25 thg 2, 2009

Hoa Kỳ & Thế Kỷ 21

Liên Bang Nga Lang Bang

...nếu lãnh đạo Nga tính lầm lần này thì hết đất lùi...
Một Mùa Hung Hãn... Rồi Thôi
Tổng thống Barack Obama sẽ nhức đầu với sự trỗi dậy của Liên bang Nga, nhưng Hoa Kỳ sẽ sớm vượt qua sự hung hãn một mùa đó. Đối thủ của Hoa Kỳ vào thế kỷ 21 không phải là nước Nga và Chiến tranh lạnh hồi hai sẽ nguội dần....
Ngay giữa cuộc tranh cử tổng thống năm 2008, khi Chính quyền Bush cố rút chân khỏi Iraq, Liên bang Nga đã đi nước cờ đầu bằng cách tấn công Georgia, ngày tám tháng Tám 2008. Vì cuộc tranh cử đầy bất ngờ bên trong, Hoa Kỳ chưa có đối sách rõ rệt với cuộc tổng phản công của Nga tại Đông Âu. Cuộc khủng hoảng tài chánh bùng nổ tại Mỹ giữa tháng Chín càng mở ra cơ hội cho Thủ tướng Vladimir Putin của Liên bang Nga có thể lấn lướt, nên ông bước qua đợt hai là dùng khí đốt làm võ khí bắt bí Cộng hoà Ukraine và các nước Âu Châu mua năng lượng của Nga.
Sau khi đắc cử Tổng thống, Barack Obama vào tòa Bạch Cung với một chồng hồ sơ ưu tiên. Bên trong là cấp cứu hệ thống tài chánh ngân hàng và kích hoạt cho kinh tế ra khỏi suy trầm. Bên ngoài là thanh toán chiến trường Afghanistan (A Phú Hãn), giải quyết mâu thuẫn với Iran và hoá giải nguy cơ xung đột giữa Israel và Palestine. Những ưu tiên đối ngoại ấy đều liên hệ tới Liên bang Nga và các nước Âu Châu và lập tức thách đố chủ trương hợp tác giữa Hoa Kỳ và các nước Âu Châu mà Obama đã đề ra khi tranh cử.
Giờ đây, với ấn tín Tổng thống trong tay, Obama hiểu ra những chọn lựa bất toàn về đối ngoại của Chính quyền Bush và ông bắt đầu đổi giọng. Nghĩa là hành xử hai mặt như Bush. Những phát biểu và tiếp xúc của Phó Tổng thống Joe Biden tại Hội nghị An ninh Munich vào tuần đầu tháng Hai (6-8 tháng Hai) và của Ngoại trưởng Hillary Clinton sau đó có cho thấy điều ấy, mà lại ít được dư luận Hoa Kỳ quan tâm vì quá chú ý vào vấn đề kinh tế trước mặt.
Chúng ta sẽ duyệt qua những thách đố của Nga trước khi tìm hiểu về nguyên nhân và về khả năng tung hoành của Nga hay ứng phó của Mỹ trong thập niên tới.
****
GÂN GÀ A PHÚ HÃN
Đúng một tháng sau vụ khủng bố 9-11, Hoa Kỳ mở chiến dịch tấn công A Phú Hãn để lật đổ chế độ Taliban ở Kabul và truy lùng đầu não của tổ chức khủng bố Al-Qaeda. Chiến dịch được hậu thuẫn - chính danh - của quốc tế, Liên hiệp quốc và các nước Âu Châu, với mũi nhọn là Minh ước Bắc Đại Tây dương NATO do Hoa Kỳ thực tế yểm trợ và điều động. Liên quân Mỹ-NATO có 60 ngàn quân, phân nửa là các đơn vị tác chiến của Mỹ.
Chiến dịch chỉ có mục tiêu truy lùng và tiêu diệt Al-Qaeda với sự hỗ trợ của một chính quyền mới tại Kabul do Tổng thống Hamid Karzai lãnh đạo nhờ sự yểm trợ quốc tế. Với quân số quá ít và ảnh hưởng thu hẹp của Chính quyền Karzai tại Kabul, mục tiêu của chiến dịch không thể là cải tạo xã hội và xây dựng quốc gia hoặc phát huy dân chủ cho A Phú Hãn - như tại Iraq.
Ngày nay, hơn bảy năm sau, Al-Qaeda bị tê liệt nhưng lực lượng Taliban vẫn còn và Liên quân Mỹ-NATO bị lúng túng trong hình thái chiến tranh du kích, phá hoại và khủng bố.
Trong khi ấy, đồng mình chiến lược của Hoa Kỳ cho chiến trướng A Phú Hãn là Pakistan lại mấp mé khủng hoảng vì Chính quyền trung ương tại Islamabad và cả quân đội vẫn bị các thế lực Hội giáo cực đoan lũng đoạn bên trong và phải thỏa hiệp với các tộc trưởng Hồi giáo ở hai khu vực Tây-Bắc tiếp giáp với A Phú Hãn ở bên ngoài. Khu vực núi đèo hiểm trở ấy là hậu cứ của Taliban, vùng lẩn trốn của đầu não Al-Qaeda và các bộ tộc Hồi giáo.
Từ khi Tổng thống Pervez Musharraf phải rút lui và Pakistan bầu lên một chính quyền mới, Islamabad rút khỏi chiến lược hợp tác nước đôi với Mỹ. Vụ khủng bố Mumbai tại Ấn Độ ngày 26 tháng 11 càng khiến Islamabad phải đối phó với một mối nguy ưu tiên hơn: cuộc phản công của Dehli.
Kết cuộc là Liên quân Mỹ-NATO mất đường tiếp vận cho chiến trương A Phú Hãn, chủ yếu là qua hải cảng Karachi lên phía Bắc. Trong khi ấy, Taliban và các tộc trưởng Hồi giáo tại biên vực A Phú Hãn và Pakistan đều vững tin vào một quy luật lịch sử: như Đế quốc Anh rồi Đế quốc Xô viết, Hoa Kỳ rồi cũng phải rút khỏi A Phú Hãn. Họ không thấy lý do gì mà phải hy sinh đồng đạo là Al-Qaeda.
Khi tranh cử, Barack Obama đã đề ra một ưu tiên chiến lược là thanh toán hồ sơ A Phú Hãn. Bây giờ, ông mới nhá phải cái gân gà. Ông đã duy trì hệ thống lãnh đạo quân sự cũ của Bush là Tổng trưởng Quốc phòng Robert Gates và Đại tướng David Petraeus (người hùng của chiến trường Iraq nay là Tư lệnh Quân khu Trung ương CENTCOM, chỉ huy cả hai chiến trường Iraq và A Phú Hãn). Ôbama chủ trương tăng viện cho A Phú Hãn và dù chẳng nói ra vẫn có thể áp dụng chiến lược dồn quân đánh tới như vị tiền nhiệm đã thực hiện tại Iraq. Mục tiêu là gây đủ sức ép quân sự với lực lượng Taliban hầu tiến tới một giải pháp chính trị là tạo thế hợp tác giữa Taliban và chế độ Karzai ở Kabul, miễn là phải diệt cho sạch tàn dư của Al-Qaeda.
Muốn gây đủ áp lực quân sự, ít ra Hoa Kỳ và NATO phải tăng gấp rưỡi quân số tại A Phú Hãn, từ 60 lên tới 90-95 ngàn quân - so với 165 ngàn quân tại Iraq trên cao điểm hồi 2007. Và phải tìm đường tiếp vận khác để thay thế ngả Karachi lên Kandahar hay ải Khyber Pass từ Pakistan vào Á Phú Hãn. Các ngả tiếp vận điền thế ấy có thể là các nước Cộng hoà Trung Á xưa kia nằm trong quỹ đạo Liên Xô, hay, từ hướng Tây vào A Phú Hãn, là Iran.
Ta không quên, lãnh thổ A Phú Hãn tiếp giáp với - vòng theo chiều kim đồng hồ - Iran, Turkmenistan, Uzbekistan, Tajikistan, Trung Quốc, và Pakistan ở phía Đông và phía Nam. Ở mạn Bắc của ba nước "stan" nói trên còn có Kyrgyzstan và Kazakhstan, là năm nước Cộng hoà Trung Á xưa kia là chư hầu của Liên bang Xô viết, nay đã độc lập nhưng vẫn chưa ra khỏi quỹ đạo của Nga.
Vì vậy, Obama gặp sự thách đố của Liên bang Nga.
****
THÁCH ĐỐ CỦA NGA
Khi Hoa Kỳ mở chiến dịch A Phú Hãn, nước Nga của Vladimir Putin có hợp tác nửa vời - Putin không quên A Phú Hãn và mối nguy Hồi giáo ngay trong lãnh thổ - và cho phép Hoa Kỳ tạm mượn đường tiếp vận chiến trường A Phú Hãn qua các nước Trung Á. Nhưng nửa vời thôi vì không tin là Hoa Kỳ sẽ chỉ vào A Phú Hãn giải quyết chuyện khủng bố mà có khi sẽ... ở lại luôn, ngay tại miền Nam của lãnh thổ Nga.
Khi Obama ráo riết tìm đường tiếp vận cho A Phú Hãn, đấy là lúc nước Nga nói thách.
Trong khi Obama bước vào Tòa Bạch Cung, Tướng Petreaus mở chuyến công du Trung Á và Nam Á trong tám ngày để nói chuyện về địa dư. Nơi đâu ông cũng thấy con kỳ đà của Nga: ngay sau chuyến đi của Petreaus, Tổng thống Nga Dmitri Medveded bỗng dưng qua đó nói chuyện về năng lượng. Ngẫu nhiên sao, Chính quyền Kyrgyzstan bỗng đổi ý, không cho Mỹ mượn căn cứ không quân Manas nữa vì nghe nói là vừa được Nga viện trợ cho hai tỷ đô la!
Thật ra, với Liên bang Nga thì đường tiếp vận vào A Phú Hãn là chuyện nhỏ, chỉ là vấn đề gai góc cho Obama nên dại gì mà Putin không nói thách. Chuyện lớn nằm ở nơi khác.
Liên bang Nga có một chuỗi yêu sách dằng dặc.
Hoa Kỳ phải chấm dứt kế hoạch thiết lập hệ thống phòng thủ chiến lược ballistic missile defense BMD - lá chắn chặn hoả tiễn Mỹ nói là từ Iran mà Putin cho là nhắm vào Nga. Bush đề nghị kế hoạch ấy bằng dàn "ra đa" dựng tại Cộng hoà Tiệp và hệ thống hỏa tiễn tại Ba Lan. Khi tranh cử, Obama đòi bãi bỏ toàn bộ kế hoạch, nay Ngoại trưởng Clinton cho là nên nghiên cứu lại, không nhất thiết từ bỏ chuyện đó!
Kế hoạch đó lồng trong hệ thống phòng ngự - nhìn từ Nga thì đó là hệ thống tấn công - của Minh ước NATO. Chính quyền Bush đã đề nghị đón nhận Georgia và Ukraine vào NATO, Obama chưa cho biết ý kiến, nhưng Putin thì đòi là không. Rộng lớn hơn vậy, Putin muốn Hoa Kỳ khẳng định là sẽ không đẩy lá chắn NATO tới sát biên giới Nga và không bảo vệ ba nước Cộng hoà Baltic (Latvia, Lithuania và Estonia) ở mạn Bắc. Việc bành trướng NATO về hướng Đông là chủ trương Hoa Kỳ đã theo đuổi từ thời Clinton và Bush 43, sau khi Liên Xô tan rã. Bây giờ, muốn nói chuyện phải quấy tại A Phú Hãn thì Mỹ phải cuốn gói NATO.
Ngoài hồ sơ BMD và NATO, Putin cũng đòi duyệt lại Thòa ước Tài giảm Võ khí Mỹ-Nga (START) sẽ mãn hạn cuối năm nay, lồng trong đó là sự tham dự của Liên bang Nga vào các quyết định chiến lược của Hoa Kỳ tại Âu Châu. Nói cho dễ hiểu: Liên bang Nga phải có tiếng nói về tương lai Âu Châu và NATO, chứ không để Hoa Kỳ tự tiện bành trướng ảnh hưởng sau khi Liên Xô tan rã cuối năm 1991 và nước Nga bị khủng hoảng cho đến 1999.
Nhìn trên đại thể của một tấm bản đồ liên lục địa Âu-Á, Liên bang Nga muốn chinh phục lại ảnh hưởng mà Liên Xô đã mất, từ vùng Baltic phía Bắc xuống khu vực Balkan phía Nam, từ Hắc hải qua biển Caspian, từ vùng Caucasus nằm ở giữa hai mặt biển ấy tới Trung Á, sát với biên giới Trung Quốc.
Cuộc tổng phản công đó của Putin có nghĩa là phân hoá Âu Châu, điểm huyệt NATO và kéo các nước Đông Âu hay Trung Âu xưa kia nằm trong quỹ đạo Liên Xô phải trở lại vị trí trung lập - trong vòng kiềm toả của Nga. Chiến lược kết hợp hành động đa phương giữa Hoa Kỳ và Âu Châu mà Barack Obama đề cao khi tranh cử bỗng trở thành chuyện tào lao. Nhất là khi Nga đã khống chế Georgia, lũng đoạn Ukraine và dùng võ khí năng lượng chặn đứng khả năng chống đỡ của Âu Châu, đứng đầu là Cộng hoà Liên bang Đức. Từ Bắc xuống Nam, ba nước Baltic, Ba Lan, Cộng hoà Tiệp, Slovakia, Hung Gia Lợi, Serbia, Romania và Bulgaria là cá nằm trên thớt.
Hoa Kỳ bị vướng vào vòng liên hoàn, từ Afghanistan qua Nam Âu lên tới biên giới của Đức và - ngoài chuyện kinh tế ở nhà - sự nghiệp Obama sẽ được quyết định ở chuỗi liên hoàn đó. Tương lai Âu Châu cũng vậy.
Mà vì sao Liên bang Nga của Putin lại hung hiểm như vậy?
****
SỰ SỢ HÃI ĐÁNG SỢ
Muốn hiểu ra chuyến ấy, ta cần lạnh lùng nhìn ra những tính toán của Vladimir Putin. Phần lý luận về đạo đức hay chính nghĩa, xin dành cho các chính khách và sự tuyên truyền trong mùa tranh cử. Thực tế không lệ thuộc vào lẽ phù du ấy mà là hậu quả của địa dư và lịch sử. Phần còn lại là tham vọng và sự sợ hãi của con người.
Khác với Hoa Kỳ là một "hải đảo" được bảo vệ bởi hai đại dương bên cạnh hai láng giềng yếu thế, Nga là vùng đất trống, trải dài từ mạn cực Đông của Âu Châu tới tận cùng của Châu Á. Trong thế thủ, Nga thiếu hệ thống phòng vệ của thiên nhiên và trong thế công lại thiếu hệ thống liên lạc của sông ngòi cho vận chuyển. Đấy là chuyện địa dư của một cường quốc đại lục. Chuyện lịch sử: Nga từng bị tấn công nhiều lần từ các bình nguyên chung quanh, nặng nhất là từ hướng Tây, từ Âu Châu - thành tích của Napoléon, Hoàng đế Wilheim Đệ nhị của Đức và Hitler của Đức quốc xã...
Sau Cách mạng tháng 10 năm 1917, Liên bang Xô viết thành hình và lấy thế công làm thế thủ, mà chỉ tồn tại được tới 1989, sau đó là tan rã từ năm 1991. Những gì nước Nga giành được dưới thời Xô viết lần lượt bị bóc sạch.
Tây Đức đã chuộc lại Đông Đức và thống nhất trong Liên hiệp Âu Châu. Ba nước Baltic giành lại độc lập, ngả theo Âu châu và gia nhập NATO, tương tự Ba Lan, Hung Gia Lợi. Cả Tiệp Khắc cũng thế, dù đã chia hai một cách hoà bình. Liên bang Nam Tư thì banh làm nhiều mảnh, mạnh nhất trong Liên bang là Cộng hòa Serbia thì mất Kosovo, ngả theo chế độ dân chủ và chuẩn bị gia nhập Âu Châu... Tại miền Nam khu vực Caucasus, Georgia - quê hương của Stalin - hay Ukraine - quê hương Krushchev - cũng đứng dậy và bay khỏi quỹ đạo của Nga. Nhiều nước Cộng hoà Trung Á cũng suy nghĩ về tương lai đó, với sự khuyến khích của các doanh nghiệp năng lượng... Mỹ.
Nhìn từ nước Nga, những biến động ấy có ý nghĩa sinh tử: việc NATO bành trướng về hướng Đông và các cuộc cách mạng muôn màu tại Georgia, Ukraine hay Serbia là âm mưu thâm độc của Mỹ. Kết quả là Đế quốc Nga co cụm dần trong khi St. Petersbourg hay Moscow nằm cách các đơn vị NATO có vài trăm cây số, còn các vùng trái độn thì có nguy cơ rã thành từng mảnh.
Quả như vậy, ba nước Baltic và các nước Đông Âu cũ nay đã hội nhập vào Liên Âu và NATO. Tại vùng Caucasus, Georgia và Ukraine trở thành đồng minh của Mỹ, và Hoa Kỳ còn lấp ló xuất hiện tại Trung Á, với "lý cớ" là chuyện A Phú Hãn! Lui khỏi khu vực Caucasus, Nga chỉ còn một dàn phòng thủ cuối là bảy xứ Hồi giáo phía Bắc Caucasus, trong đó có Chechnya đòi ly khai và các xứ kia thì tấp tểnh. Khủng bố Hồi giáo không chỉ làm chấn động nước Mỹ mà cũng làm rung chuyển Liên bang Nga.
Đáng sợ hơn thế, dân số Nga cứ giảm dần và còn giảm, từ 145 triệu sẽ chỉ còn chưa đầy trăm triệu trong vài chục năm tới - bằng dân số của Việt Nam! Vladimir Putin kế thừa di sản ấy của Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin. Tối đa thì ông chỉ có mươi năm để xoay chuyền tình hình.
Sau khi cầm quyền, Putin đảo ngược chiến lược kinh tế truyền thống của Nga: ngưng phát triển kỹ nghệ theo mô thức Tây phương mà khai thác tài nguyên, khoáng sản và thương phẩm làm nguồn lợi chính. Dầu thô lên giá là dịp may lịch sử! Dùng nguyên nhiên vật liệu làm lợi thế buôn bán và mặc cả với Âu Châu, Putin kéo Nga ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thời Yeltsin. Trên cái trớn đó, khôi phục lại ảnh hưởng đã mất của Liên Xô để kiểm soát được một vùng trái độn.
Mục tiêu chiến lược là khống chế được ba nước Baltic, giữ Belarus trong quỹ đạo Nga và thu hồi lại Ukraine. Ở vòng ngoài là các quốc gia "thân hữu", hay trung lập: phải khuất phục được các chư hầu cũ của Liên Xô, như Ba Lan, Cộng hoà Tiệp, Slovakia, Hung Gia Lợi, Romania và Bulgaria. Và phải làm được chuyện đó mà không hâm nóng Chiến tranh lạnh, bằng cách khai thác tinh thần sợ chết của Âu Châu và chủ hòa của Hoa Kỳ.
Đấy là lúc Obama đắc cử tại Hoa Kỳ và muốn mặc cả về đường tiếp vận cho A Phú Hãn. Đấy là chuyện của một vài năm tới.
****
CHIẾN TRANH LẠNH TANH
Nhưng, nhìn về dài, vào sâu hơn trong thế kỷ 21, Liên bang Nga có hy vọng gì?
Liên bang Nga đã neo Belarus rất chặt, đã chế ngự Cộng hoà Georgia và đang phá vỡ thế đoàn kết trong nội bộ Ukraine mà không tốn một viên đạn. Võ khí sử dụng là khí đốt và đòn ly gián trong xã hội Ukraine với phân nửa miền Tây thì thân Âu Châu, miền Đông thì thân Nga, và cả hai miền đều đang bị khủng hoảng kinh tế. Đó là thành tích ngày nay.
Nhưng ngày nay, Liên bang Nga cũng không thoát khỏi nguy cơ khủng hoảng khi dầu thô tuột giá, với dự báo trung bình toàn năm 2009 chỉ ở mức 35 đô la một thùng (so với 40 đồng bây giờ thì sẽ còn sụt nữa!) Các ngân hàng của Nga đang cạn tiền vì ngân hàng Tây Âu rút vốn về nước, ngân sách quốc gia bị bội chi nặng và sẽ còn bội chi vì dầu thô sụt giá, hậu quả là đồng Rúp sẽ tiêu chảy.
Dù rằng đây đó đã có nhiều cuộc biểu tình phản đối, Chế độ Putin-Medvedev không lập tức sụp đổ vì vụ khủng hoảng đang xảy ra, nhưng không còn tung hoành được như dự tính. Những đầu tư vào việc cải tiến quân đội từ năm 2000 sẽ chỉ có tột đỉnh kết quả trong năm bảy năm tới - 2015 - mà thôi.
Chỉ một duyệt xét toàn cảnh như vậy, ta thấy rằng lãnh đạo Nga không có quyền lầm lẫn, một chuyện rất khó.
Hoa Kỳ có cả thế lẫn lực và lãnh đạo đã từng lầm lẫn - nhiều lần. Thí dụ chói lọi là lật đổ chế độ Saddam Hussein tại Iraq năm 2003 rồi bần thần suy tính trong ba năm liền trước khi tìm ra và áp dụng chiến lược mới. Trước đấy, Hoa Kỳ cũng đã từng lầm lẫn khi ồ ạt đổ quân vào Việt Nam để chuẩn bị một trận chiến quy ước như đã gặp tại Triều Tiên, rồi leo thang chiến tranh mà không có kết quả. Kết cuộc thì tháo chạy khỏi Việt Nam khiến cộng sản bành trướng ra nhiều nơi... rồi tan tành.
Trong khi ấy, Hoa Kỳ không sụp đổ và lại chuyển bại thành thắng trên trận tuyến toàn cầu. Trường hợp không ai còn nói đến nữa dù đang xảy ra trước mắt mọi người chính là Iraq.
Về địa dư hình thể, Liên bang Nga không có được cái thế ấy. Về kinh tế và tổ chức sản xuất lẫn cơ chế xã hội, Nga cũng không có được cái lực ấy. Vì vậy, nếu lãnh đạo Nga tính lầm lần này thì hết đất lùi, Liên bang Nga sẽ tuột lõi và chỉ còn một nước Nga trống trải. Chuyện ấy có thể xảy ra trong mươi năm tới thôi.
Từ nay đến đó, Putin phải xử lý trường hợp khó nhá hơn Georgia hay Ukraine ngày là ba nước Cộng hoà Baltic (Latvia, Lithuania, Estonia) và Ba Lan. Bốn quốc gia này không bao giờ quên được ách thống trị của Liên Xô và Đế quốc Nga. Đã từng bị cả Đức lẫn Nga cào đi cào lại nhiều lần trong lịch sử, dân Ba Lan cũng không dễ gì chấp nhận sự thoả hiệp đang hình thành giữa Nga và Đức. Ba Lan không là một nước nhỏ và dễ bảo!
Nếu chưa thể chờ đợi gì từ phía Mỹ thì trong vòng mấy năm tới một liên minh bất thành văn có thể liên kết bốn xứ đó với nhau. Khi ấy, nhiều phần thì Chính quyền hậu Obama của Hoa Kỳ sẽ lại nói một đàng làm một nẻo: chủ hoà như Obama mà hung hăng như Bush để kín đáo yểm trợ bốn xứ đó về kỹ thuật quân sự. Liên bang Nga có dám chấp nhận rủi ro này mà đi vào thi đua võ trang không?
Do địa dư hình thể của Nga, Liên Xô đã xây dựng quân đội cho hình thái trận địa chiến với cả trăm sư đoàn bộ binh và thiết giáp. Khi hữu sự, lãnh thổ bát ngát và tổn thất rất cao có thể giáng cho đối phương đã là sức mạnh của chế độ Xô viết. Nhưng, cuộc chiến tại vùng Vịnh năm 1991, khi Hoa Kỳ đánh tan các sư đoàn thiện chiến nhất của Saddam Hussein trong có vài tuần đã là bước ngoặt cho thấy nhược điểm sinh tử của quân đội Xô viết. Nhờ kỹ thuật, thế giới - Hoa Kỳ - đã tiến sang một hình thái chiến tranh khác
Hai chục năm sau, là ngày nay, Liên bang Nga đang tổ chức lại quân đội ấy, nhưng, như Liên Xô thời trước, có thể lại bị Hoa Kỳ dẫn dụ vào một cuộc thi đua võ trang, với kỹ thuật mới sẽ được đưa vào Đông Âu. Mà biên giới Nga không chỉ tiếp cận với các bình nguyên phía Bắc Âu Châu, từ ba nước Baltic hay Ba Lan vào tới Belarus. Cả mạn Bắc Caucasus, ở giữa Hắc hải và biển Caspian, cũng là một vòng đai Hồi giáo có thể bung. Phía Nam là Georgia, Armenia, Azerbaijian là các quốc gia độc lập, dưới nữa là Turkey, một cường quốc còn lại của Đế quốc Ottoman vĩ đại thồi xưa - và nay là đồng minh của Hoa Kỳ....
Nhìn như vậy thì trong giải pháp gọi là lý tưởng nhất cho Putin, là Hoa Kỳ nhượng bộ tối đa và chủ hòa tới đớn hèn trong nhiều năm, thì Liên bang Nga vẫn không thể khống chế được toàn khu vực Âu Á như Liên Xô. Tối đa là một cường quốc cấp vùng mà các nước Âu Châu phải đối xử tử tế để thoát khỏi chiến tranh và có được năng lượng của Nga.
Nhưng chính lợi thế năng lượng lại khiến Liên bang Nga không thấy nhu cầu cải tiến kỹ thuật và tìm giải pháp thay thế, như Hoa Kỳ và Âu Châu đang làm. Thành thử ưu thế trong hiện tại của Nga về quân sự hay năng lượng sẽ không kéo dài. Nếu Putin sớm thấy ra điều ấy - và nếu Chính quyền Obama sớm vạch ra điều ấy - chuyện xung đột sẽ khó xảy ra. Nga lang bang bước ra rồi sẽ lại dậm chân tại chỗ. Nhưng nếu Hoa Kỳ thời Obama lại nhượng bộ thì xung đột gián tiếp sẽ dễ xảy ra hơn trong những năm tới, với kết quả vẫn là sự thảm bại của Nga.
Hoa Kỳ vẫn tiếp tục giữ thế độc bá trong Thế kỷ 21. Và như đã thực hiện trong thế kỷ 20, Hoa Kỳ lại có thể liên kết song phương với Liên bang Nga hay Trung Quốc, để dùng xứ này khống chế xứ kia: đại lục địa Âu-Á vẫn bị giằng co trong thế bất phân thắng bại. Cường quốc nào sẽ nổi lên làm lực đối trọng với Hoa Kỳ trong một thế giới đa cực?
Chưa ai thấy được, kể cả các nước Hồi giáo!

