải có tấm khiên chắn trước khi lưỡi kiếm samourai được hiện đại hóa có thể vung lên lần nữa. Đế quốc Anh mà sự lớn mạnh của đế chế Phổ trở nên một mối lo, không muốn nhìn thấy hải quân Nga khống chế Thái Bình dương. Hải quân Anh đủ sức hủy diệt riêng rẻ hải quân Phổ, Pháp, Nga, nhưng không đủ sức vừa phân chia ở Thái Bình dương và Đại Tây dương, vừa đương đầu với liên hiệp các hải quân đế quốc. Nhật Bản trở thành một đối trọng cần thiết ở Viễn Đông. Liên minh với Nhật Bản có nghĩa hãm đường lan ra biển lớn của hải quân Nga từ căn cứ Hải Sâm Uy (Vladivostok). Vừa kềm chế hải quân Pháp đã vào Đại Nam. Vừa giảm ảnh hưởng của Tây Ban Nha từ Phi Luật Tân và cắm mốc đồng minh Anh trên đất Nhật Bản đối với Hoa Kỳ. Đế chế Phổ chỉ còn lại đầu cầu Thanh Đảo để nhìn ngắm, không đáng lo. Hiệp ước hỗ tương hàng hải và liên minh hải quân Anh-Nhật sẽ là viên gạch nền tảng trong chiến lược canh tân Nhật Bản. Các đế quốc Pháp, Nga, Phổ, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, tuy chậm trễ, đều nhìn thấy vị trí chiến lược của Nhật. Nhưng để lao vào Nhật Bản, Pháp cần bình định Đại Nam mà ở vào thời điểm 1868-1870 vừa chiếm được lục tỉnh Nam kỳ khiến đại thần Phan Thanh Giản phải quyên sinh đã là hết sức vì trên chiến trường Âu châu đại binh Phổ của thống chế Moltke đã bắt đầu gây chiến. Không thể lao vào Nhật Bản, Pháp bắt buộc phải mua chuộc bằng cách ký các thương ước, thỏa ước, gửi kỹ sư giúp Nhật Bản hầu giảm "sự thôn tính tinh thần" của Anh, với hy vọng trong tương lai sau khi giải quyết Phổ, có thể tách Nhật ra khỏi quỹ đạo Anh để trở về quỹ đạo Pháp. Hòa Lan tự biết sức không thể tranh giành với Anh, Pháp, chọn con đường giao thương bán vũ khí, tàu chiến, thương thuyền để kiếm lợi. Tây Ban Nha đã kiệt sức. Hoa Kỳ, đứng trước hiệp ước liên minh Anh-Nhật quyết định chọn Phi Luật Tân làm thuộc địa vì giao chiến với Tây Ban Nha vẫn dễ dàng hơn với Hải quân Hoàng gia Anh cực kỳ hùng mạnh. Phổ, hãy còn dồn hết nỗ lực giành lại Alsace và Lorraine, cố gắng thu phục Nhật bằng cách gửi các phái bộ quân sự cố vấn, tân trang và huấn luyện, trong cùng mục đích với Pháp lôi kéo Nhật Bản thành đồng minh.

Thế giới đã diễn ra như vậy và Nhật Bản đã sáng suốt nhìn thấy để trục lợi từ các tranh giành kình chống giữa các đế quốc. Các minh ước, thương ước, thỏa ước, hiệp ước chồng chéo càng củng cố vị trí trung lập của Nhật Bản cho đến 1894. Phương châm của Otto von Bismarck: "Khối lượng các hiệp ước phải đem đến sức mạnh thay vì ràng buộc tay chân" đã được các thủ tướng Nhật thực thi.

Vương triều Nguyễn, không biết đến Bismarck, đã đánh mất nhiều cơ hội.

