28 thg 6, 2011

Thức Dậy Đi



Thức Dậy Đi
Trần Trung Đạo

Mặt trời mới mọc bên kia biển
Hay lửa phương đông báo hiệu mùa
Thức dậy đi em giờ đã điểm
Mẹ khóc lâu rồi em biết chưa?

Thức dậy đi hỡi rừng núi cũ
Nghe tiếng nghìn xưa vọng trở về
Ai đứng trông ai mùa lá đổ
Mà lòng thao thức mấy đêm khuya

Ai khóc đêm nay ngoài ải Bắc
Phải hồn sương phụ ngóng phương xa
Hay tiếng Phi Khanh trào nước mắt
Về đi, lấy máu trả thù cha

Thức dậy đi hồn thiêng sông núi
Gió Nam Quan xô sóng Bạch Đằng
Nửa đêm không bóng người bên suối
Sao tiếng gươm mài vang dưới trăng

Thức dậy đi hỡi lòng vô lượng
Ngại ngùng chi đau khổ điêu linh
Dù cho nước vẫn còn nhơ đục
Nhớ giữ cho nhau một chút tình

Thức dậy đi đồi cao dốc sỏi
Đất đá mòn theo mỗi vết chân
Gã tù lặng đứng nhìn mưa đổ
Đâu biết xuân qua chỉ một lần

Thức dậy đi màu nâu của đất
Màu xanh trong ánh mắt của em
Bao nhiêu năm ngồi nghe nhau khóc
Đã đủ chưa máu chảy ruột mềm

Thức dậy đi từng trang lịch sử
Những chuyện buồn vui lẫn tủi hờn
Như mắt mẹ nghìn đêm không ngủ
Thương đám con khờ chưa lớn khôn

ẢO THUẬT David Copperfield

26 thg 6, 2011

Ngỡ rằng đồ thật hoá đồ chơi!....


Ngỡ rằng đồ thật hoá đồ chơi!....
Nguyễn Xuân Nghĩa

Con tầu đồng nát Varyag trước khi thành
"tầu sân bay Thi Lang" của Trung Quốc

Một tháng sau khi biểu diễn khả năng cô hồn cao độ với việc uy hiếp Đông hải,
Bắc Kinh quay ra hăm he Hoa Kỳ.
Chẳng là cuối tuần qua, sau khi họp với Phụ tá Ngoại trưởng Đặc trách Á châu Thái bình dương của Hoa Kỳ tại Hawaii, Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc lên lớp côn đồ: “có những quốc gia đang đùa với lửa” - xin phiên dịch rằng đó là Phi Luật Tân và Việt Nam. Sau đấy, Thứ trưởng họ Trương liếc qua phía Mỹ: “và tôi mong rằng Hoa Kỳ không bị phỏng tay vì chuyện đó”. Ngon!

Đã đành là ngon rồi, vì tuần tới Bắc Kinh sẽ cho hạ thủy “tầu sân bay” đầu tiên của mình. Gọi là chơi nổi để góp mặt với đời trên biển Đông.

Nhưng chưa ai biết là hàng không mẫu hạm này có… nổi không và việc thử nghiệm là gì. Thử máy xem có chạy không, hay là còn thử cho máy bay cất cánh và hạ cánh?

Trong khi chờ đợi thì hãy nghĩ đến truyện… “hồn Trương Ba, da hàng thịt” với màu sắc Trung Hoa. Rất khôi hài ảm đạm!

***

Năm 1985, Liên Xô cho thiết kế một hàng không mẫu hạm, hạng Admiral Kuznetsov.

Năm 1988, chiến hạm đó được khởi công và sau này đặt tên là Varyag. Đến năm 1992 thì mọi việc bỗng ngưng - vì Liên Xô sụp đổ. Chiến hạm có xác mà không hồn: trông thì rõ là hàng không mẫu hạm mà bên trong chưa có hệ thống điện tử!

Khi Liên Xô tan rã, Cộng hòa Liên bang chia của cho các nước Cộng hoà tách khỏi liên bang, chiếc Varyag được gán cho Cộng hoà Ukraine - như một của nợ. Và được Ukraine kéo lên ụ làm thịt bên bờ Hắc hải! Ruột gan tanh bành, không có máy, chẳng có cánh quạt, chân vịt, hay hệ thống điều dụng. Nó trở thành khối thép vô dụng, được cho bán đấu giá năm 1998.

Đấy là lúc các đấng con trời đỏ xuất hiện. Dưới dạng con buôn Hong Kong, của một hãng lữ hành.

Họ nhảy vào cò kè mặc cả và đấu giá rồi chi ra 20 triệu đô la để mua về cái vỏ tầu mà xứ Ukraine cho là đồ phế thải. Chẳng sao, năm đó Thiên triều đang chuẩn bị việc Macao “hồi quy cố quốc”. Cho nên lý do chính thức là kéo chiếc Varyag vô hồn này về làm sòng bạc nổi trên mặt nước! Mà nội một chuyện kéo cái vỏ tầu này qua mấy đại dương và eo biển về Hoa lục cũng mất gần hai năm.

Họ phải thuê một hãng Hoà Lan với thủy thủ đoàn Phi Luật Tân chạy lòng vòng trong Hắc hải qua vịnh Bosphorus rồi xuyên kênh đào Suez không được – không ai cho một con tầu chết đi qua hải lộ hiểm yếu này – nên phải trở qua eo biển Gibraltar, xuống tận mũi Hảo Vọng của Phi Châu mới về đến Châu Á… Một cuộc hành trình lịch sử chỉ kết thúc vào cuối năm 2001, gây tốn kém hơn 30 triệu đô la và rất nhiều giấy mực của báo chí.

Về đến nơi thì chiếc Varyag không ghé Macao mà lên thẳng Liêu Ninh, nằm ụ trong quân cảng Đại Liên.

Nơi đây, chiến hạm Varyag - sản phẩm thuộc diện đồng nát của Liên Xô thời tàn lụi, thuộc diện phế thài của xứ Ukraine thời khủng hoảng – bắt đầu thoát xác. Nó trở thành tàu sân bay đầu tiên của Hải quân Trung Quốc với tên mới là Thi Lang, tên của viên Đô đốc đã “giải phóng” Đài Loan vào thời Mãn Thanh. Mất 10 năm tròn cho việc đỏ da thắm thịt này!

Bây giờ, Trung Quốc có đồ chơi mới, nên hăm Mỹ là coi chừng phỏng tay!

***

Nói về việc thành hình một hàng không mẫu hạm, người ta nhớ trước tiên đến chữ "mẫu hạm".

Một chiến hạm đầu đàn, chung quanh trên dưới còn rất nhiều võ khí quái dị khác để bảo vệ và khai trển sức mạnh. Khi ra khơi thì đó là một đội quân hoàn chỉnh ngoài đại dương. Sau đấy mới là một sân bay ngoài biển, để phóng ra và thu vào các chiến đấu cơ có cánh cố định – không phải cánh xoay như trực thăng.

Một tập hợp như vậy đòi hỏi nhiều điều kiện phối hợp về tổ chức, kỹ thuật, liên lạc, kiểm soát rất phức tạp. Phải mất nhiều thế hệ thiết kế và huấn luyện mới xong.

Cho tới nay, những hình ảnh đầu tiên được tiết lộ về chiếc Thi Lang uy dũng này vẫn cho thấy nhiều của nợ ngổn ngang trên sàn bay. Còn việc máy bay lên xuống ra sao thì chưa ai biết… Dù sao, nếu cứ có động cơ để chạy ra chạy vào được vài cây số thì cũng đã là một thắng lợi vĩ đại.

Ngẫu nhiên sao, năm nay Hoa Kỳ lại kỷ niệm 100 năm ngày hạ thủy hàng không mẫu hạm đầu tiên của mình! Và các hàng không mẫu hạm thời nay của Mỹ đều sử dụng năng lượng siêu hạng: hai chục năm mới phải một lần… xạc bình điện!

Phần mình, sau 90 năm của đảng Cộng sản, từ thời “lập quốc” cách nay một vòng hoa giáp 60 năm, quân đội Trung Quốc chủ yếu là một lực lượng lục quân. Chiến pháp xứ này là lấy lượng làm phẩm, lấy quân số làm ưu thế - để trấn áp bên trong! Lục quân Trung Quốc ngày nay vẫn có chừng một triệu 600 ngàn lính, có trang bị áo quần súng ống đầy đủ. Đông lắm, nuôi không xuể, nhưng vẫn hát khúc quân hành cho vui vì là một đội quân cổ điển với võ khí lỗi thời. Mà vẫn vô dụng, vì khi hữu sự bên trong, xứ này vẫn cần tới công an võ trang, cảnh sát đặc biệt, v.v…

Hơn 700 ngàn nhân mạng chứ không ít.

Năm qua, việc ngân sách “nội an” cũng cao bằng ngân sách quốc phòng cho thấy ưu tiên của lãnh đạo: dẹp loạn bên trong hơn là bành trướng ra ngoài!

Không quân và Hải quân là những quân chủng mới chỉ được Bắc Kinh cho hiện đại hoá từ vài chục năm trở lại. Và hiện đại hóa với võ khí thụ đắc của Liên Xô trên đỉnh cao Xô viết, khi xứ này bắt đầu tan rã hơn hai chục năm trước! Binh đội của hai quân chủng này chưa tới 600 ngàn lính, còn thua lực lượng nội an. Siêu cường đại bá chưa có khả năng “giải phóng” – một định nghĩa khác của chữ “chiếm đóng” - bất cứ xứ nào nằm ngoài lãnh thổ cố hữu của họ. Muốn tái diễn một cuộc chiến tranh Triều Tiên với chiến thuật biển người thì chỉ can tội… sát sinh. Bắc Kinh rất hiểu từ cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991 khi Hoa Kỳ không tập và diệt gọn các sư đoàn ưu binh của Saddam Hussein.

Nhưng sức mạnh nào chỉ có quân số vì còn phải nói đến võ khí và kỹ thuật chiến tranh nữa chứ?