Nguyễn Xuân Nghĩa

23 thg 2, 2009

Sát Thát!


Ngày 26 tháng 10 năm 1284 khi vó ngựa quân Mông Cổ giẫm lên đất Đại Việt tiến về bến Vạn Kiếp, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc kẻ thù mạnh đến như vậy. Phía bắc, Trần Bình Trọng thảm bại trước kỵ binh của Ô Mã Nhi, bị bắt sống, tuyến phòng ngự Thăng Long tan vỡ. Phía nam, thủy quân của Toa Đô chiếm Nghệ An lập thế gọng kềm, vua Trần phải bỏ kinh sư chạy về phủ Thiên Trường. Định mệnh của dân tộc đã có thể chấm dứt ở cuối thế kỷ 13.
Nhưng chưa bao giờ trong những ngày nguy khốn cùng cực này, quyết tâm giữ đất của dân tộc cao đến vậy; tất cả nam nữ cùng thích lên tay hai chữ "Sát Thát".
"Sát Thát" đã được xâm lên da thịt của người Việt, để thấm vào máu Việt, để di truyền cho con cháu đời sau. Di truyền hào khí lẫm liệt của cả một dân tộc quyết không chịu nhục mà hôm nay, chúng ta, hãy còn tìm thấy trên trang sử cũ: "Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc".