Năm 1804, hoàng gia Anh cử Sir Roberts làm sứ thần mang phẩm vật và quốc thư dâng vua Gia Long xin thiết lập ngoại giao. Năm 1831, Hoa Kỳ xin đề cử Shilluber làm tổng lãnh sự tại Huế. Năm sau, phái đoàn của Edmund Robert và Georges Thompson đến Trà Sơn trình quốc thư, hy vọng ký kết một hiệp ước song phương. Quốc thư không ghi rõ danh hiệu hoàng đế Đại Nam, khiến vua Minh Mạng hạ bút phê: "Bất tất đầu đệ.", có nghĩa văn thư thiếu chính danh, không cần đệ lên ngự lãm. [Đại Nam Thực lục Chính biên, dẫn theo sử gia Phạm Văn Sơn, Quân dân Việt Nam chống Tây xâm]

Dưới triều Thiệu Trị vào tháng 10-1847, toàn quyền Anh tại Hương Cảng John Davis, cùng hai chiến hạm đến cửa Hàn trình quốc thư của nữ hoàng Victoria muốn lập thương điếm tại Đà Nẵng, đề nghị liên minh chống Pháp hoàng Louis Philippe ở Á châu. Cung đình Huế từ chối không cho John Davis diện kiến vua Thiệu Trị. Đến triều Tự Đức, nhà Nguyễn đánh mất những cơ hội cuối cùng khi khước từ các điều trần của các trung thần Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Điều, Nguyễn Hiệp, Lê Đĩnh, Phan Liêm, Bùi Viện mà ngay từ 1864 các sứ thần này sau khi đi sứ Hương Cảng, Xiêm La, Pháp, Mỹ trở về đã xin mở cửa thông thương và liên hiệp tìm sức mạnh. Năm 1868, tức niên đại Tự Đức thứ 21, hoàng đế Tự Đức khước từ phê duyệt lá sớ của Đinh Văn Điền quê ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, xin cải cách huấn luyện binh sĩ, khai mỏ bạc, làm tàu hỏa, bỏ lệnh cấm nghiên cứu binh thư, thăng thưởng đúng đắn và giảm sưu dịch cho lính tráng. Không đầy sáu năm sau, Françis Garnier hạ thành Hà Nội.

Chiến tranh đã luôn diễn ra bằng các động thái chính trị trước khi tiếp nối bằng vũ lực. Mà vũ lực chỉ xảy đến sau khi một phía thất bại chính trị. Chính phủ Việt Nam hôm nay đã bắt đầu các minh ước với Ấn Độ nhưng hãy còn quá chậm và quá ít, để thực sự xem là đang vận dụng đối sách của Bismarck. Liên minh với các quốc gia vòng đai Thái Bình dương và tìm thêm nguồn trang bị quân đội từ Do Thái và Tây Âu phải là quốc sách trong mục tiêu kềm hãm Trung Hoa.

Niên đại Tự Đức thứ 21, tức năm 1868, khi Đinh Văn Điền dâng sớ cũng là lúc Minh Trị đăng quang. Canh tân Nhật Bản diễn ra khác hẳn: Nhiều thế hệ sĩ quan ưu tú như Heihachiro Togo, Isoroku Yamamoto, các thủy sư đô đốc tương lai thắng trận Đối Mã và Trân Châu Cảng, sang tu nghiệp ở Hàn Lâm viện Hải quân Anh. Ngược lại, các đề đốc Douglas rồi Willan sang Nhật mở các trung tâm huấn luyện hoa tiêu và thủy thủ. Phía Phổ, thống chế Moltke gửi các sĩ quan Phổ qua Nhật để giám sát các khóa đào tạo bộ binh, cũng như nhiều sĩ quan lục quân Nhật theo học tại các học viện Phổ.

Liên minh Anh-Nhật đưa đến việc Anh giúp xây phân xưởng Kawasaki và khu công nghiệp Ishikawajima-Harima; thỏa ước Nhật-Phổ giúp kiến tạo ngành luyện kim do xưởng thép danh tiếng Krupp, chuyên đúc đại bác cho quân đội Phổ, đứng ra quy hoạch và trang bị. Năm 1870, hải quân công xưởng Mitsubishi ra đời và ngay tức khắc sao chép cách thức chế tạo thủy lôi cùng mìn đại dương. Một trong những đặc điểm của các hợp đồng đầu tư kỹ nghệ này còn nằm trong điều khoản bắt buộc các đối tác, bên cạnh phân xưởng, phải mở lớp đào tạo chuyên viên và các lớp huấn nghệ cho công nhân cũng như thu dụng kỹ sư bản xứ. Một hình thức chuyển giao kỹ thuật tuyệt đối, có thời hạn và trong điều kiện. Đặc điểm khác: Tất cả các công trình đầu tư vốn nước ngoài nếu do ngoại quốc xây cất, Nhật Bản vẫn sở hữu toàn bộ chủ quyền, từ đất đai đến nhà máy, các tập đoàn đầu tư thu lợi duy nhất từ khai thác. Các đặc điểm này do Hội đồng Trưởng lão Genro kiến nghị chính phủ thi hành, trước khi quốc hội Kokkai ra đời biểu quyết các quốc vụ.