Thưa vâng: ngày nay, hơn 70% võ khí Trung Quốc vẫn lệ thuộc vào đồ nghề cổ lỗ của Nga sản xuất từ thời Xô viết, phần còn lại là học lóm, là ăn cắp và đôi khi bị cấy sinh tử phù khi đi ăn cắp mà không biết! Cho đến nay, giấc mơ đại cường hải dương của xứ này mới chỉ thành hình với hai chiến hạm duy nhất có khả năng viễn duyên và quả nhiên là đã… dám đi tuần tra ngoài khơi Somalia để cùng thế giới tham gia tiễu trừ hải tặc.

Bây giờ lại có Thi Lang!

Chúng ta sẽ rất lầm khi dựa vào Hoa Kỳ để khiêu khích Trung Quốc, như Bắc Kinh ám chỉ. Nhưng Trung Quốc sẽ rất lầm nếu đòi dằn mặt nước Mỹ để thu gọn Đông Nam Á vào trong túi.

Hãy nói về tương quan hai xứ đó: Hoa Kỳ và Trung Quốc có lãnh thổ tương tự, gần 10 triệu cây số vuông. Nhưng, Trung Quốc hơn Mỹ nhờ dân số nên… phải nuôi nhiều hơn Mỹ khoảng một tỷ người trên cùng một diện tích. Chỉ nội khái niệm “phải nuôi” ấy cũng là điều đáng kể. Hoa Kỳ có dân số hơn 300 triệu mà không bao giờ có chữ “nuôi dân”: người dân tự nuôi lấy mình và còn sản xuất dư thừa nông sản lương thực để nuôi xứ khác. Trung Quốc có một tỷ 350 triệu dân trên một diện tích tương đương mà đất khả canh thì hẹp và chưa bằng một phần ba của trung bình toàn cầu. Vặt mũi bỏ mồm là động tác truyền thống.

Làm sao đòi dọa nạt một quốc gia có truyền thống hải dương từ thời lập quốc và nay vẫn là siêu cường quân sự toàn cầu?

Bây giờ, chuyện dẹp êm nội loạn chưa xong, Trung Quốc còn đòi chinh phục thiên hạ! Bắc Kinh chỉ có thể uy hiếp Hà Nội và mua chuộc đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi. Vì sao không kín đáo thi hành việc đó như họ đã từng làm từ hai chục năm nay? Vì sao lại hung hăng dọa nạt và còn muốn cho Hoa Kỳ phỏng tay? Vì ta sắp có tầu sân bay?

Đúng là dịp may hy hữu cho Việt Nam tỉnh ngộ.
Nguyễn Xuân Nghĩa

Vài hàng cho biểu tình Chúa Nhựt 25 tháng 6 ....


Vài hàng cho biểu tình Chúa Nhựt 25 tháng 6: Bán Chánh thức
TS. Phan Van Song

Bán Chánh thức ! Từ ngữ rất thông dụng của những năm ‘80 của Việt Nam Xã hội chủ nghĩa hiện nay tưởng chừng đã đi vào quá khứ và hầu như đã không còn được sử dụng ! Từ ngử nầy chỉ được xài cho phong trào Vượt Biên, lúc bấy giờ…Chúng ta lầm to ! Từ ngữ nầy, tuy không còn sử dụng nữa, nhưng nguyên tắc “bán chánh thức” nầy vẫn được áp dụng dài dài. Đó là một nghịch lý nữa của Việt Nam, một thế giới đầy nghịch lý !

Sau ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, dân chúng Miền Nam, tuy có vài kẻ “hồ hở, tay mang băng đỏ, cẳng xỏ dép râu, ….” lùng xét, vơ vét, hò hét, nạt nộ xóm làng, nhưng số đông dân chúng Miền Nam Việt Nam, thuộc kẻ bại trận – mặc dù sự thật là chỉ có chế độ Việt Nam Cộng Hòa mới bại trận thôi ! – thế nhưng chẳng những tất cả nhơn viên chế độ bại trận quân cán chánh đã đành, mà cả người thường dân, dân sự, vợ con, bà con liên hệ, quen biết, tam tộc, tứ đời, cũng phải cuối đầu, ngậm miệng, im lặng, nín thở, xếp hàng,… và hình phạt loại bỏ, đi đày, đuổi nhà, sung công, đuổi khỏi thành phố …đang treo lơ lững và sẳn sàng đổ sụp lên đầu của toàn thể dân chúng Miền Nam.

Và cả dân Miền Nam cùng nhau, đua nhau, chạy: và từ ngữ “ chạy” cũng ra đời từ đấy: thoạt đầu chạy gạo, sau đó chạy đủ thứ:…chạy…kiếm cơm, chạy bán chợ trời, chạy săn tin, chạy mua giấy phép, chạy “đăng ký”, và cuối cùng chạy … tìm đường Zọt.

Vượt biên, hay đúng hơn vượt biển, vì Việt Nam có một bờ biển rất dài. Bờ biển là mạng sống của con người Việt Nam. Biển cho ta cá, cho ta mắm, và cho ta nước mắm ! Các nhà bác học nói dân tộc Việt Nam là dân tộc lúa nước, vì dân Việt Nam ăn cơm ăn gạo, văn minh Việt Nam là Văn Minh Lúa nước, tôi đây xin bổ túc là dân tộc Việt Nam là dân tộc Nước Mắm. Tôi đây không có Nước Mắm là tôi khổ lắm ! tôi sẽ chết, mặc dù gia đình tui đây là gia đình tây, vợ tui tuy là đầm, con tui tuy là tây, nhưng tụi nó hổng có nước mắm là tụi nó cũng rầu lắm…. Trong nhà có thể hết gạo, hết thịt cá, chịu được, hổng sao, chỉ cần luộc spaghetti, thêm tý beurre và vài giọt Nước mắm, là cả nhà xong bửa cơm ! Chứ có cơm có cá có thịt mà ăn với muối nó lạt lẻo làm sao đó !
Việt Nam ăn cơm thường trực, sáng trưa chiều tối, « ăn cơm » biến thành từ chung của dân Á đông, Quảng đông nói « xực phàn », Quan thoại nói « Xứ phán », Thái lan nói « Kinh khẩu »…tóm lại « ăn cơm » là từ chung để diễn tả chữ « Ăn ». Âu châu họ chỉ dùng động từ « Ăn » đơn thuần thôi ! Pháp : Manger « On va manger », « Allons manger » Anh Mỹ « To Eat », “Is time to Eat ”.

Và nhờ Biển, ta Vượt Biển đi tìm Tự Do ! Ôi nhớ mãi những năm tháng đổi đời ấy ! Trong bạn bè hàng xóm, đi đâu cũng nghe bàn tán Vượt Biên. Mỗi ngày được nghe đây anh bạn, nọ người bà con… Dzọt, phong trào Dzọt, không khí dzọt .. « cái cột đèn, đi được, cũng đi ! ». Và cũng trong những năm tháng ấy đẻ thêm cái từ ngữ « Vượt Biển Bán chánh thức ». Sau nầy, khi tôi bị trục xuất sang Pháp tỵ nạn, tôi thường rất mắc công cắt nghĩa cho các ông bạn tây về cái « mất dạy của chế độ Vượt Biển Bán chánh thức ». Cắt nghĩa hoài, cắt nghĩa hoải tây vẫn hổng hiểu. Vượt Biển có tội hay không có tội ? Tây nó cartésien, thực tế, trắng hay đen, hổng thể bán trắng, bán đen. Cái thứ demi, panaché, nửa lade, nửa nước ngọt chỉ có thức uống thôi. Thế mà Việt Nam Cộng sản đẻ ra cái Vượt Biên Bán Chánh Thức. Nghĩa là vừa có cho phép vừa có bắt tội.

Bán Chánh thức

Chế độ Bán chánh thức được Nhà nước Cộng sản Việt Nam nêu cao, sử dụng triệt để, và nhơn dân Việt Nam được hưởng cũng triệt để. Sau mấy năm lầm than, do Đảng Cộng sản sai lầm, nên nhơn dân Việt Nam than ! Đảng Công sản đẻ ra một chánh sách kinh tế mới gọi là « Đổi mới ». Đổi mới cũng Bán Chánh thức ! Nầy nhé cái tên gọi nền Kinh tế của Việt Nam ngày nay : Việt Nam theo nền « Kinh tế Thị trường » ( nghĩa là Tư bản ) thế nhưng « theo định hướng Xã hội chủ nghĩa » (Bán chánh thức vì do Xã hội chủ nghĩa – nghĩa là Nhà nước Cộng sản định hướng – nghĩa là kiểm soát). Vậy thì không Bán Chánh Thức là gì ? Bán Chánh thức là Tự do – buôn bán, vượt biên, làm ăn, thậm chí buôn lậu, tham nhũng Có (nhiều khi không Có) Giấy PHÉP – nghĩa là có kiểm soát – có giấy phép – có khai báo. Cái thời của Vượt biên, là Chạy, là móc nối với Công An để mua Tàu, đóng tàu, mua máy, mua dầu, tổ chức thâu tiền hành khách vượt biên, chung tiền cho Công An, mua bãi vân vân … nhưng ra biển vẫn bị bắt (vì bán chánh thức – nửa Công An cho phép, nửa Công An kia cấm, vì vượt biên vẫn có tội là phản quốc). Sau nầy tất cả từ chánh trị đến kinh tế đều là chánh sách nửa vời cả. Bán chánh thức.

Có Quốc hội nhưng khi bầu bán thì đều phải bầu những người do Đảng Cộng sản đề cử. Chánh thức thì Đảng độc tài đề cử người, nhưng dân chủ vì phải do dân bầu cử, vậy là bán chánh thức ! Hay nói ngược lại vì Dân bầu, nên đấy là nền dân chủ chánh thức nhưng phải bầu những người do Đảng độc tài chỉ định ! Bán chánh thức ! vì nửa độc tài nửa dân chủ !

Tự do ngôn luận : Việt Nam có cả trăm tờ báo, tỉnh nào cũng có báo, cơ quan nào cũng có báo, chánh thức tự do ngôn luận , nhưng báo phải đi « lề phải của Đảng chỉ đạo ». Tất cả đều bán chánh thức !