Bảy thế kỷ sau, dân tộc này hãy còn mang trong mình khí phách của "Đoạt sáo Chương Dương độ":

Chương Dương đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu

Bảy thế kỷ sau, di duệ của Trần Nguyên Hãn bị Bắc Kinh chiếm đất, với đầy miệt thị khiêu khích. Bảy thế kỷ sau, Hồ Cẩm Đào thực hiện di chúc của Hốt Tất Liệt, Mã Viện, Trương Phụ, Liễu Thăng, Tôn Sĩ Nghị, một cách dễ dàng không kèn trống. Chưa có đế quốc nào đi chiếm đất lân bang dễ dàng sung sướng như đế quốc Trung Hoa đầu thế kỷ 21. Vừa chiếm, vừa khinh, vừa được Chế Mân ôm hôn thắm thiết.

Bảy thế kỷ sau, tình thế đã khác. Nếu bối cảnh khác, lòng can đảm của dân tộc này không khác. Lòng can đảm mà môn võ thuật truyền thống của dân tộc còn lưu trữ: thế đánh ngoạn mục của Việt Võ Đạo tung người quặp đối thủ quật xuống đã phát xuất trong những ngày kỵ binh Mông Cổ tràn xuống Thái Nguyên, càn xuống Vĩnh Phú. Ít ngựa, thiếu phiêu kỵ, tổ tiên đã dùng dôi chân nông dân chạy thật nhanh, áp sát lườn ngựa, hất tung mình lấy chân quặp cổ kỵ mã Mông Cổ giựt chúi xuống đất rồi kết liễu bằng dao găm. Bảy thế kỷ sau, mới hôm qua, lòng can đảm hãy còn đó, khi những người lính của Trung đoàn Thủ đô ôm bom ba càng lao vào chiến xa Sherman. Mới đêm qua, các Trung đoàn Sông Lô, Tây Bắc, Tu Vũ, Nho Quan, đã đạp lên trùng trùng thép gai làm nên chiến thắng chấn động Điện Biên Phủ.

Chính sự hy sinh can đảm của dân tộc đã đánh tan Bán Lữ đoàn Lê dương 13 [1] , đơn vị lừng lẫy nhất của quân đội Pháp, đơn vị đã tử thủ tại Bir Hacheim [2] trước Xa đoàn châu Phi [3] Đức Quốc xã của thống chế Erwin Rommel. Chỉ trong 5 tiếng đồng hồ, từ 5 giờ chiều đến 10 giờ tối của ngày 13 tháng 3-1954, Tiểu đoàn 3 của Bán Lữ đoàn Lê dương 13 cáo chung trên đồi Béatrice. Nếu Toa Đô chết ở Tây Kết, Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn trong trận đồn Ngọc Hồi, tư lệnh pháo binh Charles Piroth tự sát sau trận đồi Gabrielle.

Bảy thế kỷ sau Thoát Hoan, tổ tiên Nguyên Mông của Hồ Cẩm Đào, lòng ái quốc của dân tộc Việt vẫn nguyên vẹn.

Đầu thế kỷ 21, tình thế đã khác. Nếu Trung Hoa vĩ đại của Hồ Cẩm Đào chưa thực sự hùng mạnh như đế chế Mông Cổ, Đại Việt đã suy yếu. Quốc gia Việt Nam hôm nay thiếu sự đồng thuận dân tộc trong mọi lĩnh vực. Khác với triều Trần vô cùng hợp nhất từ lòng dân đến quốc giáo, từ làng mạc cho đến tận trong cung điện; vương quốc hậu Đại Việt ngày nay bị phân hoá. Nguyên nhân có thể tìm thấy trong hai nội chiến đẫm máu Trịnh-Nguyễn và Nam-Bắc, còn tìm thấy trong cả định hướng xã hội chủ nghĩa không hợp lòng dân. Bên cạnh sự phân hoá, phát lộ một yếu kém bản năng: Khả năng suy nghĩ đại dương không được hệ thống hoá, trống vắng, hay chưa hề có.

Chưa bao giờ như hôm nay, đứng trước biển, dân tộc Việt chứng kiến sự bất lực rõ rệt của mình trước đại dương. Nỗi bất hạnh to lớn ngang bằng sự bất lực vĩ đại trường kỳ trước dinh thái thú Tô Định trên đường Minh Khai. Khoảng cách vài trăm thước dài bằng khoảng cách nhiều trăm hải lý chia cách quần đảo Hoàng Sa. Sẽ không bao giờ dân Việt bơi đến. Sẽ không thể nào dân Việt chìa tay cho lính Trung Quốc trông thấy hai chữ "Sát Thát" xâm chín đỏ da thịt mình. Đại dương đã chiến thắng lòng can đảm.

Hậu quả của 40 thế kỷ văn hiến u tối không suy nghĩ biển? Hậu quả của sợ hãi phiêu lưu đến chân trời góc bễ? Sợ hãi thủy quái? Sợ hãi những điều chưa ghi chép trong sách Thánh Hiền? Khó phản biện, chỉ có thể thông cảm, với một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng lúa, tình yêu đất cát, quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn, đã mãnh liệt hơn mặt biển không cho lúa. Chính tình cảm gắn bó quê mẹ đã khiến Đại Việt không có hạm đội viễn chinh, không phát triển ngành hàng hải. Nhưng nếu chưa biết cách chế ngự đại dương, chính tình yêu đất cát dữ dằn này đã giúp dân Việt bảo tồn lãnh thổ trước khối lượng người khủng khiếp của tộc Hán. Có thể viết, cũng chính Trung Quốc khiến dân tộc Việt trước thế kỷ 19 với xã hội làng mạc không thể có ngành hàng hải, vượt trùng dương lấy ai cầy cấy, lấy ai giữ ruộng vườn khi kẻ thù phương Bắc rình rập từng quý, khi kinh nghiệm máu xương khắc ghi: để chiến thắng Trung Hoa trong mỗi trận chiến, tổ quốc phải dốc toàn lực, toàn sức, với những mất mát hy sinh tận gốc rễ mà sau mỗi chiến thắng, nếu chiến thắng, còn phải triều cống. Đi biển sáu tháng, một năm, hai năm, như các tiểu quốc Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Na Uy vượt khỏi tầm tay với của những nông phu nghèo, vượt khỏi ước mơ của những làng chài mong ngóng chồng con đem về một lưới cá.

Dân tộc này nghèo, nhưng sẵn sàng chết để giữ đất. Trung Hoa với tất cả những triết lý nhân sinh của Khổng, Lão, Trang đã không muốn hiểu. Riêng một mình Hồ Cẩm Đào thấu hiểu: “tình hữu nghị Việt - Trung đời đời bền vững”.

Hôm nay không ai trách cứ các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã không xây dựng một hạm đội Thái Bình Dương, như Minh trị Thiên hoàng đã hiểu ra thủy chiến quyết định sinh mệnh của Nhật Bản. Không ai trách tổ tiên, trong những ngày chiến thắng rực rỡ của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, đã không chiếm lấy đảo Hải Nam mà vị trí chiến lược khống chế toàn vịnh Bắc Bộ. Hôm nay, những sinh viên thanh niên biểu tình trước dinh thái thú Tô Định, trong ngày phẫn nộ 9 tháng 12-2007, đã trách: Vì sao quốc gia phải dâng hai châu Ô, châu Lý? Mà dâng khuất tất? Chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, Hồ Cẩm Đào đã có thể khống chế vịnh Cam Ranh. Cánh cửa mở ra Thái Bình Dương vừa bị khóa.

Có phải vì vậy hay không mà đại diện Robert Lucius của hải quân Hoa Kỳ, tại Hà Nội, đã trả lời BBC lạt lẽo: “Hoa Kỳ chưa hề tiếp cận Việt Nam về vấn đề cảng Cam Ranh từ sau 1975, và cũng có đủ các cơ sở trong vùng nên không có nhu cầu sử dụng hải cảng này”. Trong câu nói, có vị chua ở đầu lưỡi. Có phải vì sự hiện diện của không hải lục Trung Hoa trên đảo Trường Sa đã triệt tiêu vị thế của Cam Ranh? Ở chính giữa thời điểm căng thẳng Việt - Trung, 24 giờ ngay sau khi sinh viên xuống đường, ba ngày trước khi đô đốc tổng tư lệnh Timothy Keating viếng thăm, từ chối khéo của Robert Lucius mang ý nghĩa trầm trọng gần như có thỏa thuận ngấm ngầm giữa các đế quốc.

Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc đau đớn khắp mình mẩy, nỗi đau tím bầm da thịt mất đất, mất biển. Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc vụt khám phá mình đơn thương độc mã, trơ trọi trước một tỷ người Hán. Khác chiến tranh biên giới 1979, Tổng Bí thư Lê Duẩn, sau phát súng lệnh đầu tiên, đã có thể ký hiệp ước quân sự hỗ tương Nga - Việt làm giảm áp lực phương Bắc. Hôm nay, chính phủ Việt Nam khó khăn tìm ra một hiệp ước quân sự để ký kết. Mà không thể ký kết, khi chính sách đối ngoại “Làm bạn với tất cả thế giới” không cho phép những liên minh quân sự với phía này hay phía khác. Đã đến buổi sáng, dân chúng thức giấc, kinh hoảng khám phá “Làm bạn với tất cả thế giới” là một thực tế trống rỗng, thiếu hậu thuẫn. Kẻ thù đã xuất hiện trùng trùng trên mặt biển. Trước hình ảnh Trương Phụ kéo lê thanh long đao, của Quan Vân Trường để lại, đứng trên đỉnh Hoá Châu chỉ xuống thung lũng mưa gió sấm sét, quát: Đất này là của Mã Viện; đại diện Robert Lucius, ngay giữa lòng thủ đô Thăng Long, đã nhã nhặn từ chối: Hoa Kỳ không cần bạn, chỉ cần đồng minh.

Trong buổi sáng tím tái, ướt đầm vì sóng biển, sinh viên Việt Nam muốn theo gương Trần Quốc Toản, giương lá cờ “Phá cường địch báo hoàng ân”, thậm chí sẵn sàng “Phá cường địch báo Hồng ân”, nhưng các cấm vệ lại cấm ngặt không cho phép, rồi bắt giải tán. Sao Đoàn Thanh niên Cộng sản tuổi trẻ Hồ Chí Minh lại thiếu ý chí, thua kém cả Đoàn Thanh niên Quốc xã tuổi trẻ Adolf Hitler đã chiến đấu trên từng đường phố Bá Linh, cho đến phút cuối cùng, cho đến viên đạn chót cùng trước Hồng quân Xô-viết, ngay cả khi không có chính nghĩa? Chúng ta tràn đầy muôn triệu lý do phải kháng cự, nhưng triều đình đã im lặng. Trong buổi sáng có những lượn sóng sắc như lam, nhởn nhơ chảy về từ biển Đông, làm chảy máu trái tim Việt, tất cả đã tuyệt vọng trông chờ một ánh mắt. Cái quắc mắt của Trần Thủ Độ khi trả lời vua Trần: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Cái quắc mắt đã cứu sống sinh mệnh Đại Việt, đã khiến vua Trần phải hiểu, không phải đầu thái sư, mà chính là đầu thiên tử sẽ rơi xuống đất trước tiên nếu quy hàng. Nhưng tất cả các quan đều đeo kính mát, khiến không ai có thể trông thấy ánh mắt của những điện tiền chỉ huy sứ.

Đơn thương độc mã và triều đình im tiếng, nên dân chúng phải tự đi tìm kế sách giữ nước. Karl von Clausewitz, ở chương thứ 4, tập 8, của cẩm nang Chiến tranh, phân tích:

“… Đứng trước trường hợp hai quốc gia tranh giành đất, hai bên lâm chiến đều cần thời gian. Câu hỏi đặt ra, ai trong hai phía, với tình trạng quốc gia riêng biệt, về lâu dài, sẽ thuận lợi? Cân nhắc tính chất của từng bên, kết luận luôn đưa đến kẻ yếu nhất sẽ thắng thế. Không phải sức mạnh, mà yếu tố tâm lý. Chính lòng tham, sự quan ngại, tranh chấp, tính toán, lẫn sự hỗ trợ trái ngược của những quốc gia đứng ngoài sẽ làm rạn nứt liên minh giữa chính họ với kẻ đang thắng thế. Càng dài lâu, kẻ thua thiệt càng nhiều cơ hội. Mặt khác, để khai thác thành quả của chiến thắng đầu tiên, phe đang chiếm ưu thế phải tổn hao rất nhiều sức lực. Không chỉ để chiếm đóng mà để duy trì sự chiếm đóng. Nếu tài nguyên của tỉnh lỵ tóm thâu, không đủ trang trải phí tổn, sẽ trở thành một sức nặng không thể gánh. Yếu tố thời gian, như vậy, có thể giúp lật ngược tình thế.

… Ngược lại, nếu những tỉnh lỵ vừa chiếm đoạt đủ quan trọng, và bao gộp những vùng chiến lược sống còn, cho lục địa hay những vùng không thể đụng đến, sự chiếm đóng sẽ lan nhanh như chứng ung thư. Kẻ lấn chiếm sẽ thu lợi nhuận nhiều hơn thất thu. Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược. Thời gian trở thành yếu tố hỗ trợ kẻ đi xâm chiếm, tiếp tay cho đến chừng nào kẻ lấn chiếm không bị phản công. Trường hợp này, một đảo ngược tình thế khó khả thi; vì đến mức này, sự đảo ngược khó có giá trị, vì cốt lõi của chiến tranh đã được thực hiện, những hiểm nguy cao nhất kẻ xâm chiếm đã vượt qua. Trong một chữ, đối phương đã quỵ gối.”