Trong lĩnh vực tài chánh, Nhật Bản vận dụng một công cụ của kinh tế tư bản mà triều đình Huế không biết đến: Hệ thống ngân hàng. Nếu vào năm 1870, hai công trình hỏa xa Tokyo-Yokohama và Kobé-Osaka phải vay mượn từ Âu châu và do chính các ngân hàng Âu châu quản trị chi trả, chưa đầy ba năm sau, ngân hàng Daishi đầu tiên của nước Nhật, thành lập vào năm 1873, sẽ đứng ra đảm trách tất cả vay vốn, chi thu, rồi quản trị thành công luật trái phiếu 1878 bắt toàn dân ký gửi công khố phiếu giúp tài trợ tuyến xe hỏa Tokyo-Kobé. Trong 20 năm, 7200 cây số đường xe lửa sẽ do ngân hàng này triển khai tài chánh.

Tuy nhiên, tất cả những thành tựu kể trên chỉ có thể đem đến một nước Nhật hiện đại mà chưa bảo đảm sức mạnh thật sự của Quân đội Thiên hoàng. Để nắm chắc sức mạnh này, cần một học thuyết chiến tranh mũi nhọn mà Clausewitz đã định nghĩa: phải song hành với chiến lược kỹ nghệ, thiếu chiến lược này sẽ trở thành một tư duy không thể xác. Kỹ nghệ càng tăng tiến, học thuyết phải càng tinh vi.

Khi gửi các sĩ quan lục quân sang các học viện chiến tranh Kriegschule, do Scharnhorst sáng lập nhằm quảng bá tư tưởng Clausewitz, theo thỏa thuận ký kết với phái bộ của tướng Jacob Meckel đại diện Moltke, một cách trực tiếp, quân đội Nhật được uốn nắn theo suy nghĩ Clausewitz. Cùng lúc tại các Hàn Lâm viện Hải quân Anh, các sĩ quan hải quân Nhật bám sát các học thuyết của Nelson, mà Horatio Nelson, với uy danh của thủy chiến Trafalgar, từng yêu sách: Giữa một chiến hạm trọng tải nặng và hai chiến hạm trọng tải kém nặng, hai chiếm hạm chiếm ưu thế, với điều kiện hỏa lực không quá chênh lệch. Chiến lược võ trang của Nhật Bản sẽ không ra ngoài nhãn quan của Clausewitz và Nelson.

Đi sâu vào chi tiết: Khi đặt đóng các tuần dương hạm trong các phân xưởng Anh, dựa trên khuôn mẫu chiến thuyền Anh, Nhật Bản đã thương lượng sửa đổi khá nhiều chi tiết, đặc biệt trong concept, cấu trúc tam giác bọc thép―hỏa lực―vận tốc, làm nên sức mạnh của một chiến hạm. Có nghĩa, vừa trên khuôn mẫu Anh, vừa theo đơn đặt hàng của Nhật, tức theo nhu cầu và theo học thuyết chiến tranh trên biển của Nhật, theo phương thức "kỹ nghệ song hành chiến thuật" của Moltke kế thừa Clausewitz.

Học thuyết Nelson đưa đến Capital ships ― đúc tàu trọng tải không quá nặng, do vậy không bọc thép dầy, để tăng vận tốc. Ngược lại, hải quân Phổ ưu tiên che chắn và hỏa lực, đưa đến Panzerschiff ― hải vận chậm nhưng là cả một khối thép trên biển mà tiêu biểu là hai thiết giáp hạm Chen-Yuen và Ting-Yuen mà Mãn Thanh mua của Phổ. Học thuyết Nhật Bản, khi xác định kẻ thù trước mắt là Trung Hoa, đã tìm cách ứng phó: đúc và sắm nhiều tuần dương hạm hơn Mãn Thanh rồi dùng các tuần dương hạm này vây hai soái hạm Chen-Yuen và Ting-Yuen mà vì gia tốc chậm không thể triển khai đội hình nhanh bằng Nhật Bản. Hải quân Nhật giảm thiểu tối đa lớp vỏ bọc thép để tăng đường kính đại bác lên đến 255 ly so với 315 ly của Mãn Thanh. Với trọng tải tuần dương hạm trung bình năm ngàn tấn, kích cỡ đại bác này là một kỷ lục, vì trước thời kỳ Dreadnought.