Các cô gái muốn đi lấy chồng ngoại, Đại hàn, Đài loan, Tàu Cộng đều phải qua những con buôn, theo nguyên tắc thì cấm nhưng, vẫn được tổ chức, vẫn đi được. Các nhơn công muốn đi xuất ngoại lao động phải qua cơ quan Nhà nước, vay Ngân hàng Nhà nước, nhưng đi qua Mạc Tư Khoa bắt đầu xài giấy thông hành giả do các Sứ quán Việt Nam Cộng sản cấp, và đi lậu qua các biên giới… Giả mà thiệt ! Thiệt mà giả ! Bán chánh thức !

Và như vậy, các độc giả cứ tiếp tục tìm những thí dụ, từ Y tế nhà thương, miễn phí nhưng phải mua thuốc và đóng tiền bác sĩ. Giáo dục, theo nguyên tắc miễn phí nhưng phải đóng tiền cho.. thầy cô, sách vỡ, … Tự do đi lại, nhưng phải trình diện công an phường xóm, xin giấy phép di chuyển, tự do xin chiếu khán nhưng phải khai báo lý lịch, tên tuổi cha mẹ, V.V.

Biểu tình Bán chánh thức

Từ ba tuần nay, mỗi Chúa nhựt nhơn dân trong nước đều tổ chức xuống đường biểu tình phản đối Tàu Cộng xâm phạm đất nước chủ quyền trên đất, trên biển Việt Nam. Những khẩu hiệu được hô vang, « Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam » « Đả đảo Trung Cộng đã xâm phạm lãnh thổ Việt Nam » …và nhiều hơn nữa, nhưng quanh quẩn cũng chỉ tố cáo Tàu Cộng xâm phạm chủ quyền Việt Nam, trên biển thì ngang ngược chiếm Hoàng Sa, Trường Sa.. ngang ngược cấm ngư dân Việt Nam ra khơi đánh cá, ngang ngược cắt cáp hai chiếc tàu đang làm việc khảo sát khoa học của Việt nam… Đã được ba Chúa nhựt, 05,12,19 rồi, và sửa soạn sẽ lần nữa vào Chúa nhựt tới. Bên cạnh những bức hình tuần hành biểu tình có trật tự, với những trẻ em, cụ già để nói lên khí thế của toàn thể người dân chống Trung Cộng, có những bức hình Công An chìm bắt người, lôi người đi nhốt. Biểu tình cho phép hay tự phát ? nếu cho phép sao bắt người ? nếu tự phát sau có hàng rao ngăn và công an cảnh sát đứng nghe người dân ca bài « con cá sống vì nước » ? Nghịch lý ? mâu thuẩn ? Không, Bán Chánh thức đó !

Nhưng, nếu người dân thực sự yêu nước, thực sự muốn thay đổi, thực sự muốn làm một cuộc cách mạng, phải thêm những khẩu hiệu hỏi giấy ttrách nhiệm cuộc khủng hoảng nầy. Tại sao Tàu không dám ăn hiếp Phi Luật Tân, là một nước nhỏ cũng như Việt Nam ? Tại sao Tàu không ăn hiếp Mãlai, Indônêsia, hay cả Singapore mà chỉ Việt Nam ? Ai là kẻ mở đường cho Tàu vào Việt Nam. Thuở tình yêu như cá với nước, núi liền núi sông liền sông, Hànôi Bắckinh MạcTưKhoa, Tàu chiếm Hoàng Sa (1974) dỉ nhiên đánh nhau với Sàigòn như có giao lại cho Hànội quản trị đâu ? Thuở bất bình, giận nhau, vì Hà nội chơi với Nga, Tàu đánh chiếm Trường Sa (1988) – nghĩa là thời bạn như thời không bạn Tàu vẫn ăn hiếp Hànội dài dài. Tôi ấy là do cái thơ của Phạm Văn Đồng đồng ý và ủng hộ cái tuyên bố quan điểm hải phận của anh Ba Tàu.

Vì vậy, không thể tín nhiệm ở cái đường lối chánh sách quản trị kinh tế – chánh trị bán chánh thức nói chung, và đường lối chánh sách ngoại giao nửa vời bán chánh thức đặc biệt đối với Trung Cộng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nói riêng, vừa cho phép dân chúng xuống đường đả đảo Tàu vừa cùng cho Hải quân Việt Nam đi tuần chung với Hải quân Tàu (tin Việt Tấn Xã ngày hôm kia). Cái loại vừa chưởi nhau vừa nghéo tay ? cái cảnh tréo cẳng ngổng nẩy phải được tố cáo ra dư luận quốc tế.

Yoàn thể người dân Việt Nam, đặc biệt nhơn dân trong nước khi đi tuần hành biểu tình phải hô to « Đả đảo đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải tức khắc từ chức trao quyền ngay cho Nhơn dân. »

Phải biết sử dụng cái chánh sách Bán chánh thức để chuyển mình và làm Cách mạng. Thừa lúc biểu tình Bán chánh thức chống Tàu, chuyển sang biểu tình lật đổ chánh thể Cộng sản, thành lập ngay một chánh phủ Dân chủ để không còn vướng víu nợ nần 16 chữ vàng giữa hai Đảng, không còn vướng víu nợ nần với lá thơ của Phạm Văn Đồng.

« Đảng Cộng sản Việt Nam Hãy Cút đi ! »

Hãy biến cuộc Biểu tình Bán chánh thức thành cuộc biểu tình Chánh thức .

Để sửa soạn cuộc biểu tình lần thứ tư

Phan Văn Song

25 thg 6, 2011

Để giết một người Mỹ!


Để giết một người Mỹ!
Đồng Ngọc Khanh dịch

Bạn có thể bỏ qua mẩu tin này trong hàng đống tin tức hàng ngày, nhưng hiện nay có báo cáo cho biết một người nào đó ở Pakistan đã đăng quảng cáo trên báo chí là sẽ trao một giải thưởng cho bất cứ người nào giết được một người Mỹ, bất kỳ người Mỹ nào cũng được.
Vì thế nha sĩ người Úc này ngay ngày hôm sau đã viết một bản thông báo cho mọi người hiểu tường tận người Mỹ là ai, người Mỹ là thế nào, để mọi người có thể nhận diện khi gặp một người Mỹ!
Một người Mỹ có thể là một người Anh, hoặc người Pháp, người Ý, người Ái Nhĩ Lan, người Đức, người Tây Ban Nha, người Ba Lan, người Nga hoặc người Hy Lạp.
Một người Mỹ cũng có thể là một người Canada, người Mễ Tây Cơ, người từ Châu Phi, người Ấn Độ, người Trung Quốc, người Nhật, người Việt Nam, người Hàn Quốc, người H’ Mông, người Khmer, người Thái Lan, người Úc, người Mã Lai, người Iran, người Trung Đông, người Ả Rập, người Pakistan hoặc người Afghanistan.
Một người Mỹ còn có thể là người Comanche, người Cherokee, người Osage, người Blackfoot, người Navaho, người Apache, người Seminole hoặc là con dân của một trong những bộ tộc thổ dân da đỏ bản địa Mỹ trước kia.
Người Mỹ có thể theo đạo Thiên Chúa giáo, đạo Tin Lành, Do Thái giáo, đạo Phật, đạo Hồi.
Sự thật là số người theo đạo Hồi ở Mỹ đông hơn là ở Afghanistan.
Sự khác biệt duy nhất là ở Mỹ, người ta có thể tự do sùng bái một tín ngưỡng nào đó mà họ đã lựa chọn.
Người Mỹ cũng có thể là một người được quyền tự do không tin vào bất kỳ tín ngưỡng nào.
Chính vì thế mà họ sẽ chỉ phải trả lời trước Thượng Đế, chứ không phải là trước nhà cầm quyền hoặc trước một nhóm vũ trang nào đó tự phong cho mình cái quyền phát ngôn thay cho nhà cầm quyền hay Thượng Đế.
Người Mỹ sống trong một đất nước trù phú nhất thế giới.
Cội nguồn của sự trù phú này là ở Tuyên ngôn Độc Lập của họ, thừa nhận rằng Thượng Đế đã ban cho mỗi người cái quyền được tự do mưu cầu hạnh phúc.
Người Mỹ rất độ lượng.
Người Mỹ đã chìa tay ra để giúp đỡ tất cả những dân tộc nào cần đến mình trên thế giới, mà chưa bao giờ đòi hỏi được trả ơn.
Khi đất nước Afghanistan bị xâm chiếm bởi quân đội Soviet 20 năm trước đây, người Mỹ đã đến cùng với vũ khí và tiếp liệu giúp cho người dân xứ này đứng lên giành lại đất nước!
Trước ngày 11 tháng 9 định mệnh ấy, Người Mỹ đã viện trợ cho dân nghèo Afghanistan với số lượng nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới.