(De la guerre, Karl Von Clausewitz, tập VIII, chương IV) [4]

Phân tích của Clausewitz năm 1830 làm dân Việt thêm tuyệt vọng, vì quốc gia Việt Nam đang rơi vào tình trạng "Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược". Trong cẩm nang Chiến tranh, Clausewitz còn đòi hỏi một yếu tố tiên quyết khác: “Tính hợp nhất chính trị. Thiếu sự hợp nhất này, mọi chiến thuật, chiến lược đều vô vọng”. Chính đây là nhược điểm lớn nhất của đất nước. Vừa làm bạn với kẻ thù, vừa chia sẻ ý thức hệ, vừa phải phòng chống, khiến tất cả các sách lược không thể nhất quán.

Một tuần lễ sau Ngày Phẫn Uất, dân Việt ra đường ngỡ ngàng trông thấy trên các sạp báo, bản tin của báo Tuổi trẻ: Phát hiện âm mưu kích động tuần hành, biểu tình… Những hậu duệ của Trần Hưng Đạo lặng lẽ trở về nhà, lặng lẽ đội mũ bảo hiểm theo quy định, vì đây là biện pháp phòng chống bá quyền Trung Quốc duy nhất của đất nước.

Sẽ như Clausewitz tiên đoán, quốc gia rồi quỵ gối trở lại làm An Nam Giao Chỉ Quận? Toàn dân tộc trông cậy vào những cuộc tuần hành của tuổi trẻ, giữ cho vết xâm hai chữ “Sát Thát” của tổ tiên không biến mất, với hy vọng, giới hữu trách hiểu ra: Đảng cầm quyền sẽ mất tính chính danh nếu không bảo vệ lãnh thổ.

Trần Vũ
15 tháng 12-2007

21 thg 2, 2009

Suy nghĩ Mãn Thanh


Trần Vũ

Vào đầu tập nghiên cứu Giới thiệu lịch sử những quan hệ quốc tế, sử gia Pierre Renouvin định nghĩa các yếu tố làm thay đổi cục diện thế giới: “Điều kiện địa lý, các chuyển động nhân khẩu, lợi nhuận kinh tế tài chánh, tâm lý chung của tập thể, những trào lưu suy nghĩ, làm thành những lực ngầm tạo hình mối tương quan giữa các cộng đồng nhân loại, và chính một phần lớn các lực này đặt để tính chất thế giới.” [1] Phát kiến những lực ngầm của Renouvin không mới đối với các dân tộc châu Á thường xuyên viện dẫn các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hoà, nhằm giải thích những thành bại của thiên tử, quốc gia, dân tộc. Cách nhìn của Renouvin, tuy vậy, vào đầu thập niên 60 đã khác biệt cách viết sử của phương Tây cuối thế kỷ 19. Với Renouvin, nguyên nhân thăng trầm không duy nhất nằm trong trách nhiệm của các quân vương hay các triều đình tham chiến, mà còn ở chính bản chất của các dân tộc lâm chiến. Dấu nhấn này, đặt trọng tâm vào yếu tố nhân hoà.

Bàn về phẩm chất của người Việt, không thiếu tài liệu của giới chức Pháp tại Đông Dương:

“Ít nhất 4/5 dân số Đông Dương thuộc về chủng tộc Kinh mà hầu như biên giới của Đông Dương thuộc Pháp hiện nay không khác mấy so với biên cương lãnh thổ của đế quốc An Nam vào thời kỳ hoàng kim. Đế quốc này bao gộp An Nam (Trung bộ), Tonkin (Bắc bộ), Cochinchine (Nam bộ). Vua Cao Mên phải nộp cống vì là thuộc quốc. Duy nhất, vương quốc Ai Lao có vẻ chưa hoàn toàn bị chiếm đóng. Chúng ta không rõ gốc gác của dân An Nam, dường như đến từ Mã Lai, cách đây nhiều thế kỷ, sau khi đã khuất phục hay tiêu diệt các sắc tộc khác trên bán đảo này. (...) Người An Nam, không thể chối cãi, vượt trội các sắc dân láng giềng. Dân Cao Mên, Ai Lao, Xiêm La không đủ sức kháng cự lại họ. Không có bất kỳ quốc gia nào trong khối kết hợp thành Ấn Độ có được phẩm chất của sắc dân này. Phải đi đến tận Nhật Bản mới tìm thấy một chủng tộc tương xứng và giống như vậy. An Nam và Nhật Bản chắc chắn phải có một sự liên hệ huyết thống cổ xưa. Cả hai đều thông minh, siêng năng và can đảm. Người An Nam mang bản chất của lính thiện chiến, tuân phục, dũng mãnh. Là một sắc dân lao động kiểu mẫu, nông dân tháo vác ở đồng ruộng, thợ giỏi, và thủ công nghệ sáng tạo trong thành phố. Sắc dân An Nam vượt trội trên phương diện chiến đấu, cũng như trong kỹ năng công nhân, so với bất kỳ dân tộc nào ở châu Á mà chúng ta có thể so sánh. Đây cũng là quy luật chung, mà tôi đã khảo sát và kiểm nghiệm trên 20 sắc tộc khác nhau của nhân loại, một quy luật mà chúng ta cũng có thể kiểm tra tính chính xác tại châu Âu: Những con người làm việc giỏi, là những người lính giỏi. Một cách khác, lòng can đảm là một. Nếu con người này can đảm không từ nan công việc trước cực nhọc lao động, con người đó, sẽ can đảm trước hiểm nguy và không từ nan cái chết.” [2]

(Toàn quyền Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, 1905)


“Dân An Nam cần kiệm, chuyên cần, rất gắn bó với gia đình, đất đai, đồng áng ― thông thường hiền hoà, thậm chí nhút nhát như bầy trâu của họ ― nhưng lại cực kỳ can đảm và khinh bỉ cái chết, mà trước thần chết đã luôn tiến thẳng tới không yếu đuối. Cho đến lúc này, chúng ta đã có thể kiểm nghiệm thái độ chiến đấu của sắc dân này qua các cuộc hành binh quân sự, và ngay cả thái độ trung thành dưới lá cờ của chúng ta. (…) Không biết hôn, vì nam phụ lão ấu luôn ngậm một bã trầu trong miệng, điều này không ngăn họ hút thuốc cùng lúc. Tuy ưa ca hát, dân An Nam không nhảy múa, các đoàn múa đều là người Khmer. Sắc dân này ít chịu ảnh hưởng văn hoá của những vùng đất thu phục. (…) Trước khi chúng ta đến, An Nam không xuất khẩu thóc lúa hay trao đổi phẩm vật với các xứ trong vùng. Họ tự túc làm ra của cải, không thiếu ăn, nhưng không đủ tàng trữ kho tàng, lý do thiếu một nền hành chánh hiệu quả, tuy rất thống nhất, không khai thác hết tài nguyên của các xứ đã sáp nhập hay phối thuộc.” [3]

(Toàn quyền Jean Louis de Lanessan, L’Indo-Chine Française, 1889)


“Sự pha trộn giữa các chủng tộc Mã Lai, Ấn, Hoa, với Mường tạo ra sắc An Nam, vừa giữ làn da sáng của giống vàng Trung Hoa, vừa giữ thể hình xương, nhanh nhẹn, thích ứng với rừng rậm. Từ Gia Định ra đến Hạ Long, chúng ta gặp thuần một giống dân. Những người tự nhận là Champa với chúng ta, đến ghi danh trong các văn phòng tuyển mộ phu, thường lảng tránh khi người An Nam xuất hiện. Không còn vết tích của cuộc tàn sát, nhưng vẫn còn sự khinh khi. Khá cứng đầu, An Nam luôn tìm cách tử chiến, ngay cả sau khi thương thuyết đầu hàng, vẫn cứ tiếp tục tử chiến. (...) Khác các sắc tộc đã bị tiêu diệt, hoặc Hồi giáo, hoặc vô thần, hoặc thờ súc vật, Bà-La-Môn hay thờ Shiva mà nhiều tượng được tìm thấy ở Bình Định, dân An Nam theo các tôn giáo Nhơn đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo và Khổng thái công [4] là những triết lý trừu tượng khác hẳn. (...) Nền độc lập mong manh của Xiêm La từng bị An Nam uy hiếp, dường như nội loạn của Lê Văn Khôi đã cho Xiêm La thêm thời gian. May mắn chúng ta đã đến kịp lúc. Xứ Miến Điện thoát hiểm nhờ vào địa thế cách trở mà đây cũng là yếu kém của An Nam, quá ít đường sá trong đế quốc của họ.” [5]

(Tổng trú sứ Trung kỳ Paul Bihourd, Carnets de voyage, 1887)


“Tại trường sĩ quan lục quân Coetquidan, các tân khoá sinh học phương pháp đoạn hậu khi triệt thoái. Chiến thuật được giảng dạy sáng sủa, rõ rệt: Lập nút chặn, đợi địch, khai hoả khi đối phương xuất hiện. Đối phương sẽ ngừng lại, dọ dẫm, thận trọng quan sát, đơn vị đoạn hậu sẽ đủ thời gian rút lui, bắt kịp đơn vị đi trước đã làm xong tuyến cản. Chiến thuật bước chân chim là như vậy. Thực tế chiến trường khác hẳn. Ngay khi chúng ta khai hoả, thay vì ngừng lại, Việt Minh xông thẳng tới, bất chấp thiệt hại, áp sát để cận chiến bằng lưỡi lê. Hầu hết các chiến thuật trang bị cho tân sĩ quan sang Đông Dương đều phá sản.” [6]

(Trung uý Bertrand, trưởng đồn Yên Châu, Trung du Bắc Việt, Journal de Marche, 1952)


*

Nửa thế kỷ sau sự hiện diện của quân đội Pháp, đọc lại những trang hồi ký cũ, dân Việt không tự mãn, nhưng tự tra vấn: Vì đâu với nguyên liệu dân tộc tinh hảo như vậy, triều đình Huế đã đánh mất nền độc lập quốc gia? Đến đây, ưu điểm của Pierre Renouvin, đã xem nhẹ phương tiện chiến tranh mà đặt trọng tâm vào yếu tố nhân hoà, phần nào giải thích: Chính khả năng canh tân yếu kém của vương triều Nguyễn do không cải tổ nền tảng chính trị xưa cũ, đã không còn thích ứng, do vậy, đã không thể kết hợp và huy động sức mạnh của dân An Nam.

Quan bố chánh Eliacin Luro, như dân địa phương vẫn tiếp tục gọi bằng phẩm ngạch của triều đình Huế, trong thực tế giữ chức administrateur civil của các trấn An Giang rồi Vĩnh Long, đưa ra nhận xét: “Xã tắc An Nam do chiến thắng các cuộc xâm lược, không chịu ảnh hưởng của những thay đổi cơ cấu về sau của triều Mãn Thanh, nên đã giữ nguyên hình thái tổ chức cổ xưa đã hoàn toàn biến mất tại Trung Hoa” [7] . Nhận định của Luro đúng trên các mặt khoa cử, thuế khoá, thương mãi và binh bị, không thật đúng về sự khác biệt thể chế chính trị giữa Mãn Thanh và triều Nguyễn. Tuy nhiên, Luro đã sớm nhận ra chính tính cách quá cũ kĩ của mô thức triều chính và hành chính nhà Nguyễn, xây dựng trên khuôn mẫu nhà Lê mà những cải cách cuối cùng có từ thời Hồ Quý Ly, đã không cho phép Đại Nam phát triển tỷ lệ thuận với tiềm lực của 25 triệu dân sinh sống trên bán đảo Trung - Ấn.

Trước khi theo Renouvin sang Trung Hoa tìm hiểu nguyên nhân thất bại của Mãn Thanh trong công cuộc canh tân đế quốc, chúng ta có thể lượng giá phần nào những thẩm định của các quan toàn quyền về phẩm chất Việt.

Hầu hết quá chú tâm vào khả năng chiến đấu của dân tộc mà không nhìn thấy khác biệt căn bản giữa dân Việt với các sắc dân lân bang. Nếu người Hoa coi trọng kinh tế, xem trao đổi thương mãi đồng nghĩa sống còn, đối với dân Việt chính đất đai mới mang ý nghĩa sống còn. Bán đất đã luôn được xem là một thất thế. Khi Lanessan đánh giá dân An Nam “nhút nhát như bầy trâu của họ”, hoặc Doumer nghĩ Việt và Nhật liên hệ huyết thống, do vậy tương đồng trong phẩm hạnh và cách ứng xử, cả hai nhận định đều quá vội vã. Việt không nhút nhát, nhưng chọn tình thế để biểu cảm thái độ. Khác hẳn Nhật Bản xem thường cái chết, Việt coi trọng cái chết. Nếu tinh thần võ sĩ đạo đề cao danh dự trên hết, trong mọi tình huống, ngay cả những xúc phạm nhỏ nhặt nhất vẫn có thể dẫn đến cái chết để rửa nhục; Việt cụ thể hoá danh dự qua đất đai, mà chỉ trong trường hợp này, cái chết mới được xem xứng đáng. Không “khinh bỉ cái chết” như Lanessan lầm lẫn, mà đồng hoá danh dự với đất đai, là khác biệt lớn giữa Việt Nam và Nhật Bản. Một thành tố khác mà các tổng trú sứ hoặc toàn quyền ít nhận ra: Không phải đức Phật Thích Ca mà chính tục thờ cúng tổ tiên, gia tộc đã chết, đặc biệt các tướng lĩnh và những kẻ chết trận, mới thật sự là quốc giáo làm nên sức mạnh của dân tộc này. Từ thiên tử xuống đến quan rồi thứ dân, không có biệt lệ. Đền thờ Sầm Nghi Đống, thờ kẻ cựu thù, vẫn khói nhang là một bằng chứng khuyến khích gương anh dũng và tiết tháo hy sinh trong chiến đấu. Sắc lệnh cấm đạo của hoàng đế Tự Đức, ban hành vào tháng 4 năm 1848, mở đầu bằng lời phán xét nghiệt ngã: “Đạo Gia-Tô bị các tiên đế Minh Mệnh và Thiệu Trị phế chỉ, hiển nhiên là một tôn giáo sa đoạ, vì đạo ấy không cúng thờ tổ tiên khuất mặt” [8] . Nhắc đến tổ tiên là nhắc đến công lao giữ đất, mở mang bờ cõi. Đạo dụ của Tự Đức nói lên tầm quan trọng của một quốc giáo sùng bái công lao này.