Thủy chiến Hoàng hải chứng minh Panzerschiff khó đánh đắm, vì cả hai thiết giáp hạm Chen-Yuen và Ting-Yuen tuy trúng nhiều đại bác vẫn không chìm. Thủy chiến này đặc biệt chứng minh sự pha trộn hỏa lực của Panzerschiff với vận tốc của Capital ships, trong học thuyết Nhật Bản, chiếm ưu thế: Tám tuần dương hạm Mãn Thanh đều bị đánh chìm. Clausewitz, Moltke, rồi Nelson đã trao cho Nhật Bản định lý canh tân quân đội.

Anh và Phổ không phải là các đế quốc duy nhất hỗ trợ hiện đại hóa Nhật Bản. Kể từ 1886 đến 1890, Louis-Émile Bertin với một ê-kíp trên 300 kỹ sư Pháp xây cất các công xưởng và quân cảng Sasebo, Kure, Yokosuka. Louis-Émile Bertin giữ chức cố vấn tối cao của Minh Trị, gần như một thứ trưởng hải quân với quyền hạn quyết định, quy hoạch và tổ chức mọi thứ. Các kỹ sư Pháp, dưới quyền Bertin, sẽ chỉ huy công nhân Nhật đóng những chiến hạm nặng đầu tiên ngay trên đất Nhật. 90 năm sau Gia Long, Minh Trị tìm ra cho mình một Bá Đa Lộc. 90 năm trước Minh Trị, Đại Nam đã có cơ hội này.

Kinh nghiệm Nhật Bản là một la bàn định hướng:

- Đa dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí, không tùy thuộc vào một quốc gia nào để có thể giữ vững độc lập chính trị về sau. Quân đội Nhân dân phải đủ can đảm từng bước thay thế vũ khí Trung Hoa vì không gì nguy hiểm bằng sử dụng vũ khí của kẻ thù khi chính kẻ thù có khả năng chế tạo và cải tiến vũ khí đó. Không duy nhất mua vũ khí mà phải sản xuất được vũ khí, qua thuê mướn kỹ sư thế giới, vừa giúp kỹ sư, sinh viên, công nhân Việt Nam học nghề.

- Tập trung vốn vay vào việc xây cất công xưởng trước việc xây cất các đô thị cao cấp. Hy sinh của dân chúng phải được vận dụng thích đáng. Ký tối đa các hiệp ước với các quốc gia hỗ trợ canh tân. Đặt ra lịch trình công nghiệp nặng phải đạt được trước khi kẻ thù trở nên quá mạnh. Sau nữa, xác định rõ rệt đối thủ quân sự cần kềm hãm và khu vực phải đương đầu, để học thuyết chiến tranh tương thích.

- Nếu ở cuối thế kỷ 19 thiết giáp hạm là vũ khí tuyệt đối, vào đầu thế kỷ 21, một tân không lực chiến thuật tầm xa có thể kiểm soát được biển Đông.

- Sau hết và quan trọng nhất, thâu thập tri thức thế giới.

Với công lao mở mang bờ cõi, nhà Nguyễn có thể được giảm khinh vì phương tiện thông tin yếu kém trong thế kỷ 19. Với công lao kháng Pháp, Chính quyền Cách Mạng sẽ khó được giảm khinh nếu không hành động sau bài học nhà Nguyễn và Minh Trị.