Biểu tượng quốc gia của Mỹ.
Tượng Nữ Thần Tự Do chào mừng những người đói nghèo và kiệt sức, những người đã bị chính quê hương mình từ chối, những kẻ vô gia cư, những người bị dập vùi sau cơn bão tố!
Thế rồi, sau đó chính họ là những người đã xây dựng nên nước Mỹ của ngày hôm nay!
Một số người trong số họ đang làm việc tại Tòa Tháp đôi vào buổi sáng 11 tháng 9 năm 2001, phấn đấu làm sao có được một mức sống tốt hơn cho gia đình của mình!
Thống kê cho thấy các nạn nhân ở tòa Tháp Đôi hôm ấy đã đến từ ít nhất 30 quốc gia, nền văn hóa, và ngôn ngữ ban đầu khác nhau, kể cả những kẻ trước kia đã từng giúp đỡ và ủng hộ các tên khủng bố.
Vậy bạn hãy cố gắng giết một người Mỹ nếu bạn thực sự phải làm như thế!
Hitler đã giết!
Tướng Tojo của phát xít Nhật cũng đã giết!
Stalin, Mao Tse-Tung, cùng các tên bạo chúa khát máu khác trên thế giới cũng đã giết !...
Nhưng khi giết hại người Mỹ như vậy tức là bạn đã tự giết hại chính mình!
Vì người Mỹ không phải là một người đặc biệt ở một nơi đặc biệt nào đó trên trái đất này.
Họ là hiện thân cho tinh thần tự do của loài người!
Tất cả những người cùng đề cao tinh thần tự do ấy, cho dù họ ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này thì cũng được xem như là một người Mỹ!
Hãy để thông điệp này bay đi!
Xin hãy để nó bay đi khắp thế giới!
Hãy giúp nó luân chuyển giữa tất cả các bạn bè của chúng ta.
Nó sẽ nói lên tất cả, nói tiếng nói tự do chung cho tất cả chúng ta!
Xin đừng xóa mà hãy gửi nó đi!
Xin cảm ơn tất cả các bạn!
ồng Ngọc Khanh biên dịch
(Lá thư này được viết bởi một nha sĩ người Úc. Biên dịch theo bản gốc tiếng Anh)

23 thg 6, 2011

CSVN TRÊN BÚA DƯỚI ĐE



CSVN TRÊN BÚA DƯỚI ĐE

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN

Trên Diễn Đàn, có nhiều Bài phân tích về vấn đề An Ninh Biển Đông. Nhưng đối với Việt Nam và Trung quốc, đó là vấn đề CHỦ QUYỀN HẢI ĐẢO VÀ BIỂN VÂY QUANH. Về An Ninh Biển Đông, thì Tầu và Mỹ nhân nhượng dàn xếp với nhau không khó khăn.

Nhưng vấn đề Chủ quyền Hải đảo và Biển vây quanh mới là điều chính yếu mà chúng tôi phân tích hoàn cảnh ngày 16.06.2011 dưới đầu đề HỌA VÔ ĐƠN CHÍ CHO CSVN. Bộ Chính trị CSVN biết rõ rệt là đảng CSVN đang kê đầu ở giữa BÚA (Tầu) và ĐE (Dân chúng VN). Có thể lấy đầu đề của Bài phân tích cho cụ thể hơn: CSVN TRÊN BÚA DƯỚI ĐE.

Trung quốc chắc chắn không nhả Hoàng Sa, Trường Sa và Biển vây quanh vì họ muốn khai thác cho bằng được Dầu khí mà họ đang thiếu thốn. Vì Tài nguyên của vùng các Quần đảo này, mà Trung quốc đã không còn nghĩ đến 16 chữ vàng là gì, nên nhất định giáng BÚA xuống đầu CSVN. Dân chúng Việt Nam thì không thể chịu được việc mất các Hải đảo này và Biển vây quanh.

Chỉ trong tháng tới, khi Trung quốc mang dàn khoan Dầu xuống Trường Sa, thì CSVN khó lòng lấy lại Chủ quyền Hải đảo cho Việt Nam. Đó là nhát BÚA thứ nhất giáng vào đầu CSVN.

Dân chúng Việt Nam, trước cảnh mất Hài đảo mà cái lỗi là do đảng CSVN đã bán cho Trung quốc từ thời Hồ Chí Minh/Phạm Văn Đồng, trở thành hoàn toàn phẫn nộ. Bất lực không lấy lại được Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa và Biển vây quanh, Dân chúng sẽ từ phong trào chống Tầu xâm lăng chuyển sang Phong trào TÌM GIẾT THỦ PHẠM (CSVN) đã bán đứng những Hải đảo ấy mà nay không đòi được lại.

Chính Trung quốc đẩy CSVN xuống hố và Dân chúng VN lấy đất chôn vùi cái đám CSVN Ma-ca-rồng (Dracula) đi cho rồi.

Nguyễn Phúc Liên

Từ mấy tháng nay, chúng tôi viết về tình trạng tụt dốc Kinh tế Việt Nam và Lạm phát tăng vọt, Vật giá phi mã, làm dân chúng khổ cực. Tất cả tình trạng đau đớn này cũng chỉ vì Cơ chế CSVN chủ trương Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế để Tham nhũng Lãng phí sinh ra như giòi bọ từ trung ương đến địa phương.

Đây là cái HỌA THỨ NHẤT làm cho CSVN đang đi đường dốc xuống vực thẳm vỡ tan tành, tanh banh. Cuộc NỔI DẬY của đại đa số quần chúng nghèo DÂN OAN/CÔNG NHÂN chống BẤT CÔNG và của Giáo dân Công giáo đòi CÔNG LÝ chỉ cần tiếp sức đẩy việc tụt dốc CSVN mau nhào xuống vực thẳm.

Nhưng cái HỌA THỨ HAI vừa xẩy ra cho cả đảng CSVN, đó là do chính quan thầy Trung Cộng giáng xuống cho. Đảng CSVN đã tròng vào cổ CÔNG HÀM BÁN NƯỚC ký bởi Phạm Văn Đồng do lệnh của Hồ Chí Minh. Cả đảng CSVN, thậm chí cả những đảng viên phản tỉnh vẫn dấu CÔNG HÀM BÁN NƯỚC này như mèo dấu cứt. Không những vậy, cả đảng con cháu Hồ Chí Minh/ Phạm Văn Đồng, vẫn ham quyền và ham tiền bạc, đã tiếp tục bán biên giới, bán tài nguyên nội địa cho Trung quốc để vơ vét tiền bạc cho túi riêng.

Vụ việc gần đây là Trung quốc cắt cáp lần nhất tầu Bình Minh 2 và lần hai tầu Viking 2. Hai tầu này chỉ có mục đích thăm dò dầu khí trong vùng Biển Đông thuộc Việt Nam. Gíao sư Carle THAYER nói việc cắt cáp lần nhất tầu Bình Minh 2 có thể chỉ là sự cố, nhưng việc cắt cáp lần hai tầu Viking 2 thì rõ ràng là chủ trương khẳng định Chủ quyền trên cả vùng Biển Đông này.

Với lo lắng bành trướng thương mại trên Thế giới, Trung quốc phải tìm lý do để biện minh cho thái độ của mình. Cái lý do mà họ đưa ra là từ năm 1958, họ tuyên bố chủ quyền 12 dậm về biển cả từ thềm đất liền. Chủ quyền này chính CÔNG HÀM BÁN NƯỚC Hồ Chí Minh/Phạm Văn Đồng đã chấp nhận. Khi cái Lưỡi bò Trung quốc liếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thì hai quần đảo này gọi là đất đai của họ và họ từ đó tính ra 12 dậm làm Biển của họ. Vì CÔNG HÀM BÁN NƯỚC ấy mà Trung quốc coi việc tầu Bình Minh 2 và tầu Viking 2 thăm dò dầu khí và các tầu ngư dân Việt Nam đánh cá là vi phạm hải phận của họ, nên họ cắt cáp và bắn giết ngư dân VN đánh cá.

Theo Bản Tin dưới đây của FreeVietNews (Posted on 15 Jun 2011), thì không phải Trung quốc cắt cáp lần nhất tầu Bình Minh 2 như một sự cố và cắt cáp lần hai tầu Viking 2 như một Chủ trương theo Gíao sư Carle THAYER, mà còn là một ý đồ Khai thác vĩnh viễn tài nguyên dầu khí cho họ dưới vùng lưỡi bò này mà Hô Chí Minh/Phạm Văn Đồng đã công khai chấp nhận:

Bản Tin của FreeVietNews như sau:

“TRUNG CỘNG SẮP BỐ TRÍ GIÀN KHOAN DẦU KHỔNG LỒ Ở BIỂN NAM TRUNG HOA

Tin Bắc Kinh - Báo chí Trung Cộng đưa tin một dàn khoan dầu nước sâu sẽ được thử nghiệm để chuẩn bị bố trí trong hải phận nằm về phía nam của Hoa lục. Báo chí nhà nước Trung Cộng đưa tin một giàn khoan dầu nước sâu vĩ đại có tên tiếng Anh là Marine Oil 981 sẽ được mang ra thử nghiệm lần đầu tiên trong tuần này để chuẩn bị bố trí tại biển Nam Trung Hoa vào tháng 7. Công tác bố trí giàn khoan chìm phân nửa dưới nước này được tiến hành vào lúc căng thẳng tăng cao tại hải phận mà Việt Nam gọi là Biển Ðông. Phải mất hơn 3 năm và tốn trên 900 triệu đôla để xây giàn khoan này. Ngay khi vừa xây xong, chính phủ Phi Luật Tân đã tỏ ý quan tâm và đã chất vấn Trung Cộng xem họ định đặt nó ở đâu.

Báo chí Trung Cộng nói dàn khoan này dài 114 thước, cao 140 thước và nặng 31,000 tấn. Theo công ty đóng tàu quốc doanh Trung Cộng, dàn khoan này có thể đào sâu ở mặt biển đến 3 cây số, và mũi khoan có thể đi sâu đến 12 cây số. Các kỹ sư nói với báo chí nhà nước Trung Cộng giàn khoan này được thiết kế đặc biệt để hoạt động tại hải phận gập ghềnh của biển Nam Trung Hoa.

Dù Phi Luật Tân đã lên tiếng, nhưng nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam vẫn hoàn toàn im lặng không dám đặt câu hỏi hay phản đối, cho thấy sự khiếp nhược của chế độ độc tài hiện nay tại Việt Nam chỉ biết đàn áp dân mà hèn nhát với quan thày Trung cộng.(SBTN)”

Đảng CSVN đã giấu việc bán Biển của Hồ Chí Minh/ Phạm Văn Đồng như mèo dấu cứt. Nay Trung Cộng, người anh em hữu nghị với 16 chữ vàng đã khơi đống cứt đó ra.

Những cuộc Biểu tình của Giới Trẻ, Trí thức, Tư doanh gần đây chỉ nhấn mạnh đến chống Trung quốc xâm lăng. Họ chưa nắm vững rằng ngoài tính xâm lăng của Trung quốc, còn cái tội BÁN BIỂN của Hồ Chí Minh/Phạm Văn Đồng.