Một tổng trú sứ khác, Paul Bihourd ghi nhận các sắc tộc thiểu số bị kỳ thị. Không hẳn. Không phải dân Việt gay gắt vấn đề dị chủng, mà vì thang điểm giá trị của dân tộc xây dựng trên thước đo khả năng chinh chiến và kháng cự. Chấp nhận điều kiện của đối phương để chung sống hoà bình thường bị xem là hèn. Đây là lý do vì sao dân Việt xem trọng đất đai. Vì đã đổ quá nhiều máu để gìn giữ, rồi mở rộng. Vì không hèn, nên không nhượng đất. Vì không hèn, nên sẵn sàng tiếp chiến khi bị khiêu chiến. Đất đai đã trở thành danh dự, vì là chứng nhân và kết quả của lòng can đảm.

Thước đo giá trị trên cùng lúc giải thích vì sao dân Việt ít theo đạo Bà-La-Môn của Phù Nam, Shiva của Lâm Ấp, Hồi giáo của Chàm hay Ấn Độ giáo của Khmer, tuy Việt cũng theo Phật giáo như một bộ phận Khmer, nhưng là Phật giáo đến từ Trung Hoa chứ không từ Thuỷ Chân Lạp. Bản sắc Việt không cho phép yếu đuối, không chấp nhận đớn hèn. Chính bản sắc này đã khiến quân đoàn viễn chinh Đông Dương khó khăn bình định Đại Nam, trong lúc Cao Mên và Ai Lao quy hàng tức khắc. Nhưng kể từ thế kỷ 19, bản sắc chiến đấu không đủ để canh tân đất nước. Trong quan niệm nhân hoà của châu Á, hai yếu tố minh quânthuận lòng dân mới thực sự quan trọng.

Trong tập nghiên cứu Câu hỏi Viễn Đông [9] , Pierre Renouvin phân tích các nguyên nhân suy vi của đế quốc Trung Hoa so với Nhật Bản, trong suốt một thế kỷ trải dài từ 1840 đến 1940.

Nếu đế chế Mãn Thanh đã mở rộng tột bực biên cương, Nhật Bản hãy còn là một đảo quốc, nhưng cả hai đều nhận thức mối đe doạ đến từ Tây Âu. Mãn Thanh và Nhật ý thức phải xây dựng tức khắc một hạm đội viễn dương để tự phòng thủ và xâm lấn các phần đất còn lại ở châu Á. Giống nhau đến đây chấm dứt.

Với sử gia Tây phương, hiệu năng thuế khoá là điều kiện tất yếu để phát triển và duy trì phát triển. Củng cố ngân sách trở nên vấn đề sống chết của ba quốc gia Mãn Thanh, Đại Nam và Nhật Bản, cùng vừa thoát ra khỏi nội chiến thảm khốc Mãn Thanh - Thái Bình Thiên Quốc, Nguyễn Phúc Ánh - Tây Sơn, và loạn sứ quân. Cả ba quốc gia cùng đối diện nguy cơ xâm lăng của phương Tây với kho tàng trống rỗng. Nếu Mãn Thanh và Nhật Bản đã nghĩ đến canh tân, đã theo những con đường khác nhau, Đại Nam hoàn toàn thụ động. Khước từ điều trần cải cách của Nguyễn Trường Tộ, cầu viện nhà Thanh, chọn lựa của hoàng đế Tự Đức tồi tệ hơn hết.

Không quan tâm nhiều đến Đại Nam, Pierre Renouvin nhấn mạnh: Nguyên nhân dẫn đến sự suy vi của Mãn Thanh nằm trong khả năng thâu thuế yếu kém của triều đình Từ Hi. Không phải thái hậu đã không cải tổ. Từ Hi, được đánh giá quyết đoán, thông minh, tinh nhạy, tuy tàn ác, đã tiến hành một loạt các biện pháp cải cách: Phân loại nông phẩm, sản vật, tài nguyên chiến lược để phân giá thuế, đặc miễn hay lập các siêu ngạch nhằm khuyến khích sản xuất hoặc bảo vệ thị trường là những biện pháp khá mới mẻ ở thời kỳ này tại châu Á. Thái hậu nhìn thấy sự tụt hậu của nhà Thanh, nhìn thấy nguy cơ xâm lược của phương Tây, cần gấp một lượng tiền lớn để công nghiệp hóa và hiện đại hóa quân đội. Giấc mộng của Từ Hi tan vỡ vì không tập trung được tài, vật, lực của 350 triệu dân Trung Hoa sinh sống trên lục địa. Thất bại thuế khoá đưa đến thiếu hụt ngân sách, khiến hạm đội Bắc Dương phải mua các tàu cũ của Áo, Phổ, sẽ thảm bại thê thảm trước hạm đội Pháp và Nhật Bản về sau tại Phúc Châu và tại quần đảo Bành Hồ trên biển Hoàng Hải. Chính sách thuế khóa của Từ Hi được xem cấp tiến nhưng vẫn thất bại vì thái hậu đã không cải tổ cơ chế chính trị, mà trên mặt lý thuyết tuy phong kiến tập quyền nhưng trong thực tế phân vùng dưới sự cai quản của các đại nguyên soái đã được các tiên đế Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh ban phẩm trạch từ mấy đời. Các đại gia tộc của các nguyên soái cha truyền con nối chia nhau cát cứ từng địa phương khiến tiền thuế của dân Trung Hoa đã không về đến ngân khố Bắc Kinh. Pierre Renouvin không khảo sát cơ chế Đại Nam, nhưng dân Việt vẫn có thể tìm thấy trong hồi ký Đông Dương [10] của toàn quyền Paul Doumer, một hình ảnh khá tương đồng: Các quan tổng đốc, tuần vũ trách nhiệm thâu thuế, đã trực tiếp cắt giảm kinh phí của tỉnh, cắt giảm cả những “quốc phí” dành riêng cho bản thân, dòng họ, gia đình, trước khi chuyển về Huế. Những quan Kinh lược, Khâm sai, Án sát làm công việc thanh tra đã tự khấu trừ thêm một phần nữa, khiến ngày Paul Doumer sang trấn nhậm Đông Dương, triều đình của vua Thành Thái đã sống trong sự bần cùng, ngân quỹ chỉ đủ tu bổ lăng tẩm, dinh thự, cung điện mà không đủ sắm sửa binh bị hay cải tạo kênh đào, cầu cống, mở mang đường xá. Paul Doumer đã thực hiện một loạt cải cách: Viện Cơ mật bị thay thế bởi Hội đồng Bảo hộ (Conseil du Protectorat) ở Trung - Bắc kỳ và Hội đồng Thuộc địa (Conseil Colonial) ở Nam kỳ, toàn thể nền hành chánh Đại Nam nằm dưới quyền kiểm soát của các trú sứ (Résident Supérieur), tổng trú sứ (Résident général), tổng uỷ viên (Commissaire général) hay phó toàn quyền (Lieutenant gouverneur). Các chức quan Kinh lược (Vice Roy), Khâm sai (Commissaire) bị bãi bỏ, các chức Tổng đốc (tư lệnh miền), Án sát (thanh tra/ thẩm phán), Lãnh binh (quân trấn) chỉ còn là hư danh. Kể từ lúc này hoàng đế Thành Thái chỉ còn là một vị hoàng đế lãnh lương tháng cho chức vị thiên tử.

Dân Việt thông cảm vua Thành Thái mà ngày lên ngôi báu, xã tắc đã rơi vào tay Pháp. Dân Việt càng nhìn thấy hiệu quả cải tổ cơ chế chính trị, hành chánh, quản trị của Paul Doumer, hiển nhiên nhằm mục đích củng cố chính quyền bảo hộ, tuy vậy, vẫn cho thấy tiềm năng cực kỳ lớn của bán đảo Trung - Ấn mà Đại Nam chiếm 4/5 dân số. Doumer nhanh chóng xây cầu Long Biên, cầu Hàm Rồng, cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn, bưu điện trung ương, công ty điện lực, nâng cấp đê điều, thiết lập tuyến đường xe lửa xuyên Việt và tráng nhựa các quốc lộ. Trong hồi ký, Doumer rất hãnh diện: “… cơ chế mới hoạt động hữu hiệu, đưa đến tình trạng ngân khố cải tiến, cho phép vay vốn từ các ngân hàng châu Âu xuyên qua Ngân hàng Đông Dương, giúp chuẩn y ngân sách xây dựng các công trình lớn khiến dân An Nam thêm thần phục. Hà Nội và Sài Gòn là hai thành phố có điện đầu tiên ở châu Á, chỉ sau Đông Kinh (Tokyo)”. [11]

Dân Việt đóng thuế, trả cả vốn lẫn lãi cho các ngân hàng châu Âu, rồi Ngân hàng Đông Dương, trả lương cho viên chức hành chánh Tây, cả lương bổng của quan lại triều đình Huế còn tại vì, nuôi quân viễn chinh, gửi nông phẩm về mẫu quốc, gửi 84 ngàn lính thợ sang chính quốc hỗ trợ nỗ lực chiến tranh chống đế chế Phổ mà vẫn đủ để xây dựng những công trình lớn. Tiềm năng của Đại Nam, như thế, đã có thể đưa quốc gia đến vị trí hùng cường nếu triều Nguyễn sớm biết canh tân, không quá lệ thuộc vào động thái Mãn Thanh, để chọn con đường Nhật Bản.

Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà làm nên thăng trầm của một quốc gia, thiên hoàng Mục Nhân, tức Mutsu-Hito, sở đắc hai điều kiện Thiên thời, Địa lợi ngay từ đầu. Địa lợi: Vị trí xa xôi cô lập ở bắc bán cầu của Nhật Bản khiến phương Tây lãng quên một thời gian. Không vì tham vọng đế quốc giới hạn, nhưng để xâm chiếm, cần những trạm trung chuyển làm căn cứ xuất phát mà kỹ nghệ tàu hơi nước vận hành bằng than đá chưa cho phép những thuỷ lộ dài, ở tầm mức lớn, khi phải vận tải nhiều trung đoàn thuỷ binh, nuôi ăn và tiếp tế đạn dược. Để chiếm Nhật Bản, Anh - Pháp với trạm chuyển tiếp châu Phi - Ấn Độ cần thiết lập thêm hậu cứ ở Mã Lai, Đông Dương; trong lúc Hoa Kỳ cần bình định Phi Luật Tân, trạm dừng thứ hai sau Hạ Uy Di. Quân đội Nga hoàng chỉ có thể xuất phát sau khi chiếm giữ Mãn Châu. Tất cả những vùng đất trên, vừa sở hữu, hay còn đang tranh chấp, đều chưa thật sự ổn định như một tiền trạm an toàn của các đế quốc. Chưa kể những cạnh tranh giữa Hoa Kỳ muốn triệt tiêu Tây Ban Nha, Anh - Pháp luôn bất hoà trong mọi đối sách, hai đế quốc Nga - Phổ cùng nhìn ngắm bán đảo Liêu Đông. Và vượt lên trên hết những mâu thuẫn này, là mối lợi Trung Hoa to lớn hơn Nhật Bản mà phương Tây luôn chịu ám ảnh. Trung Hoa, Eldorado của thế kỷ 19, quan trọng hơn Nhật Bản. Địa lợi, do vậy, hãy còn thuộc về Nhật hoàng trong một thời gian ngắn.

Thiên thời xảy đến với vị hoàng đế trẻ tuổi Mutsu-Hito dưới hai hình thức: Thế quyền Mạc Phủ suy vi khi sứ quân Iesada Tokugawa băng hà không có thế tử nối dõi. Hoàng thân Kikuchiyo lên thế vì, dưới niên hiệu Iemochi Tokugawa, thiếu chính danh của huyết thống, nên ít được thần phục. Iemochi Tokugawa nhanh chóng mãn phần để lại một chế độ Mạc Phủ mục rã cho sứ quân sau cùng Yoshinobu bất lực trước những uy hiếp của Âu - Mỹ và cả những chống đối của các lãnh chúa. Tình trạng Nhật Bản giống một triều Lê nhạt bóng Chúa Trịnh. Tuy nhiên, thiên thời này không quyết định. Những soán ngôi, bỏ chính lập thứ, hay phản nghịch thường xuyên xảy ra trong suốt mười thế kỷ Mạc Phủ. Thiên thời thật sự đã phát vang tiếng đại bác cảnh cáo từ các chiến hạm tối tân của phó đề đốc Matthew Calbraith Perry [12] , sau khi đưa tối hậu thư của Hoa Kỳ buộc Nhật Bản phải mở cửa. Năm 1867 khi Mutsu-Hito đăng quang, vịnh Yédo hãy còn âm vang tiếng đại bác chấn động làm rung chuyển tinh thần Đại hoà của vương quốc Yamato [13] . Tình cảnh thiên hoàng Mục Nhân không khác hoàn cảnh của hoàng đế Tự Đức hay thái hậu Từ Hi. Chiến hạm của hải quân đô đốc Rigault de Genouilly đã bắn phá cảng Đà Nẵng gần như cùng thời gian với Perry [14] . Chiến hạm của Anh - Pháp - Hoa Kỳ nhiều lần khai hoả bắn phá Trung Hoa và Chiến tranh Nha phiến đã bắt đầu. Khác Tự Đức và Từ Hi chỉ nhìn thấy thiên tai, xuống chiếu bế môn toả cảng và bài Tây dương; Mutsu-Hito nhìn thấy thiên thời giúp thâu gom quyền bính về trung ương, giải quyết nạn thuế khoá thất thoát, và hơn thế nữa, thay đổi Nhật Bản.