6. Chủ nghĩa quốc gia

Tể tướng Bismarck trong suốt thời gian cầm quyền đã củng cố tối đa quân đội để có thể áp đảo trên bàn đàm phán, ký nhiều hiệp ước chồng chéo mà mỗi một hiệp ước đem đến thêm cho đế chế Phổ thời gian cần thiết để tăng thêm cực thịnh. Mỗi quốc gia Âu châu đều vừa lo ngại, vừa muốn tựa vào sức mạnh quân sự Phổ. Với mỗi quốc gia Âu châu, Bismarck hứa hẹn hòa bình, bảo vệ, vừa chuẩn bị chiến tranh ngay cả với quốc gia vừa ký kết hiệp ước. Tài năng của Bismarck là đã giữ cho thế chiến không bùng phát, quan hệ không bao giờ đứt với Anh, Áo, Nga, Thổ, các đối thủ tranh giành ảnh hưởng. Không thế chiến, nhưng Bismarck áp đặt lên Âu châu một nhãn quan Phổ, đến mức "Âu châu Bismarck" đã trở thành thành-ngữ. Hồ Cẩm Đào đang áp dụng triệt để phương pháp Bismarck.

Tất cả những công cuộc canh tân và hiện đại hóa quân đội, về lâu dài đều dẫn đến chiến tranh. Trường hợp Nhật Bản là một điển hình, ngay khi sở hữu một hạm đội viễn dương đã khai chiến với Trung Hoa để giành lấy Cao Ly. Trường hợp Phổ vẫn là một điển hình: Sau khi canh tân, quân đội Phổ khai chiến với Pháp để giành lại Alsace và Lorraine, một thứ Lưỡng Quảng của Phổ. Dân Việt có thể phản chiến hay yêu chuộng hòa bình, nhưng nếu các dân tộc khác không phản chiến và không yêu chuộng hòa bình, dân Việt sẽ rơi vào thảm cảnh bị khuất phục. Trong quá khứ, nhà Nguyễn mỗi một lần cầu hòa là một lần cắt đất. Lịch sử đã diễn ra như vậy. Tương lai cũng sẽ tiếp tục diễn ra như vậy, tuy có thể không ở hình thức chiến tranh quy ước, mà bằng xâm lấn kinh tế, chính trị và bằng tước đoạt quyền lợi giao thương.

Viễn cảnh một đế quốc Việt Nam khai chiến để giành lại Lưỡng Quảng quá xa vời, trong lúc cận ảnh Hán thuộc quá đen tối để cho phép dân Việt phản chiến mà không yêu sách chính quyền canh tân. Trước câu hỏi: "Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?" Câu trả lời giản dị: Không bao giờ đủ. Và cần gọi một cách chính danh là chủ nghĩa quốc gia, thay vì chủ nghĩa dân tộc, khi dung từ "dân tộc" ở đây mang âm hưởng vị kỷ. Không thánh chiến, không kỳ thị, và cũng không lấn áp các dân tộc khác, chủ nghĩa quốc gia Việt Nam xây dựng trên nền tảng của sự tồn vong của chính quốc gia này. Vì lòng ái quốc vẫn là sức mạnh duy nhất của dân tộc này.

Dung nạp khái niệm "Phản chiến", hay "Thế giới Đại đồng", hoặc "Hòa bình Xanh" sẽ làm suy yếu quốc gia Việt Nam đang cần hiện đại hóa quân đội. Quốc gia này chưa đạt đến khả năng phòng vệ của Tây phương để cho phép an nhiên nhìn ngắm hòa bình.

Lịch sử đã trưng bày đậm nét khả năng bất lực của Hội Quốc liên, của Liên Hiệp quốc và tính bất nhất của các nền dân chủ Tây phương. Lịch sử đang lập lại sức bành trướng của Thiên triều. Quốc sách của Việt Nam hôm nay không thể khác quốc sách của Minh Trị: Canh tân đất nước để có thể áp đặt sự hiện diện quốc gia trước đối phương và canh tân quân đội để đảm bảo cho sự hiện diện này một uy thế, cũng để có một lá chắn sau cùng sau khi tất cả các phương thức ngoại giao thất bại. Quân đội trong lịch sử nhân loại đã luôn là điều kiện sống sót của một dân tộc.

Lịch sử là kho tàng của canh tân.