Vấn đề Biển Đông không phải chỉ là tranh chấp biển cả suông, mà chính là việc tranh chấp QUYỀN LỢI, nhất là dầu khí nằm dưới Biển Đông. Khi nói đến tranh chấp QUYỀN LỢI tài nguyên, nhất là dầu khí, thì Trung quốc khó nhả ra và tất nhiên Việt Nam khó đòi lại. Khi CSVN không đòi lại được QUYỀN LỢI (đây là việc hầu như bất lực!), thì Giới trẻ7Trí thức/Tư doanh VN, từ sự bất lực đòi lại QUYỀN LỢI dầu khí cho Việt Nam, sẽ đẩy việc NỔI DẬY từ chống xâm lăng Trung quốc sang hạch tội BÁN NUỚC của đảng CSVN. Cái tội này Trời không tha Đất không dung, nghĩa là phải dứt điểm tiêu diệt đảng CSVN bán nước.

Kinh tế đang là cái HỌA THƯ NHẤT. Tội BÁN NƯỚC sẽ là cái HỌA THỨ HAI cho CSVN. Họa vô đơn chí là ở chỗ đó vậy.

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế

22 thg 6, 2011

TUYÊN CÁO CỦA BỘ TRƯỞNG NGOẠI GIAO VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG GÂY HẤN CỦA TRUNG CỘNG TRONG KHU VỰC ĐẢO HOÀNG SA (NGÀY 19.1.1974)


TUYÊN CÁO CỦA BỘ TRƯỞNG NGOẠI GIAO VIỆT NAM CỘNG HÒA
VỀ NHỮNG HÀNH ĐỘNG GÂY HẤN CỦA TRUNG CỘNG
TRONG KHU VỰC ĐẢO HOÀNG SA
(NGÀY 19.1.1974)

Nguyên văn:

Sau khi mạo nhận ngày 11.1.1974 chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng - Sa và Trường-Sa của Việt Nam Cộng-Hòa, Trung cộng đã đưa Hải-quân tới khu vực Hoàng- Sa, và đổ bộ quân lính lên các đảo Cam -Tuyền, Quang -Hòa và Duy -Mộng.

Lực lượng Hải -quân Trung -Cộng gồm 11 chiến đỉnh thuộc nhiều loại và trọng lượng khác nhau, kể cả một tàu loại Komar có trang bị hỏa tiễn.

Để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền an ninh quốc gia trước cuộc xâm lăng quân sự này, các lực lượng Hải quân Việt-Nam Cộng-Hòa trấn đóng trong khu vực này đã ra lệnh cho bọn xâm nhập phải rời khỏi khu vực.

Thay vì tuân lệnh, các tàu Trung-Cộng, kể từ 18.1.1974, lại có những hành động khiêu khích như đâm thẳng vào các chiến đỉnh Việt-Nam.

Sáng ngày nay, 19.1.1974 hồi 10h20, một hộ-tống hạm Trung-Cộng thuộc loại Kronstadt đã khai hỏa bắn vào khu vực hạm “Trần Khánh Dư” mang số HQ-04 của Việt-Nam Cộng-Hòa. Để tự vệ, các chiến hạm Việt-Nam đã phản pháo và gây hư hại cho hộ tống hạm Trung Cộng. Cuộc giao tranh hiện còn tiếp diễn và đang gây thiệt hại về nhân mạng và vật chất cho cả đôi bên.

Các hành động quân sự của Trung Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ Việt-Nam Cộng-Hòa, và một lần nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc mà Trung Cộng liên tục theo đuổi, đã được biểu lộ qua cuộc thôn tính Tây Tạng, cuộc xâm lăng Đại Hàn và Ấn Độ trước kia.

Việc Trung Cộng ngày nay xâm phạm lãnh thổ Việt Nam Cộng-Hòa không những chỉ đe dọa chủ quyền an ninh của Việt Nam Cộng Hòa mà còn là một hiểm họa đối với nền hòa bình và ổn cố của Đông Nam Á và toàn thế giới.

Với tư cách một nước nhỏ bị một cường quốc vô cớ tấn công. Việt Nam Cộng Hòa kêu gọi toàn thể các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình trên thế giới hãy cương quyết lên án các hành vi chiến tranh thô bạo củaTrung Cộng nhằm vào một quốc gia độc lập và có chủ quyền để buộc Trung Cộng phải tức khắc chấm dứt các hành động nguy hiểm đó.

Làm ngơ để cho Trung Cộng tự do tiến hành cuộc xâm lấn trắng trợn này là khuyến khích kẻ gây hấn tiếp tục theo đuổi chánh sách bành trướng của chúng và sự kiện này đe dọa sự sống còn của những nước nhỏ đặc biệt là những nước ở Á Châu.

Trong suốt lịch sử, dân tộc Việt Nam đã đánh bại nhiều cuộc ngoại xâm. Ngày nay, Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa cũng nhất định bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia.


(Tài liệu ronéo của Bộ Ngoại Giao, Sài Gòn,
Số 015/BNG/ TTBC/ TT)


TUYÊN CÁO CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA TRÊN NHỮNG ĐẢO Ở NGOÀI KHƠI BỜ BIỂN

VIỆT NAM CỘNG HÒA

Nguyên văn:

Nghĩa vụ cao cả và cấp thiết của một chánh phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và sự vẹn toàn lãnh thổ của quốc gia. Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết làm tròn nghĩa vụ này, bất luận những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp những sự phản đối không căn cứ dầu phát xuất từ đâu.

Trước việc Trung Cộng trắng trợn xâm chiếm bằng vũ lực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa thấy cần phải tuyên cáo long trọng trước công luận thế giới cho bạn cũng như thù biết rõ rằng:

Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy.

Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ ấy của Việt Nam Cộng Hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng Hòa còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình.

Kẻ xâm chiếm phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi tình trạng căng thẳng có thể do đó mà có.

Trong dịp này, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những hải đảonằm ở ngoài khơi bờ biển Trung Phần và bờ biển Nam Phần Việt Nam, từ trước tới nay vẫn được coi là một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tại không chối cãi được.

Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những đảo ấy bằng mọi cách.

Trung thành với chánh sách hòa bình cố hữu của mình, Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy, nhưng nhất định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên những phần đất này.

Làm tại Saigon, ngày 14 tháng 2 năm 1974.
Nguồn: Tập san Sử Địa, tập 29.

20 thg 6, 2011

Khi Nước Toàn Có Lậu


Khi Nước Toàn Có Lậu
Nguyễn Xuân Nghĩa

Là khi nước Tầu có loạn....

Dư lụy lạc hề, quân lụy lạc
Ca thanh cao dã, khấp thanh cao!


Sau những biến động ngoài Đông hải và trước những cuộc thử lửa sắp tới, chúng ta đừng nên giận dữ lãnh đạo Bắc Kinh. Mà nên thương họ! Họ đáng thương lắm, xin độc giả dằn hỏa xuống để đọc tiếp....


Chẳng là suốt một tuần qua, Quảng Đông lại dậy mùi Tứ Xuyên. Khét lẹt.

Ngày mùng sáu Tháng Sáu, thị trấn Triều Châu của Quảng Đông có loạn vì một số dân công biểu tình phản đối về chuyện lương lậu và xô xát với lực lượng thành quản. "Dân công" là di dân từ nơi khác đến kiếm việc và kiếm ăn. "Thành quản" là bọn đầu gấu mặc đồng phục để bảo vệ trật tự của thành phố, nhưng hèn hơn cảnh sát, ác hơn công an và... mất dậy có đăng ký.

Đầu đuôi là có chú dân công 19 tuổi tự trói mình vào hàng rào để phản đối việc cha mẹ bị hãng xưởng quịt lương nên bị thành quản lên gối thấy tam tinh. Đám dân công bèn nổi đoá và tờ Global Times báo cáo là có 200 người nhập cuộc đánh lộn với thành quản. Tờ Dương Thành Vãn báo kể lại là có 40 xe hơi bị phá tan tành! Báo đảng nói là không sai được!

Bốn ngày sau, mùng 10, cũng tại Quảng Đông nhưng cách đó 400 cây số, ở thị trấn Tăng Thành trong khu vực phụ cận của thành phố Quảng Châu, một phụ nữ bán hàng rong bị thành quản đánh gần trụy thai. Chị ta cũng là gốc dân công. Vụ đàn áp đê tiện gây ra ba ngày hỗn loạn ở Tăng Thành.

Đầu đuôi chỉ vì lũ thành quản mẫn cán dẹp các gánh hàng rong đang kiếm chút bạc cắc ngoài lề một cửa hàng bách hóa. Dùng chữ mẫn cán là đúng vì chúng phang lên đầu lũ dân công những đòn nặng như cán búa. Ngẫu nhiên sao, đám dân công này đều là dân Tứ Xuyên.

Muốn hiểu tại sao lại là Tứ Xuyên, xin quý vị tìm đọc lại bài "Vịt Tứ Xuyên" đã đăng trên Việt Báo và có yết lại trên dainamax.org.

Bị khuyển ưng thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đám dân công Tứ Xuyên bèn gọi nhau ơi ới. Và biểu tình, rồi dàn trận với lũ thành quản. Cảnh sát bèn nhảy vào can cả đôi bên, cũng lại với cái cán, làm khách qua đường bèn nổi điên nhảy vào. Ta có bốn lực lượng lâm chiến loạn đả, là dân công, thành quản, cảnh sát, và khách vô can gốc Quảng Đông.

Ba ngày khói lửa tại Tăng Thành với cả ngàn dân công Tứ Xuyên từ các nơi khác tụ về, có nhiều người đến từ Triều Châu. Như vậy chúng ta có chuyện đồng hương đùm bọc lẫn nhau và tất nhiên là họ phải có hệ thống liên lạc giữa đám "tong xiang" này.

Tứ Xuyên là một vựa người - thưa rằng dân số là hơn 82 triệu - bằng cả nước Đức chứ không ít. Nhưng rất đông những người đói khát nơi đó phải tha phương cầu thực và nương tựa vào nhau chứ chẳng có cái tổ tam tam hay chi bộ chi đoàn nào cả. Họ lập ra "xã hội dân sinh" con con, mini civil society qua một mạng lưới liên kết để giải quyết chuyện tương tế.