Theo học thuyết Khổng giáo, lòng dân sẽ đồng thuận khi minh quân xuất hiện, hay ngược lại thiên tử trở thành minh quân khi biết kết hợp lòng dân. Trong lịch sử Nhật Bản, chưa bao giờ một thiên hoàng được sùng bái như thần linh, đã đích thân hiệu triệu quốc dân: Tuyên ngôn của ngày 6 tháng 4-1868, với Đại hiến chương 5 điểm, gần như một lời đặc hứa, cam kết giữa thiên tử với thần dân, canh tân xứ sở không chậm trễ. Hơn một hiến chương, hơn một đặc hứa, gần như một khế ước, một hợp đồng giữa triều đình và dân chúng. Một bên ra sức, một bên nỗ lực cải cách. Để giữ cho lời đặc hứa là một lời thật, Mutsu-Hito huỷ bỏ phân chia giai cấp xã hội, huỷ bỏ thể chế phong kiến, huỷ bỏ đặc quyền đặc lợi của sứ quân, lãnh chúa, và của cả giai cấp Samourai cảnh vệ của quyền lực. Đại hiến chương khai sinh ra quốc hội Nhật Bản, với thượng viện và hạ viện, do dân bầu ra để tránh tình trạng các lãnh chúa Damios sẽ ngự trị ngành lập pháp, mà thiên hoàng cam kết sẽ giữ cho mọi quyết định quốc gia mang tính chất phi đảng phái. Mutsu-Hito còn cam kết sẽ từ bỏ quyền thống trị tuyệt đối hầu xây dựng nền tảng quân chủ lập hiến. Lịch sử thế giới đã bất ngờ chứng kiến dân Nhật đứng sau lưng thiên tử. Kể cả các sứ quân, lãnh chúa và Samourai. Dân tộc Nhật đã nhìn thấy hiểm hoạ mất nước, đã nhìn thấy nguy cơ trở thành nô lệ nhục nhã. Nhưng ở đây lòng ái quốc không đủ giải thích. Chính sự từ bỏ đặc quyền của giai cấp thống trị, công nhận quyền tham gia việc nước của toàn dân, và để bảo đảm quyền lợi này, một hiến pháp dân sự do dân chúng chuẩn y đã đem đến hy vọng và niềm tin của toàn dân vào khả năng thay đổi thực sự của tổ quốc. Sức mạnh của Mutsu-Hito là biết từ bỏ sức mạnh cai trị bằng quyền bính ngay sau khi thâu lại quyến bính từ sứ quân. Mutsu-Hito cai trị với đồng thuận của toàn dân. Một sức mạnh sẽ đánh tan hạm đội Bắc hải của Nga hoàng trong chiến thắng sấm sét Đối Mã [15] .

Kể từ đây, Nhật Bản đi vào kỷ nguyên Minh Trị khai sáng. Nếu thảm bại Đệ nhị Thế chiến chấm dứt giấc mơ đế quốc của dân tộc này, công cuộc duy tân vẫn đem đến kết quả lâu dài. Thành công của chương trình hiện đại hoá nước Nhật nằm trong việc hiện đại hoá trước tiên thể chế chính trị, trước khi công nghiệp hoá toàn quốc. Chính cải tổ chính trị đã cho phép nối kết ba yếu tố Minh quân, Lòng dân, Bản sắc dân tộc thoả mãn điều kiện Nhân hoà.

Trường hợp Mãn Thanh khác hẳn. Giải thích thất bại của các phong trào Tự cường, Tân chính, các đề xuất Bách nhật duy tân, hay dự án Lập hiến, sử gia Pierre Renouvin đưa ra nhiều nguyên nhân: Cấu trúc xã hội Mãn Thanh xây dựng trên cơ cấu tổ chức nhà Minh không còn thích ứng một khi biên cương trải rộng, với số dân tăng gấp ba, mà số quan lại trên dưới một trăm ngàn không đủ cai quản, cũng như tính chất tự trị của các châu, tỉnh, thành và ở các đặc khu trên cả hai mặt quân sự và tài chánh đã khiến việc thi hành các đạo dụ của cung đình kém hữu hiệu. Việc chính quyền Từ Hi khó khăn kiểm thuế, không đủ ngân sách tân trang hạm đội Bắc Dương, cho thấy guồng máy trung ương vận hành ít hiệu quả.

Chung thuỷ với lý thuyết "Bản chất dân tộc đặt để tính chất quốc gia", Renouvin quy kết phần lớn trách nhiệm thất bại canh tân vào bản sắc Trung Hoa:

“… Khối đông dân chúng nghi kỵ ngoại nhân, đồng thời khinh khi, tuy thừa nhận tính ưu việt kỹ thuật; dân Hán ý thức sở hữu một nền văn hiến nhiều ngàn năm của một đế quốc trung tâm từng đạt đến những thời kỳ rực rỡ mà không một nền văn minh Tây Âu nào sánh kịp. Nếu chính quyền Mãn Thanh thường xuyên ra các bố cáo gọi kiều dân phương Tây là Rợ, phải chăng vì hiểu đang thoả mãn lòng tự kiêu của dân tộc này? Hiển nhiên ban đầu dân Nhật có cùng thái độ, chung những nghi ngại, khinh bỉ, nhưng đã nhanh chóng gạt bỏ định kiến, ít ra ở bề mặt. Nhưng dân Trung Hoa gắn bó với truyền thống cổ xưa hơn Nhật Bản, Khổng giáo đã dạy dân Hán xem thường các tiến bộ kỹ thuật vì chỉ là một hình thái vật chất tầm thường, cốt lõi của triết lý sống nằm ở khả năng gìn giữ bản thể nội tại. (…) Giai cấp quan lại phong kiến thù hằn tất cả những canh tân dưới áp lực của ngoại nhân phải thi hành ở Trung Hoa. Đây cũng là sự khác biệt bản chất với Nhật Bản mà cách mạng duy tân do giai cấp võ sĩ trung gian thực hiện. Ngược lại, giới quan lại Trung Hoa đóng kín cửa trước các tư tưởng cải cách. Nền giáo dục và học vấn khuyến khích trí thức tôn sùng truyền thống, như đã tôn sùng các bậc hiền triết. Bổng lộc cá nhân cũng đã khiến các quan chức không muốn thay đổi cơ chế; vì dưới chính quyền Mãn Thanh, viên chức hành chánh không bị giám sát hoặc thanh tra, cho phép tư lợi khá dễ dàng. Tất cả những biện pháp cải cách nhằm giúp hệ thống thêm hiệu quả đều đe doạ mối tư lợi này. Cung đình Mãn Thanh, rút cuộc, trở nên bảo thủ và thụ động.” [16]

(Pierre Renouvin, La stagnation de la Chine, 1947)


60 năm sau khi Câu hỏi Viễn Đông xuất bản, đọc lại chương Sự tù đọng Trung Hoa, dân Việt cảm giác đang xem những trang sử cũ triều Nguyễn. Cùng một ao tù tri thức, cùng một khước từ canh tân của giới hủ nho. Tuy nhiên, nếu phán xét của Renouvin không sai, kinh nghiệm sống thực của dân Việt cho thêm cách nhìn khác: Không phải triết lý của Khổng Tử ngăn cản duy tân. “Lòng trung quân ái quốc” xây dựng trên nhân sinh quan Khổng giáo vẫn hiện hữu tại Nhật Bản cho đến tận bây giờ và chính khái niệm này thúc đẩy dân Nhật hỗ trợ thiên hoàng canh tân. Khổng giáo với thang giá trị Quân, , Phụ đã ứng nghiệm tuyệt vời tại Nhật. Như vậy, vì sao thất bại tại Đại Nam và Trung Hoa? Đây mới thực sự là Câu hỏi Viễn Đông.

Hình ảnh một thái hậu Từ Hi chuyên quyền, tàn ác, hình ảnh một hoàng đế Tự Đức, tuy nhân từ, dành nhiều thời gian chăm sóc lăng tẩm của chính mình thay vì lo việc nước đang rối ren khi thuỷ binh Pháp xuất hiện, đã phá huỷ giá trị Quân vương. Dân Việt, cũng như dân Trung Hoa, còn khám phá kiến thức của các bậc thầy, từ đồ nho đến viện sĩ, được xem uyên thâm, tụt hậu so với phương Tây. Giá trị phá sản. Còn lại Phụ, vẫn được kính trọng, vì Phụ nuôi dưỡng huyết thống, vì Phụ giữ được lòng ái quốc cho con, nhưng Phụ bất lực trước thời thế. Cả hai dân tộc Hoa - Việt đánh mất phương hướng, đánh mất mục đích phục vụ, cho ai, cho Từ Hi độc ác, hay cho vẻ đẹp nên thơ của những cánh sen hồng phấn trong hồ Lưu Khiêm của Tự Đức? Cả hai dân tộc Hoa - Việt trở nên thụ động vì thang giá trị của Khổng Tử biến mất ở hai quốc gia này.

Thất bại canh tân của Mãn Thanh chủ yếu nằm trong chính sách phân biệt thứ hạng công dân. Kể từ khi Đại Thanh quốc chính thức thành lập, các hoàng đế Mãn Thanh thay nhau duy trì vị thế độc tôn của tộc Mãn. Lập ra Quân Cơ Xứ, cơ quan an ninh theo dõi và giám sát nhân sự. Các đề bạt, đặc cách, tuyển mộ, đều phải thông qua Quân Cơ Xứ. Quân đội Mãn Thanh cũng phân chia kỳ binh chủ lực, xây dựng trên các đội kỵ binh thuần Mãn tộc, nhận lương thảo, quân trang, lương bổng cao hơn dũng binh địa phương tuyển mộ từ lính Hán. Các chức tước quan trọng đều do tộc Mãn nắm giữ. Gần như các hoàng đế Mãn Thanh đã theo đuổi chính sách của nhà Nguyên phân biệt Mông Cổ và Hán, tạo ra một xã hội hai giai tầng: Mãn được tin dùng, phải là Mãn mới thăng tiến quan lộ, trong lúc Hán đứng ngoài “biên chế” và bị nghi kỵ. Kế thừa truyền thống này, thái hậu Từ Hi không đủ can đảm cải đổi chính sách, ngược lại, càng củng cố Quân Cơ Xứ, gia tăng canh chừng. Nhìn đâu, thái hậu cũng trông thấy những thế lực thù địch đang âm mưu phản Thanh, phục Minh. Với trí thức Hán, thái hậu áp dụng chế độ kiểm duyệt mà học giả Nguyễn Hiến Lê, trong bộ Sử Trung Quốc, ghi lại tính cách triệt để: “… cái hoạ văn tự đời Thanh còn khiếp lắm. Sử chép trường hợp 70 người soạn bộ Minh sử, trong đó, một đoạn viết về vụ Mãn Thanh chiếm Trung Hoa có giọng ai oán chứ không vui vẻ, hăng hái, tác giả lại quên kị huý khi chép tên các vua Thanh, họ đã chết rồi, bị quật mả lên mà những người lựa, duyệt lại, chép lại bộ đó cũng bị chém vì tội phản Thanh.” [17]

Với một xã tắc đề cao duy nhất công trạng Mãn, hiển nhiên dân Hán không cảm thấy cần thiết phải canh tân, khi lợi ích của canh tân sẽ không được san sẻ đồng đều, khi công sức canh tân sẽ càng thêm củng cố chính quyền khinh dân. Trong những ngày nguy khốn, Từ Hi sẽ phải dùng đến người Hán, như đã dùng Tăng Quốc Phiên và Lý Hồng Chương là những đại Hán đã quy phục Mãn; đến khi kỳ binh Mãn Châu sau hai thế kỷ đô thị hoá, sinh sống trong các đồn luỹ, giữa những tường thành ở các châu, phủ, huyện, mất đi khả năng vận động chiến, Từ Hi phải cậy quân Hán của Viên Thế Khải khiến uy lực của Mãn Thanh thêm giảm sút. Càng cho phép Hán tham chính, nắm quân đội, Mãn càng suy yếu, nên từ ý thức phải cải cách để đương đầu với phương Tây, Từ Hi co cụm để giữ quyền bính. Nếu đồng hóa là diễn biến không tránh khỏi, như đã xảy đến với Mông Cổ, thái hậu quên mất chính sức lực Hán đã giúp hai đế chế Mông Cổ và Mãn Thanh kéo dài nhiều trăm năm. Thiếu sức Hán, các tiên đế Khang Hy, Càn Long đã không thể chinh phạt Tứ Xuyên và Tân Cương. Nhưng nếu trong quá khứ dân Hán tuân phục kỷ cương Mãn Thanh, đến cuối thế kỷ 19, các trí thức Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng đòi hỏi cải cách chính trị, cho phép toàn dân tham gia việc nước, trước mắt canh tân để chống xăm lăng, và sau nữa, đem đến bình đẳng xã hội. Huỷ bỏ Tân chính, dập xóa Bách nhật duy tân, cho hành quyết Đàm Tự Đồng và các trí thức cấp tiến [18] , Từ Hi đã đặt quyền lợi của một bộ tộc thiểu số của ba triệu người Mãn Châu lên trên quyền lợi của khối đông Trung Hoa. Giọt nước tràn ly xảy đến, khi thái hậu, thay vì sát cánh với phong trào yêu nước của các võ sinh Thiếu Lâm chống Bát quốc liên quân, đã ra lệnh cho Lý Hồng Chương đàn áp Nghĩa Hoà đoàn [19] . Kể từ đây, mãi mãi và vĩnh viễn, dân Hán thề chấm dứt với Mãn Thanh.