Trần Vũ
21 tháng 4-2009
Thư mục sách tham khảo

Ambroise Fourcy Traité de l'artillerie, par le général Scharnhorst, accompagné d'observations et d'une notice historique sur l'auteur par le capitaine d'artillerie Mazé, Nxb J. Corréard, 1840
Benoist Méchin
Histoire de l’armée allemande, Nxb Albin Michel, 1966
Bernard Brodie
La stratégie navale, Nxb Payot, 1947
Carl von Clausewitz
De la guerre, Edition présentée par Gérard Chaliand, Nxb Perrin, 2006
Carl von Clausewitz
De la guerre, Traduction intégrale par Denise Naville, Nxb Editions de Minuit, 1992
Carl von Clausewitz
De la révolution à la restauration, Ecrits et lettres, Nxb Gallimard, 1976
Carl von Clausewitz
Campagne de 1815 en France, Nxb Ivréa, 1973
Donald Macintyre
Jutland, La dernière grande bataille navale, Nxb Presses de la Cité, 1958
Edouard Driault
La question d'Extrême-Orient, Nxb Félix Alcan, 1908
Emil Ludwig & A. Lecourt
Bismarck, Nxb Payot, 1984
Frank Thiess
Tsoushima, Nxb Flammarion, 1956
Frédéric Mauro
L'Expansion européenne 1600-1870, Nxb Presses universitaires de France, 1967
Friedrich Wilhelm von Hohenzollern
Mémoires de Guillaume II, Nxb Agence Radio, 1922
Georges Blond
L’Amiral Togo, Nxb Librairie Arthème Fayard, 1958
Georges Lefèbvre
Napoléon, Nxb Presses Universitaires de France, 1965
Hans von Seeckt
Pensées d'un soldat, Nxb Éditions du Cavalier, 1932
Helmuth Karl Bernhard von Moltke
Mémoires du maréchal, Nxb Librairie H. Le Soudier, 1892
Henri Welschinger
Bismarck, Nxb Ancienne librairie Germer Baillière et cie Félix Alcan, 1900
Henry Bidou
Histoire de la grande guerre, Nxb Gallimard, 1936
Henry Houssaye
1815, Wellington, Gneisenau, Nxb Perrin & Cie, 1898
Hiroyuki Agawa
Yamamoto, Chef de guerre malgré lui, Nxb Editions France-Empire, 1982
Hubert F.
La guerre navale, Mer du Nord - Mers lointaines, Nxb Payot, 1916
Jacques Boudet & Bernard Druène
Histoire universelle des Armées 1700-1914, De Pierre Le Grand à Moltke, Nxb Laffont, 1966
Jean Thiry
Ulm – Trafalgar – Austerlitz, Nxb Editions Berger-Levrault, 1962
Jean Trogoff
Les grandes dates de la guerre sur mer, Nxb Imprimerie Bretonne, 1950
Jean-Paul Bled
Bismarck: De la Prusse à l'Allemagne, Nxb Alvik Editions, 2005
Maxime Joseph Marie Sauvage
La guerre sino-japonaise 1894-1895, Nxb L. Baudoin, 1897
Otto von Bismarck
Pensées et souvenirs, par Joseph Rovan, Nxb Calmann-Lévy, 1984
Paul Chack & Jean Jacques Antier
Histoire maritime de la première guerre mondiale, Nxb France-Empire, 1970
Paul Étienne Antoine Roques
Adversaires prussiens de Napoléon: Blücher-Scharnhorst-Gneisenau, Nxb Berger-Levrault, 1928
Paul Matter
Bismarck et son temps, Nxb Félix Alcan, 1905
Phạm Văn Sơn
Quân dân Việt Nam chống Tây xâm 1847-1945, Quân sử tập 3, 1971, Đại Nam tái bản, Cali
Philippe Héduy
Histoire de L'Indochine, La conquête 1624-1885, Nxb Henri Veyrier, 1983
Philippe Héduy
Histoire de L'Indochine, La Perle de L'empire 1624-1954, Nxb Albin Michel, 2002
Pierre Renouvin
La question d’Extrême-Orient 1840-1940, Nxb Librairie Hachette, 1947
Pierre Renouvin
Histoire des relations internationales‎, Le XIXè Siècle, Nxb Librairie Hachette, 1954
Raymond Aron
Penser la guerre, Clausewitz, Nxb Gallimard, 1976
Sebastian Haffner, Wolfgang Venohr, Isabelle Hildenbrand & Michel Tournier
Profils prussiens: Frédéric II, Neithardt von Gneisenau, Otto von Bismarck, Helmuth von Moltke, Nxb Gallimard, 1976

12 THÁNG ANH ĐI