Trong lực lượng dân công lầm than toàn quốc - chừng 150 triệu người - dân Tứ Xuyên là một mũi nhọn. Nơi đất khách quê người, họ bị bọn chủ nhân trấn lột, bị địa phương trấn áp, nên đã đan lưới rất rộng và rất bền để đùm bọc lẫn nhau. Vì vậy, dù cách nhau 400 cây số và bốn ngày đường, trận chiến tại Triều Châu và Tăng Thành đã hòa làm một.

Để trở thành vấn đề địa phương, khiến trung ương phải giật mình.

Trung ương giật mình vì bọn dân công gốc Tây Xuyên đang tự tổ chức với cùng phương pháp của dân Tây Tạng, hay dân Hồi giáo Tân Cương, và dân Nội Mông! Ngày xưa, thực dân Pháp gọi trò liên lạc theo kiểu rỉ tai đó tại Đông Dương là "radio bambou", hay tại Bắc Phi là "radio Arabe".

Ngày nay, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc đã văn minh hơn, nên một số dân chúng đã có cell phone và internet. Họ cũng có mạng lưới xã hội kiểu social network chớ bộ!

Mà nói đến Tứ Xuyên - hoàn toàn không phải là tin vịt hay món vịt quay giòn tan - thì một dọc từ trên xuống gồm có đảng, nhà nước, mật vụ, công an võ trang, cảnh sát hay thành quản, v.v... đều nhớ đến vụ nổi loạn của di dân Tây Tạng tại Tứ Xuyên năm 2008, trước Thế vận hội Bắc Kinh.

Rồi vụ nổi loạn của dân Tứ Xuyên sau trận động đất Vấn Xuyên ở nơi đây khiến năm triệu người lâm cảnh màn trời chiếu đất, ít ra là bảy vạn người chết, trong đó có chừng một vạn trẻ em. Lũ trẻ bị chôn vùi khi bảy ngàn lớp học của loại trường ốc xây theo lối kiến trúc "tào hủ" thoải mái sụp lên đầu.

Đảng và nhà nước khai báo là chỉ có năm ngàn nạn nhân trẻ nít thôi, nhưng dân Tứ Xuyên cũng biết đếm. Và còn biết chơi chữ: họ gọi loại dự án xây trường đó là "đậu phụ tra học hiệu" - trường học làm bằng bã đậu!

Khi nổi loạn và bị đàn áp tra tấn, họ gọi nhau lập chiến tuyến và xung đột kéo dài từ Tháng Tám năm 2008 qua đến Tháng Chín! Chuyện lớn như vật thì thủ phủ Thành Đô rúng động, làm sao trung ương ở Bắc Kinh không biết?

Bây giờ, lũ thành quản đầu gấu lại chọc giận dân Tứ Xuyên khi mà nhiều thành phần dân chúng ở nơi khác cũng thấy ứa gan và gọi nhau đi làm loạn.

Lại còn học nhau đi làm loạn.

Khi bọn hải giám - một lũ thành quản có phao - chơi bạo ngoài khơi Vũng Tầu với tầu Viking II của Việt Nam vào ngày chín Tháng Sáu, thì trụ sở Công an của hai tỉnh bên trong bị đặt bom và trụ sở đảng tại Thiên Tân bị tấn công! Làm sao mà Bắc Kinh chẳng hốt hoảng, vì cái kiểu chơi bạo này không lạ mà quen: y hệt như vụ Phủ Châu của tỉnh Giang Tây vào ngày 26 Tháng Năm, ngày hải giám lập thành tích với tầu Bình Minh 02 của Việt Nam! Tội nghiệp.

Ngày 26 đó, ba địa điểm khác nhau bị đặt bom. Hung thủ chẳng là một tay khủng bố tự sát mà chỉ là một người dân phẫn nộ đến cùng quẫn vì bị cướp đất mà sau 10 năm khiếu nại không có kết quả nên cho nổ bom. Và tự giải thoát khỏi thiên đường cộng sản.

Hình như tấm gương đem thân làm đuốc soi đường kiểu đó đã khiến nhiều người noi theo. Hôm mùng chín Tháng Sáu mới có ba vụ... tập huấn chết người.

Đầu tiên là trụ sở Công An trên một cao ốc bốn tầng của địa khu Hoàng Thạch trong tỉnh Hồ Bắc bị đặt bom vào lúc nửa đêm. "Địa khu" là đơn vị hành chánh khá lớn, dưới cấp tỉnh mà trên cấp huyện, và Hoàng Thạch có hơn hai triệu rưởi cư dân chứ không nhỏ. Cao ốc bốn tầng bị sạt mất sườn và đổ ụp như một bánh đậu phụ! Công an bèn báo cáo lên là gian thương trữ chất nổ mà bị tai nạn, chứ không đến nỗi nào.

Gian thương mà lại trữ chất nổ trong trụ sở công an?

Hai giờ sau, cách đó hơn 900 cây số, hình như gian thương cũng lại... lỡ tay, và cũng tại một trụ sở Công An trong thủ phủ Trịnh Châu của tỉnh Hà Nam! Từ Hoàng Thạch mà... đi xe lửa cao tốc đến Trịnh Châu thì cũng mất năm tiếng nếu như có xe cao tốc. Gian thương Hoàng Thạch không thể là tác giả hay chủ mưu của vụ Trịnh Châu.

Có ai đó đã bắt chước ai và đặt bom làm loạn!

Hiển nhiên vậy vì chất nổ là loại có pha chế, đòi hỏi một trình độ nghiệp vụ mà gian thương buôn lậu không thể có. Ai đó đã lặng lẽ làm bom, dù là theo kiểu thủ công nghệ thì cũng là có công nghệ!

Mờ sáng hôm sau, đến lượt thành phố Thiên Tân được chiếu cố. Trụ sở đảng tại quận Hà Tây của thành phố bỗng có pháo ran vì một người dân bất mãn ném liên tiếp năm quả bom tự chế vào trong. Theo đúng nét văn hóa Trung Hoa là nêu cao chính nghĩa trước khi hài tội, tay bất mãn này xưng danh Lưu Trường Hải và đưa thư ngỏ đả kích đảng Cộng sản Trung Quốc trước khi ném bom!

Đến chỗ này thì địa phương không thể lấp liếm báo cáo lên trên: "dạ thưa thủ trưởng, chỉ là bọn gian thương bất cẩn mà thôi"!

Tại Trung Quốc, người dân có chán vạn điều gây ra bất mãn. Đó là hoàn cảnh gọi là "nước toàn có lậu" vì bước ra khỏi nhà là có chuyện bất bình với đời sống và hệ thống cai trị. Mà ở trong nhà cũng chẳng yên, trong hãng cũng chẳng lành. Vì vậy, nơi nơi đều có những vụ phẫn nộ, đập phá - hoặc tự sát. Chuyện ấy đã thường.

Chuyện bất thường là ngày càng có những vụ phản ứng tập thể, tức là biểu tình, khiếu kiện và dàn trận với thành quản hay công an. Và có trình độ nghiệp vụ cao hơn là chỉ đốt xe hay chế bom xăng.

Mà thành phần tham dự cũng ngày một "phức tạp", tức là đủ mọi loại người.

Từ đầu Tháng Sáu, Tứ Xuyên - lại Tứ Xuyên - có các vị sư Tây Tạng xuống đường và bị đánh, sau khi một vị đã tự thiêu gần hai tháng trước đó. Trước khi mất, cơ thể còn được công an chiếu cố cho thêm bấy nhầy. Qua mùng tám thì có dân Mông Cổ tại Nội Mông nổi cơn mông muội với Thiên triều vì một tai nạn xảy ra mùng 10 tháng trước. Nội Mông bỗng khói lửa mịt mù.

Mà chẳng cứ dị tộc mông muội như Mông Cổ hay Tây Tạng, hay người Miêu. Nhiều người thuộc tộc Hán đầy cao quý cũng nổi điên và theo nhau chế bom, bảo nhau liệng đá. Chưa nói đến đám sinh viên trí thức bị nhiễm độc vì hương hoa nhài mà đòi dân chủ, và nêu câu hỏi về Ngải Vị Vị, Lưu Hiểu Ba. Hai nghệ sĩ đó bị giam tại đâu, tội gì?

Kể ra không hết được những nỗi băn khoăn của lãnh đạo, vì đảng gặp trăm mối ngổn ngang.

Khi nước toàn có lậu như vậy thì nước Tầu có loạn. Trung ương biết rõ hơn chúng ta và rút ra kết luận đó từ đã lâu. Kết luận rồi cũng chửa biết tính sao.

Vì, thưa đồng chí Ôn Tổng lý, tại Lợi Xuyên của Hà Bắc, bọn biểu tình lên tới gần hai vạn đứa. Cả thị xã hơn bảy vạn dân mà có tới hai vạn phản động! Chưa đáng sợ bằng nạn lạm phát, thưa đồng chí! Dù là con số chính thức của ta, tứ là có trừ bì gia giảm, thì vẫn là vượt mức báo động! Có đồng chí báo cáo lên Chủ tịch Hồ Cẩm Đào rằng nhờ nạn hạn hán 50 năm mới có một lần nên mình bớt lo nạn lạm phát, nhưng thưa đồng chí, hạn hán làm đập Tam Hiệp đang rung rinh lại có thể bục! Sẽ mất bốn chục tỷ đô la và vài triệu dân chứ không ít... Chưa kể nạn động đất do chính chúng ta gây ra với cái đập Tam Hiệp Đại bá này!

Đúng lúc ấy, bong bóng bay qua: coi chừng bể bóng đầu tư!

Mà nào chỉ có vậy!

Tờ Forbes của bọn doanh gia phản động đã theo lời Mỹ đế mà tri hô rằng nhiều đảng viên cao cấp của ta bỏ đảng chạy lấy người và của. Đa số là các đồng chí phụ trách an ninh, và nạn tẩu tán tài sản lên đến hơn 123 tỷ đô la. Chuyện nhỏ, thưa đồng chí, các công ty đầu tư địa phương có khi còn bào thêm ngàn tỷ đô la của ngân hàng vì những dự án tầu hủ....