Thất bại canh tân nên Trung Hoa đánh mất độc lập vào tay Nhật Bản. Không canh tân nên vương triều Nguyễn từ vị trí đang cai trị đế quốc Đại Nam, xuống cấp trở thành giả vương của một xứ thuộc địa. Ngày 17 tháng 5-1886, toàn quyền Paul Bert thảo phúc trình ngay tại Huế:

“Chúng ta đã xáo trộn nghi tục của Thiên tử, bắt vua An Nam tuân thủ cung cách của chúng ta, khiến Thiên tử đánh mất khả tín trước thần dân. Ròng rã sáu tháng trời, chúng ta yêu cầu Thiên tử đến chủ toạ các yến tiệc chiêu đãi giống như quân vương An Nam chỉ làm vua trên bàn ăn. Trước cửa cung, chúng ta đặt lính gác và các trạm kiểm soát quân sự. Bên trong cung, chúng ta cho phép các gia đình viên chức Pháp cư ngụ, để nhìn thấu suốt ngai vàng. Trong một thời gian dài, Thiên tử không thể thăm dân mà không xin phép. Rồi đến các hoàng mẫu hậu cao tuổi, mà chức năng sinh thành được kính trọng trong tập quán An Nam, đã không thể đi đâu bằng kiệu mà không có một bàn tay khiếm nhã vạch tấm màn rũ lên xem ai ngồi bên trong. (…) Chúng ta đã lập vì Thiên tử. Quốc vương này đang bị kẻ thù kết án chịu giam lỏng và ở đợ cho chúng ta. Nếu chúng ta muốn hành xử như một kẻ bảo hộ thực sự và dùng Vua như một trung gian giữa chúng ta với dân An Nam, hẳn nhiên là phải trao cho trung gian một quyền thế tối thiểu. Và nếu Vua thiếu quyền thế vì một thói tật nào đó… chính chúng ta, kẻ bảo hộ, phải bảo vệ quyền này, cho những kính trọng tương đẳng. Dù vậy, dường như kể từ ngày 5 tháng 7-1885, trên Bộ đã ban hành, với đầy thoả mãn, những mệnh lệnh theo hướng ngược lại.” [20]

(Toàn quyền Paul Bert, thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Charles de Freycinet, 1886)


Chưa khi nào, kể từ lúc An Thanh hầu Nguyễn Hoàng rời đất Bắc vào trấn thủ Thuận Hoá, rồi cầm gươm đi mở nước, các Chúa Nguyễn phải nhục nhã như vua Đồng Khánh. Vua còn như vậy, dân đốn mạt:

“Cần lao, thông minh, kỹ xảo, đất mầu mỡ, tuy vậy dân An Nam vào năm 1897 nhìn khốn khổ. Run lập cập dưới mưa gió, đưa thân cho mưa quất, dân chúng gần như trần truồng đứng trên mặt lộ, áo tơi không đủ che chắn. Trang phục đóng khố của dân An Nam màu nâu đất tiệp với nước sông. Phụ nữ che đắp cùng một thứ vải. Sự tiệp sắc với màu đất giảm thiểu phần nào vẻ nghèo khổ. Công việc làm ruộng, nhúng dưới bùn đến đầu gối, nhìn khổ cực và dơ bẩn dưới gió bấc (…) Ấn tượng đến xứ Bắc kỳ gây phiền não; bần cùng khắp nơi tuy đất cát phì nhiêu. Mất an ninh trong vùng. Dân An Nam nhìn chúng ta với đầy sợ hãi; giống một con thú đáng thương bị đánh đập, luôn khiếp sợ tánh lỗ mãng của chủ. Dân An Nam không có ánh mắt tự tin và tin tưởng.” [21]

(Toàn quyền Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, 1905)


*

Hôm nay, 124 năm sau khi hoàng đế Tự Đức băng hà, dân Việt một lần nữa, đối diện với các tham vọng đế quốc. Từng là đế quốc nên dân tộc này hiểu rõ số phận của các dân tộc bị trị Phù Nam, Chiêm Thành. Dân chúng mong muốn Đảng cầm quyền có một lịch trình canh tân, với một chương trình rõ rệt cho mục đích hiện đại hoá đất nước. Những quyết định hôm nay sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc suốt thế kỷ 21. Canh tân, không giản dị xây cất những khu đô thị cao cấp Phú Mỹ Hưng hay Thảo Điền. Canh tân trước hết là canh tân suy nghĩ. Đã đến lúc phải dẹp các biểu ngữ Bảo tồn di sản khi không biết rõ di sản còn gì, mất gì, đã đến lúc quăng bỏ khẩu hiệu Đậm đà bản sắc dân tộc vì nếu bản sắc được cho phép thuần áo dài, đồ gốm, thịt cầy, mắm tôm sẽ không đủ sức canh tân. Đã đến lúc phải thay thế ngôn ngữ Định hướng Xã hội chủ nghĩa bằng quyết tâm Duy tân phú quốc cường binh của Nhật Bản. Dân chúng muốn biết đến khi nào đất nước sẽ có chiến lược dài hạn xây dựng một nền công nghiệp nặng, tự chế tạo được vũ khí, súng đạn? Đến khi nào dân Việt chế được máy bay, đầu máy xe hoả, đúc được tàu sắt? Dân Việt còn muốn biết doanh thu tổng sản lượng quốc gia, viện trợ quốc tế, vay nợ thế giới, tổng số bao nhiêu, đến khi nào trả hết, dùng cho việc gì, thất thoát ra sao, hiệu quả thế nào và ai giám sát?

Đã hai thập niên sau khi Đổi mới mà dân chúng vẫn chưa trông thấy một chương trình canh tân thật sự. Thậm chí không có lấy một bản điều trần của một đại thần đứng trước triều đình yêu cầu canh tân, như trường hợp Nguyễn Trường Tộ. Ở đâu? Chương trình hiện đại hóa và công nghiệp nặng của Việt Nam bây giờ? Đến khi nào chính phủ mới nghĩ đến xây dựng hạm đội Biển Đông với một tân không lực chiến thuật hữu hiệu để bảo vệ lãnh hải của tổ tiên? Đã có ai trong đương kim nội các suy nghĩ Clausewitz: Tất cả mọi cuộc chiến tranh phải được chuẩn bị. Đã có ai học kinh nghiệm của thuỷ sư đô đốc Togo: Hình thành một hạm đội thuỷ chiến mất ít nhất hai mươi năm. Chuẩn bị chiến tranh không nhất thiết chiến tranh. Chuẩn bị chiến tranh để không tụt hậu một khi phải lâm chiến. Chuẩn bị để không bao giờ dân tộc này còn bị ức hiếp. Chuẩn bị để không mất thêm đất đai, biển cả, để hai mươi năm sau, phát ngôn viên Lê Dũng, lên đến hàm bộ trưởng, còn có thể ngồi vào bàn đàm phán cất tiếng nói dõng dạc của một người Việt: “Chính phủ Việt Nam yêu cầu chính phủ Trung Hoa trao trả Hoàng Sa và Trường Sa trong 72 giờ, với tất cả hậu quả của một thoái thác”. Chuẩn bị, giản dị chỉ vì toà án La Haye sẽ bất lực và thế giới không can thiệp vì mối lợi to lớn Trung Quốc. Và an nguy của một dân tộc phải do chính dân tộc đó tự bảo vệ, không thể trông cậy thế giới.

Phát triển kinh tế không đồng nghĩa với canh tân. Trao đổi hàng hoá, lợi nhuận thương mãi, xuất cảng nông hải phẩm là nhu cầu thiết yếu của nhân loại. Phát triển kinh tế là động cơ tối thiểu của một quốc gia. Canh tân mới thực sự là nền tảng giúp duy trì sự phát triển, đem đến khả năng tồn tại, tự thay đổi, tự vực dậy của một quốc gia trong những điều kiện xấu nhất, mà trong điều kiện viên mãn cho phép áp đặt sự hiện diện của quốc gia khi đối mặt kẻ thù. Lịch sử còn chứng minh: Canh tân phải bắt đầu bằng canh tân chính trị. Thiếu cải cách này, cơ chế cũ sẽ khó vận hành song song với phương pháp mới. Không cải tổ chính trị, sẽ không bảo đảm với dân chúng tổ quốc sẽ không như xưa. Dân Việt sẽ đứng sau lưng chính phủ hỗ trợ cho công cuộc duy tân vĩ đại nhất trong lịch sử của dân tộc này. Tất cả chưa quá muộn. Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang là tâm huyết của tuổi trẻ.

Những ngày qua, thanh niên, sinh viên đã hét vang đường phố: Làm người ngang tàng, phải làm một người dân Nam! Những ngày qua, dân tộc này đã muốn hét vang: Hãy ngừng suy nghĩ Mãn Thanh!

Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hoà của học thuyết Khổng Tử, hôm nay Thiên thời đang thuộc về Trung Hoa, vì thế kỷ 21 là thế kỷ của Trung Hoa. Địa lợi: một khi người nông dân Việt không thể xuống tấn trên mặt biển, quốc gia này thất thế. Đảng cầm quyền chỉ còn có thể sở hữu duy nhất một điều kiện Nhân hoà.

Ngày 4 tháng 1-2008

© 2008 talawas

[1]Pierre Renouvin & Jean-Baptiste Duroselle, Introduction à l’histoire des relations internationales, nxb Armand Colin, 1964
[2]Paul Doumer, L’Indochine française, Souvenirs, nxb Librairie Vuibert, 1905, tái bản 1930
[3]Marie Antoine Jean Louis de Lanessan, L’Indo-Chine Française, Etude politique, économique, et administrative sur la Cochinchine, le Cambodge, l’Annam et le Tonkin, nxb Ancienne Librairie Germer Baillière et Cie, 1889
[4]Nguyên văn ghi trong bản Pháp văn: "Nhon-Dao, Thanh-Dao, Tien-Dao, Phat-Dao, Kdnong-Thai-Coug"
[5]Paul Bihourd, Carnets de voyage, Imprimerie nationale, 1887
[6]Đại tá Bertrand, "Nhật ký hành quân của tiểu đoàn 3 trung đoàn 1 Tán Binh Marốc" (1er Régiment de Tirailleurs Marocains), Revue Militaire, Jacques Favreau & Nicolas Dufour trích dẫn trong nghiên cứu Nà Sản la victoire oubliée 1952-1953, Base aéroterrestre au Tonkin, nxb Economica, 1999
[7]Eliacin Luro, Le Pays d’Annam, Etude sur l’organisation politique et sociale des Annamites, nxb Leroux,1878
[8]Philippe Devillers, Français et Annamites, Partenaires ou Ennemis? 1856-1902, nxb Editions Denoel, 1998
[9]Pierre Renouvin, La question d’Extrême-Orient 1840-1940, nxb Librairie Hachette, 1947
[10]Paul Doumer, sđd
[11]Tổng vay vốn cho riêng tuyến đường sắt xuyên Việt lên đến 200 triệu quan Pháp, trả hết trong 5 năm từ 1897 đến 1902. Paul Doumer, sđd
[12]Commodore Perry khai hoả thị uy trước vịnh Yédo ngày 8 tháng 7-1853.
[13]Yamato, mang hình ảnh những đồng ruộng và các đỉnh núi phủ tuyết vây quanh đế đô Nara, là danh xưng xưa cũ của vương quốc Nhật Bản tương tự Đại Việt dưới triều Lý, Trần.
[14]Hải quân đại tá Lapierre chỉ huy một hải đoàn của hạm đội Jurien de la Gravière bắn phá cảng Đà Nẵng lần đầu tiên ngày 15 tháng 4-1847. Lần thứ nhì, đô đốc Rigault de Genouilly tấn công Đà Nẵng ngày 1 tháng 9-1858.
[15]Đối Mã (Tsoushima), eo biển nằm giữa Đại Hàn và Nhật Bản, nơi diễn ra trận thuỷ chiến lớn đầu thế kỷ 20 giữa hạm đội Baltique của đô đốc Rojetsvensky và hạm đội Nhật của thuỷ sư đô đốc Togo (Đông Hương Bình).
[16]Pierre Renouvin, sđd
[17]Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc, viết trước 1975, đọc và sửa lại ở Long Xuyên rồi Sài Gòn 1983, xuất bản tại hải ngoại
[18]Đàm Tự Đồng, Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi), Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú trong nội các duy tân đều bị hành quyết, Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu trốn thoát. - Nguyễn Hiến Lê, sđd
[19]Phong trào Nghĩa Hoà Đoàn (Yi He Tuan) diễn ra từ 1899 đến 1901.
[20]Paul Isoart, Paul Bert 1886, Approches Asie n° 10, Philippe Devillers, Sđd
[21]Paul Doumer, sđd

14 thg 2, 2009

Washington khiếm hụt, Bắc Kinh cho vay

Quốc hội Mỹ sẽ đặt trên bàn Tổng Thống Barack Obama một “giấy phép” cho chính phủ Mỹ gần 790 tỷ đô la, gọi là để kích thích cho kinh tế chạy mạnh trở lại. Ai cũng biết kinh tế Mỹ đang cần được kích thích. Nhiều nhà kinh tế thuộc các khuynh hướng khác nhau đã đồng thanh nói chính phủ phải đưa tiền cho dân, phải chi, và chi thật nhiều, càng sớm càng tốt; để lấp vào khoảng trống khi người tiêu thụ và các xí nghiệp đang thắt lưng buộc bụng.

Nhưng ông Obama và các đại biểu đảng Dân Chủ đã nhân cơ hội “toàn dân nghe chăng” đó để đưa vào kế hoạch nhiều khoản chi tiêu mà họ vẫn tha thiết muốn thực hiện từ lâu, dù đó không phải là những điều cấp bách đến mức phải chi ngay trong lúc này. Ba nghị sĩ đối lập đã thỏa hiệp, và để bù lại đã đòi được ghi vào kế hoạch một số khoản chi tiêu và cắt giảm thuế mà đảng Cộng Hòa vẫn tha thiết, nâng tỷ số giảm thuế tới 35% tổng số ngân sách 790 tỷ.

Phải quyết định chi thật nhiều, thật nhanh, nhu cầu đó tất nhiên mâu thuẫn với tiêu chuẩn thận trọng, phải tính toán việc chi tiêu cho đúng chỗ, đúng lúc. Làm thế nào để một đô la do chính phủ chi ra hoặc trả lại cho dân sẽ tạo ra hơn một đô la trong Tổng Sản Lượng Nội Ðịa (GDP), trong một thời gian càng sớm càng tốt? Nếu đồng tiền đó được luân lưu ngay lập tức, và được luân chuyển nhiều vòng, thì tác dụng “kích thích” sẽ cao, sẽ tạo được nhiều công việc làm hơn, kinh tế sẽ hồi phục sớm hơn.

Nhà phân tích kinh tế Mark Zandi, thuộc Economy.com đã viết một bài trên nhật báo Wall Street (một tờ báo bảo thủ) ước tính rằng một khoản chi trực tiếp 600 tỷ có khả năng tạo ra được 4.7 công việc làm mới nếu chi đúng chỗ. Tức là sau khi GDP có nguy cơ giảm bớt 1.6% trong năm 2009, đến năm 2010 sẽ tăng lên được 1.9%.