Chung quanh các đồng chí lãnh đạo, mọi người cứ ào ào báo cáo như ong!

Cho nên, như cụ Cố Hồng của Vũ Trọng Phụng, lãnh đạo thở hắt: "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!..."

Hỏi có đáng thương không nào?

Người Việt ta đều thấm vào xương tủy cái câu "khi nước Tầu có loạn". Vì đấy là lúc dân ta vùng dậy bước ra khỏi trật tự Trung Quốc. Nhưng, nói chuyện đây đấy làm chi? Đấy là thời phong kiến, chứ đây là thời dân ta xây dựng xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa....

Bỗng muốn khóc òa!

Nguyễn Xuân Nghĩa

Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới


Lá Thư Từ Bên Kia Thế Giới


Bác sĩ Alizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết: "Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì nó làm gián đoạn sự liên tục của đời sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy. Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp diễn. Lá cây rụng để nhường chỗ cho những mầm non xuất hiện, hết mùa đông lại có mùa xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt, đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận những lý thuyết mơ hồ nào đó được".

Sau đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La revue spirite:

Bác sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử. Cậu con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: "Nếu đã chết, làm sao cha có thể liên lạc với con được?" Bác sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: "Cha không tin có một đời sống hay cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con". Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: "Xin cho gọi bác sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi". Ðược thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cơ bút này. Một người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành một bức thư như sau:

Các con thân mến,

Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội.

Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy trong người mệt mõi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Ðang vẫy vùng trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.

Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.

Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác, không hề biết thương yêu. Ðây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặc câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Ðiều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được. Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Ðến khi đó cha mới thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.

Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người sống tại đây. Ðiều này có thể giải thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.

Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương thơ phú v.v.... Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau lại bị coi là "cổ hủ, lỗi thời"; và như cha được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.

Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt. Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Ðừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Ðời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.

Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang nhũng thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản vất chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự, để họ tiến lại gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ đến.

Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên các nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sực của nó. Cũng như sống biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Ðiều cần thiết không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề khổ sở.

Bác sĩ Henri Desrives.

* Nhà văn Nguyên Phong biên soạn và dịch thuật.

16 thg 6, 2011

Niềm tin của Trung Hoa



Niềm tin của Trung Hoa
Ngô Văn Lang

Người Trung Quốc rất hiểu Việt Nam. Họ có mặt ở Việt Nam rất đông, với nhiều lí do: làm ăn buôn bán, hợp tác, và không loại trừ cả mục đích do thám. Gián điệp Trung Quốc đã có mặt ở Việt Nam từ thời An Dương Vương, chui vào tận nơi cao nhất của bộ máy cầm quyền. Không một người Việt nào lại không biết điều này. Thất bại của An Dương Vương đã mở đầu cho một ngàn năm Bắc thuộc đau khổ của cả dân tộc. Người Trung Quốc có thể nói tiếng Việt như người Việt. Kể cả những người không ở Việt Nam cũng rất hiểu Việt Nam vì họ nghiên cứu Việt Nam rất kỹ.

Trung Quốc hiểu rõ Việt Nam đương đại ở mấy điểm sau đây:

Việt Nam đang suy yếu về mọi phương diện. Biểu hiện dễ thấy nhất là về kinh tế: lạm phát tăng liên tục và chưa nhìn thấy khả năng kiềm chế và khắc phục. Nhiều vùng hiện nay đang lâm vào cảnh đói ăn.
Suy yếu về kinh tế tất yếu dẫn tới suy yếu về quân sự. Bởi lấy đâu ra ngân sách để đầu tư đúng mức cho quân sự. Trong khi đó thì thất thoát tài chính kinh hoàng diễn ra hàng ngày ở mọi lĩnh vực, mà một ví dụ điển hình giờ đây không ai còn có thể chối cãi là Vinashin.

Điều quan trọng là người Việt Nam đang suy yếu về tinh thần. Hiện nay chỉ có một bộ phận rất nhỏ trong tổng số hơn tám mươi lăm triệu người là còn dám phân tích, dám suy nghĩ, dám đối diện với thực tế và dám nắm bắt thực tế. Đại bộ phận hoặc bị tê liệt các khả năng ấy vì sợ hãi, hoặc các khả năng ấy bị bóp nghẹt từ trong trứng nước, đầu óc chỉ còn có thể tiếp nhận các chỉ thị một chiều từ trên xuống và thực hiện chỉ thị một cách vô điều kiện. Đa số người dân Việt Nam không quan tâm đến thực trạng của đất nước mình, không quan tâm đến những gì đang đe dọa cuộc sống của mình và vận mệnh của đất nước mình. Đa số đều thực hành triết lí: sống ngày nào biết ngày đó. Chính quyền tưởng đã thành công khi làm cho dân chúng sợ mình, nhưng đó là một sai lầm trầm trọng, vì giờ đây, khi phải đối diện với sự suy thoái kinh tế, đối diện với sự đe dọa của ngoại xâm, thì những người dân đó không còn đủ khả năng để ứng phó với tình hình. Trung Quốc không mong gì hơn điều đó.

Trung Quốc hiểu rằng, với cơ chế và cách thức vận hành xã hội hiện tại, năng lực của người Việt Nam bị suy yếu.

Các “năng lực”, “phẩm chất” hiện được đặc biệt phát triển ở người Việt Nam là:

- Khả năng lấy lòng người khác, làm hài lòng cấp trên.
- Khả năng chịu đựng, nhẫn nhục. Chữ “nhẫn” của Tàu được bày bán đầy ở Văn Miếu mỗi dịp xuân về, nhắc cho người Việt Nam biết rằng nhẫn nhục là con đường sống của họ. Họ tưởng rằng như vậy là khôn ngoan, nhưng kết cục là nhà nhà nhẫn nhục, người người nhẫn nhục sẽ có một quốc gia nhẫn nhục, hệ quả là sự suy yếu tập thể. Trung Quốc không mong gì hơn điều đó.
- “Năng lực” phục tùng, vâng lời. Đây là một “phẩm chất” được đánh giá cao trong hệ thống nhà nước. Những người thành công nhờ vâng lời tất yếu cũng muốn người khác phải vâng lời họ, họ sẽ kìm hãm những người có khuynh hướng hoạt động độc lập, có khả năng suy nghĩ độc lập. Vì thế, khi mà sự phục tùng được đề cao thì hiệu quả công việc bị sụt giảm, bộ máy nhà nước cồng kềnh và kìm hãm sự phát triển. Trung Quốc rất hài lòng trước hiện tượng này.
- Năng lực và nghệ thuật đưa hối lộ. Năng lực này được bồi dưỡng ngay từ khi thời thơ ấu, bắt đầu từ việc đưa phong bì cho giáo viên hay bác sĩ.
- Năng lực và nghệ thuật nhận hối lộ. Càng lên các cấp cao trong hệ thống quản lí thì năng lực này càng pháp triển. Trung Quốc hiểu rằng việc chống tham nhũng ở Việt Nam chỉ là nói cho có nói mà thôi, không bao giờ thực hiện được. Trung Quốc khuyến khích tham nhũng ở Việt Nam phát triển vì hiểu rằng nó sẽ thúc đẩy sự suy tàn nhanh chóng của đất nước này.
- Năng lực “ngu hóa”: tự làm cho mình ngu si, tự triệt tiêu khả năng suy nghĩ và khả năng nhận thức của mình. Phổ biến phương châm sống: “ngu si hưởng thái bình”. Hệ quả là nền kinh tế tuột dốc, giáo dục thảm hại. Nền giáo dục, thay vì giáo dục lòng can đảm, phát triển tư duy, thì lại gieo rắc nỗi sợ hãi và làm thui chột khả năng suy nghĩ độc lập của học sinh sinh viên. Và khi có chuyện xảy ra, đa số không còn có thể phân tích tình hình, không biết phải làm gì. Trung Quốc không mong gì hơn điều này.

Trung Quốc hoàn toàn hiểu rằng người Việt Nam suy yếu là do sợ hãi. Nỗi sợ hãi của người dân Việt Nam là điều kiện cho việc Trung Quốc thôn tính đất nước này. Người dân Việt Nam có thể không sợ Trung Quốc, nhưng lại rất sợ chính quyền của mình, không dám đi ngược lại các phán quyết của chính quyền. Một số rất ít người, đếm trên đầu ngón tay, dám hy sinh, dám chịu nguy hiểm để biểu hiện lòng yêu nước thì bị chính quyền đàn áp, bắt bớ, bỏ tù. Điều này khiến toàn bộ dân chúng còn lại càng thêm sợ hãi. Nỗi sợ hãi làm họ tê liệt đến mức họ không còn muốn tìm hiểu vì sao biểu tình chống Trung Quốc chiếm các hải đảo của mình mà lại bị ngăn cấm và bắt bớ. Họ không muốn, không dám tìm hiểu và họ để mặc cho Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Đó là những gì đã diễn ra sau những cuộc biểu tình năm 2007. Và triệt để hơn, người Việt Nam không muốn tìm hiểu về bất kỳ chuyện gì khác ngoài chuyện mưu sinh hàng ngày. Hoặc nếu có tìm hiểu thì cũng chỉ để bàn luận với nhau trong góc nhà, hay trong quán cà phê mà thôi, họ thụ động chấp nhận tất cả mọi thứ.

Trung Quốc cũng hiểu rõ rằng Việt Nam suy yếu là do những người có năng lực ở Việt Nam không được sử dụng, rằng nhiệt tình và năng lực, năng lượng của người Việt Nam đã bị tắt ngấm dưới làn sóng sợ hãi băng giá. Và chính quyền Việt Nam không tin ở công dân của họ. Mọi cố gắng phản biện nhằm gây dựng sự lớn mạnh cho quốc gia đều bị quy về tội chống phá nhà nước.