Ông Mark Zandi không ngần ngại nói rằng đồng tiền trợ cấp phát thẳng cho người nghèo, những người cần tiền nhất, là những đồng tiền sẽ kích thích kinh tế mạnh nhất. Một đô la trợ cấp dưới hình thức phiếu mua thực phẩm (food-stamp) sẽ giúp GDP tăng thêm được 1.73 đô la, và chỉ trong vòng ba đến 6 tháng là thấy kết quả. Chi một đô la trong việc xây trường học hay làm cầu, làm đường thì có thể sinh ra 1.59 đô la cho GDP; nhưng kết quả chỉ trông thấy trong khoảng từ 12 tháng đến 24 tháng. Cũng một đồng đô la đó nếu đem trả lại cho người trung lưu đóng thuế, thì nhiều người nhận được có thể sẽ không chi tiêu ngay, cho nên chỉ giúp GDP tăng được có 1.01 đô la.

Nhưng khi chính phủ Mỹ tiêu thêm tiền, một hậu quả chắn chắn là ngân sách nước Mỹ sẽ khiếm hụt, chính phủ phải đi vay nợ, và trong tương lai sẽ phải trả vốn lẫn lời, tức là phải dùng tiền thuế của dân, dân sẽ phải đóng thuế nhiều hơn!

Trong năm 2008, chính phủ Mỹ phải trả 412 tỷ đô la tiền lãi không thôi, trên các món nợ của quốc gia vay từ trước để lại, tính ra ngân sách nhà nước liên bang tiêu 100 đồng thì trong đó 9 đồng chỉ để trả lãi vì đã đi vay.

Hiện chính phủ Obama đã báo trước ngân sách năm 2009 sẽ khiếm hụt 1.2 ngàn tỷ mỹ kim, đó là chưa kể đến những món chi mới và giảm thu thuế trong kế hoạch kích thích đang được quyết định này. Con số 1.2 ngàn tỷ đó tương đương với 8.3 Tổng Sản Lượng Nội Ðịa, một tỷ số khiếm hụt cao nhất từ thời Ðại Chiến Thứ Hai đến nay. Như vậy, nếu kể cả kế hoạch kích thích thì số khiếm hụt của chính phủ Mỹ sẽ lên tới 2 ngàn tỷ đô la!

Nhưng dân Mỹ sẽ phải chấp nhận tình trạng thiếu hụt đó. Vì nếu không kích thích cho kinh tế phục hồi sớm, nhiều xí nghiệp bớt hoạt động, số người thất nghiệp tăng, họ sẽ không đóng thuế được nữa, thì số khiếm hụt ngân sách vẫn lên cao không tránh được. Tình trạng suy sụp kinh tế hiện giờ sẽ khiến cho chính phủ bị mất 2 ngàn tỷ Mỹ kim vì người dân và các xí nghiệp bớt đóng thuế lợi tức, nếu không phục hồi sớm thì nạn thâm thủng sẽ nặng nề hơn.

Bây giờ tới một vấn đề khác: Lấy tiền đâu ra để chi khi ngân sách thâm thủng? Giản dị, phải đi vay.

Tới cuối Tháng Chín năm ngoái, tổng số nợ của chính phủ lên tới 10 ngàn tỷ đô la, bằng 69% Tổng Sản Lượng Nội Ðịa. Thời ông Clinton tỷ số đó là 67%. Và sau 4 năm của ông Obama chắc sẽ còn tăng thêm nữa; vì tới đầu Tháng Hai năm 2009 con số nợ đã lên tới gần 10.8 ngàn tỷ. Nếu quý vị dùng máy vi tính bấm vào mục National Debt Clocks sẽ thấy mỗi giây đồng hồ con số đó tăng lên hàng trăm ngàn đô la!

Câu hỏi tiếp theo là ai sẽ cho chính phủ Mỹ vay nợ để tiêu xài thong thả như thế?

Ðó là các nhà đầu tư ở Mỹ, ở khắp thế giới có sẵn tiền cho vay, và các quỹ dự trữ của những quốc gia có dư tiền. Nhưng khi chính phủ Mỹ cần đi vay gần 2 ngàn tỷ đô la trong năm tới, thì chính phủ các nước khác cũng đang lo kích thích kinh tế nước họ, chính họ cũng đi vay nữa. Nhật báo Financial Times ước tính trong năm nay các chính phủ toàn cầu sẽ đi vay khoảng 3 ngàn tỷ, gấp ba lần số tiền họ vay trong năm 2008 - hai phần ba của số 3 ngàn tỷ đó sẽ do chính phủ Mỹ vay! Liệu năm nay có vay được không?

Chúng ta đã quen thuộc với hình ảnh chính phủ Trung Quốc, Nhật Bản và các nước bán dầu lửa ở Trung Ðông vẫn đem tiền cho chính phủ Mỹ vay. Lý do chính vì các nước đó chuyên làm công việc xuất cảng, xuất cảng sang Mỹ. Tiền đô la đem về họ chi không hết (các nước Á Rập) hoặc muốn để dành (Trung Quốc, Nhật Bản). Bây giờ, chính phủ Trung Quốc đang có gần 2 ngàn tỷ đô la dự trữ, nhưng số tiền đó chắc chắn đã được đầu tư nơi này, nơi khác rồi. Và Bắc Kinh đã quyết định sẽ dùng gần 600 tỷ để kích thích kinh tế nước họ. Liệu chính phủ Trung Quốc có nhân cơ hội này gây khó dễ cho ông Obama bằng cách lảng đi chỗ khác, không thèm cho Mỹ vay nợ nữa hay không?

Chúng ta không cần tìm cách trả lời câu hỏi đó. Vì một viên chức Trung Quốc mới nói ngày Thứ Tư 11 Tháng Hai vừa qua ở New York, rằng Bắc Kinh chắc chắn sẽ tiếp tục cho Washington vay tiếp.

Ông La Bình (Luo Ping) là tổng giám đốc Hội Ðồng Giám Sát Các Ngân Hàng trong chính phủ, tương đương với chức phó chủ tịch ngân hàng trung ương, cho nên lời nói của ông đáng tin. Ông hỏi: “Ngoài công trái chính phủ Mỹ ra, quý vị có thể để dành tiền vào chỗ nào? Mua vàng ư? Hay là mua công trái chính phủ Nhật Bản, chính phủ Anh quốc? Nói cho cùng, công trái chính phủ Mỹ (US Treasuries) vẫn là nơi an toàn nhất. Ðối với tất cả mọi người, kể cả Trung Quốc.”

Ông La Bình rất thẳng thắn: “Tôi ghét mấy người lắm (I hate you guys!) Khi mấy người bắt đầu in thêm tiền một ngàn tỷ, hai ngàn tỷ, chúng tôi biết là giá trị đồng đô la sắp xuống. Vì vậy mà chúng tôi ghét mấy người lắm, nhưng chúng tôi làm gì khác được?”

Hiện nay chính phủ Trung Quốc đang giữ trong tay 682 tỷ đô la dưới hình thức công trái, tức là giấy nợ của chính phủ Mỹ. Sau khi ông La Bình nói chuyện ở New York, ngày hôm qua tại Bắc Kinh, ông Dư Vĩnh Ðịnh (Yu Yongding) đã lên tiếng chỉ trích chính phủ Mỹ là có những chính sách bất cẩn làm giảm giá trị của đồng đô la, tức là giảm giá số tiền 682 tỷ đô la mà họ đang chờ ngày được chính phủ Mỹ trả nợ; cũng như hàng ngàn tỷ đô la khác đang cho vay bằng tiền Mỹ. Ông Dư vốn là cố vấn của ngân hàng trung ương Trung Quốc, hiện đứng đầu một cơ quan nghiên cứu chính trị và kinh tế. Ông chỉ lập lại lời báo động của Thủ Tướng Ôn Gia Bảo trong tháng trước, nói rằng chiến lược sử dụng 1.95 ngàn tỷ đô la dự trữ là làm sao bảo vệ số tiền đó không bị mất giá! Hiện nay lãi suất thực trên các công trái 10 năm của chính phủ Mỹ lên tới 3% một năm, nghĩa là nếu giá trị đồng đô la Mỹ giảm bớt 3% thì người chủ nợ kể như huề.

Nhưng đúng như ông La Bình thú nhận, Trung Quốc không có lựa chọn nào khác là sẽ tiếp tục mua công trái của chính phủ Mỹ.

Thứ nhất vì nền kinh tế của họ (cũng như của Nhật Bản) dựa trên xuất cảng, nếu không xuất cảng được nữa là nguy. Trung Quốc chưa phát triển được một thị trường nội địa cho đủ mạnh, vì ngay từ đầu họ đã chọn chỉ chú ý đến xuất cảng, trong lúc bắt dân phải nhịn tiêu thụ. Mỗi năm Trung Quốc phải duy trì một số thặng dư mậu dịch từ 500 đến 1000 tỷ, chỉ để giữ cho các xí nghiệp tiếp tục hoạt động, nếu không thì rắc rối vì nạn thất nghiệp.

Số tiền thặng dư đó dùng làm gì? Họ không thể đem chi tiêu hết trong nước được! Vì muốn chi tiêu trong nước thì phải đổi số đô la Mỹ có dư đó sang đồng nhân dân tệ. Ðổi lấy tiền bản xứ, sẽ tạo áp lực khiến giá đồng “nguyên” của họ tăng lên. Giá nhân dân tệ tăng lên đối với đô la Mỹ thì khi đem hàng bán ra ngoài, bán cho bất cứ nước nào, giá cũng đắt hơn! Và như vậy thì sẽ khó xuất cảng! Ðó là một thứ ràng buộc mà chính phủ Trung Quốc tự trói mình khiến họ cứ phải đem tiền cho vay.

Nhưng đúng như ông La Bình nói, không gì bằng cho chính phủ Mỹ vay. Mua vàng được không? Cứ nhìn giá vàng lên xuống hàng ngày chúng ta hiểu được là không một chính phủ nào muốn đầu tư vào một tài sản bất an như vậy. Hay là cho chính phủ các nước khác vay? Ðem đô la Mỹ dự trữ trong nhà sang đổ vào Nhật Bản hay Âu Châu sẽ tạo áp lực khiến cho đồng tiền các xứ này tăng giá. Khi Yen và Euro lên giá, nền kinh tế các nước đó sẽ bị chậm lại, và chính các nước này sẽ không còn nhập cảng hàng hóa của Trung Quốc được như trước nữa! Kinh tế Nhật Bản và Âu Châu chưa đủ sức hấp thụ nếu một số thặng dư lớn của Trung Quốc được đem vào xứ họ!

Cho nên chính phủ Mỹ sẽ tiếp tục chịu khiếm hụt ngân sách mà khỏi lo đi không vay được nợ. Thực ra, nếu các nước khác không cho vay thì nội trong nước Mỹ cũng có đủ tiền để cho chính phủ của họ vay. Nếu dân Mỹ tăng tỷ lệ tiết kiệm thêm 1% thì cả nước sẽ đủ được một ngàn tỷ đô la cho chính phủ vay ngay lập tức. Chỉ cần công trái trả dân Mỹ một lãi suất đủ hấp dẫn mà thôi! Nhưng đó là điều mà chính phủ Bắc Kinh không muốn xẩy ra. Họ sẽ không cần cho Mỹ vay nợ nữa khi nào nền kinh tế Trung Quốc không lệ thuộc vào xuất cảng. Trong những năm qua họ chỉ chú trọng đến đầu tư, đầu tư, mà không quan tâm đến người dân tiêu thụ; cho nên tạo nên tình cảnh này. Nếu không tăng số xuất cảng được thì bao nhiêu nhà máy thép, nhôm, xi măng, bao nhiêu đường cao tốc, phi trường, sẽ dùng vào việc gì?

Cho nên Washington sẽ tiếp tục khiếm hụt, và Bắc Kinh sẽ tiếp tục tài trợ. Mà riêng gì Trung Quốc. Nhật Bản, Dubai, Kuwait, v.v..., cũng sẵn sàng tài trợ. Dân Mỹ chỉ còn lo không biết kế hoạch kích thích của ông Obama sẽ kích được đến mức nào, và bao giờ thì có kết quả!

Ngô Nhân Dụng

5 thg 2, 2009

Những bí mật của đời sống.

I. Hạnh phúc .
Hạnh phúc chỉ là sự thưởng thức, hưởng thụ ngây thơ, dễ dàng những sự vật đơn giản.
Hạnh phúc là nụ cười đầy an ủi cho người đang buồn rầu khổ sở.
Hạnh phúc là chấp nhận tất cả những gì đã và đang diẻn ra với một trạng thái tự do yên lặng và quả cảm.
Hạnh phúc là hiểu rằng tình thân hữu, bạn bè quí giá hơn những vật dụng, quí giá hơn đọan đường bạn đang đi, và còn quí hơn là bạn đã đúng trong những tình huống mà nơi đó không có một nguyên tắc đúng nào phải theo cả.
Hạnh phúc là biết ôm ghì lấy hạnh phúc của thiên hạ.
Hạnh phúc là biết xem việc làm cuả mình như là một phục vụ tha nhân.
Hạnh phúc là một quyết tâm mãi mãi cho đời bạn, chứ không phải chờ đợi một trạng huống nào để làm bạn có hạnh phúc.
Hạnh phúc là một tâm hồn bình thản trong suốt thời gian sóng gió bão bùng của cuộc đời.
Hạnh phúc là trung thành đối với chính bạn, rồi dần dần nới rộng sợi dây dến những người như bạn.
Hạnh phúc là một tâm hồn thuần khiết, thoát ra khỏi những giả dối, và ý thức rằng không có gì con người làm mãi mãi là quan trọng.
Hạnh phúc là nỗi ham muốn thuần khiết đươc học hỏi, hơn là dạy kẻ khác.
Hạnh phúc là cùng vui cười với kẻ khác, chứ không phải là cười họ.
Hạnh phúc là làm hoàn tất những gì thích thú và ý nghĩa.
Hạnh phúc là tim kiếm cách thức giúp đỡ kẻ khác chứ không phải tìm sự giúp đõ của họ.
Hạnh phúc là làm tăng sự tin tưởng của người khác vào chính họ, và trong chính tiềm năng vô cùng đó. Hạnh phúc là cười với tim và mắt, không phải với làn môi.
Hạnh phúc là hiểu rằng nhiệm vụ cao cả nhất của con người là tình yêu.
Hạnh phúc chính là tình yêu.
J D.WALTERS

12 THÁNG ANH ĐI