Vì thế Trung Quốc quyết định rằng đây là thời cơ ngàn vàng để thể hiện cho người láng giềng yếu kém Việt Nam thấy sức mạnh của mình. Và Trung Quốc đã chuẩn bị rất bài bản, rất cẩn thận cho quá trình thôn tính Việt Nam. Bắt đầu bằng sự thôn tính bộ phận: thuê hàng loạt rừng đầu nguồn ở những vị trí trọng yếu, nắm Tây Nguyên với cái cớ hợp pháp là khai thác bô xít, đầu tư nhiều công trình, nhiều cơ sở kinh doanh ở Việt Nam mà nhân công chủ yếu là người Trung Quốc. Thôn tính thị trường Việt Nam bằng hàng hóa Trung Quốc, và chủ yếu là hàng hóa chất lượng kém để đầu độc người Việt Nam, và với mục đích vô hiệu hóa nền sản xuất và kinh doanh của Việt Nam. Trung Quốc hiểu rằng hàng hóa không chỉ là hàng hóa, mà hàng hóa còn là văn hóa. Người Việt Nam hàng ngày dùng đồ Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng một cách từ từ nhưng sâu đậm bởi văn hóa Trung Quốc. Trung Quốc thôn tính truyền hình Việt Nam bằng vô số phim Trung Quốc, và đã thành công kinh khủng khi khiến cho thanh niên Việt Nam thuộc sử Trung Quốc hơn là sử Việt Nam. Đây quả là một tính toán mang tầm chiến lược và rất đáng nể phục: khi Trung Quốc thôn tính xong Việt Nam thì người Việt Nam không bị xa lạ với văn hóa Trung Quốc, sẽ cảm thấy Trung Quốc gần gũi với họ, gần gũi từ trong tâm thức.

Câu hỏi mà người Việt Nam phải đặt ra là: “Tại sao Trung Quốc lại thành công được như vậy?”. Nếu mỗi người Việt Nam đều đặt câu hỏi đó thì Trung Quốc có tài giỏi đến mấy cũng không thành công được. Nhưng người Việt Nam đã bị tê liệt khả năng đặt câu hỏi, tê liệt khả năng tìm hiểu và nhận thức.Vì người Việt Nam từ lâu đã bị cấm đặt câu hỏi, bị cấm tìm hiểu và bị cấm nhận thức về những gì bị cho là “nhạy cảm”, tự do ngôn luận và tự do báo chí bị bóp nghẹt. Vì người Việt Nam bị trừng phạt khi dám thử tìm hiểu, thử nhận thức. Than ôi, có cái gì mà không nhạy cảm đây? Người Việt Nam chỉ biết than mà không dám hành động. Trung Quốc biết rõ như vậy. Cơ hội đang thuộc về Trung Quốc.

Trung Quốc hiểu rằng, không có thời cơ nào tốt hơn hiện nay, khi chính quyền và người dân Việt Nam sợ hãi lẫn nhau (chính quyền sợ nhân dân và nhân dân sợ chính quyền), khi thông tin bị bưng bít, người dân thờ ơ với vận mệnh đất nước, lãnh đạo bằng mọi giá bảo vệ quyền lợi cá nhân, tình trạng chung là không chịu suy nghĩ, không chịu hành động, không chịu thay đổi.

Trung Quốc hiểu rằng nhân dân Việt Nam đang mất lòng tin vào chính phủ. Bởi những biểu hiện hèn nhược của chính phủ và sự kém cỏi của chính phủ trong việc giải quyết tất cả mọi vấn đề. Vì thế mà Trung Quốc dám vào tận lãnh hải Việt Nam để tuyên bố rằng người Việt Nam xâm phạm chủ quyền của mình, dám hùng hồn tuyên bố điều dối trá đó trên báo chí quốc tế. Trung Quốc tin rằng sẽ thực hiện được giấc mộng thôn tính Việt Nam. Nếu ngư dân Việt Nam bị bắn chết mà chưa bao giờ Trung Quốc bị trừng phạt, nếu những người Việt Nam tiếp tục bị Trung Quốc giết chết mà chẳng có ai dám làm gì Trung Quốc, thì tại sao Trung Quốc không lấn tới?

Nhưng có một điều mà Trung Quốc không hiểu, hay chưa hiểu: những người Việt Nam mà Trung Quốc tưởng là hèn hạ và chỉ biết sợ hãi ấy, những người đó sẽ cho Trung Quốc biết thế nào là người Việt Nam thực sự. Vì đây cũng là thời cơ để người dân Việt Nam nhận thức, hiểu rõ chính mình, hiểu rõ chính phủ của mình, hiểu rõ “ông bạn” láng giềng. Thời cơ để người dân Việt Nam lấy lại sức mạnh của mình. Trung Quốc cứ thử xem, người Việt Nam sẽ chứng minh rằng mảnh đất này chính là linh hồn của họ. Lịch sử cho thấy, đôi khi có chuyện vua quan Việt Nam bán nước, nhưng nhân dân Việt Nam chưa bao giờ chịu mất nước.

N. V. L.

14 thg 6, 2011

Mỹ Vay Tiền Trung Cộng Nhưng Ai Là Chủ ?


Mỹ Vay Tiền Trung Cộng
Nhưng Ai Là Chủ ?
Lê Giang

Thấy hay nhất là câu : tác giả Paul R. La Monica nêu ra một câu ngạn ngữ xưa: “Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng” (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).


Cách đây mấy bữa, tôi có trao đổi với bạn hữu trên Facebook về tình hình kinh tế toàn cầu và chuyện Trung Cộng trong vòng một thập niên nữa có thể đuổi kịp Hoa Kỳ về tổng thu nhập nội địa (GDP).
Nói là có thể đuổi kịp về GDP thôi, chứ về thu nhập trung bình tính trên đầu người thì có lẽ một vạn mùa quýt nữa Trung Cộng cũng khó bắt kịp với số dân trên 1,3 tỷ người và hàng trăm triệu người ở vùng nông thôn và miền núi vẫn đang sống dưới mức nghèo khổ.
Theo Quỹ Tiện tệ Quốc tế, thu nhập đầu người (GDP per capita) của Trung Cộng trong năm 2010 là 4.382 USD, so với của Mỹ là 47.284 USD.Hơn nữa, Hoa Kỳ là một quốc gia có các định chế dân chủ vững chắc, với một nền kinh tế năng động, sáng tạo và luôn tìm ra được chính sách thích ứng với hoàn cảnh, thậm chí với các cuộc khủng hoảng. Trong khi Trung Quốc duy trì một cơ chế kinh tế tư bản nửa vời, chịu áp lực chi phối quá mạnh mẽ bởi nhà nước độc quyền và vẫn còn chủ yếu dựa vào xuất khẩu, bên cạnh nguy cơ bất ổn về chính trị xã hội luôn hiện hữu.
Trung Cộng hiện nay là chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Mỹ. Trong bài “China: The new landlord of the U.S” trên CNNMoney, ngày 18 tháng 1 năm 2011, phân tích chủ đề này tác giả Paul R. La Monica cho biết Cục Ngân khố Hoa Kỳ thông báo Trung Cộng hiện sở hữu 895,6 tỷ đô la trái phiếu kho bạc Mỹ, có nghĩa là giảm từ 906,8 tỷ đô la so với một tháng trước đó và là sự suy giảm đầu tiên giá trị trái phiếu nợ của Trung Quốc kể từ tháng Sáu 2010. Trong một tháng mà giảm giá trị 11,2 tỷ đô la, quả là không nhỏ tý nào!
Trong cuộc mạn đàm trên Facebook tôi có nhắc lại nhận xét dí dỏm của một người bạn thân của tôi là Szymon Moldewhawer. Szymon Moldewhawer đã từng là đại diện Văn phòng Thương mại của Mỹ tại Warsaw, Ba Lan.
Szymon Moldewhawer nói với tôi rằng, tớ đưa ra cho cậu một bức tranh đơn giản về chuyện nợ nần giữa Trung Cộng và Mỹ. Thế này nhé, một thằng Mỹ đầu tư vào Trung Cộng, ví dụ 1 tỷ đô la. Nhưng hắn ta cóc thèm mang tiền từ Mỹ vào Trung Cộng mà lấy ngay tiền của Trung Cộng qua các tác vụ tài chính từ khoản Trung Cộng cho Mỹ vay qua việc mua trái phiếu kho bạc Mỹ. Nên nhớ rằng, chính phủ Mỹ khi phát hành trái phiếu không phải lấy tiền chỉ để chi dụng cho các nhu cầu nội địa, mà dành đến 60% cho đầu tư ở nước ngoài. Số tiền này mang lại lợi nhuận lớn, đặc biệt là từ thị trường Hoa Lục tiềm tàng. Bây giờ ta có một phép tính số học của học sinh cấp 1:
Ví dụ Apple lấy tiền của Trung Cộng, tận dụng nhân công Tàu rẻ mạt, sản xuất ra một cái iPad cứ cho là 100 đô la chẳng hạn. Sản phẩm được xuất qua Mỹ và nhiều nước khác, bán với giá 500 đô la. Tiền lãi chảy hết vào túi Mỹ. Trung Cộng nghèo hơn, cho Mỹ giàu hơn vay tiền, còn Mỹ kiếm lợi ngay trên lưng thằng cho vay, tớ hỏi cậu ai khôn hơn ai? Đây là tớ chưa nói tới việc thằng đi vay lại là cái thằng in ra đồng tiền đó. Chỉ cần nó phá giá một tý thôi, giá trị trái phiếu có thể mất đi vài trăm triệu đô la, nếu không nói đến vài tỷ, trong chốc lát!
Ông bạn tôi cười thích thú và thêm rằng, kinh doanh tiền tệ trên thế giới khó ai khôn ngoan và điếm đàng hơn tư bản Mỹ!
Không lâu sau cuộc chuyện trò trên đây, thực tế đã chứng minh điều người bạn tôi phác hoạ là đúng.
Vào tháng 10 năm ngoái Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (The Federal Reserve System), viết tắt là Fed (cũng có thể hiểu tương tự như Ngân hàng trung ương) đã thông báo một chương trình có biệt hiệu là QE2.
Đây là chính sách được gọi là nới lỏng định lượng, trong đó Fed công bố kế hoạch mua lại 600 tỷ đô la trái phiếu kho bạc dài hạn từ tháng 10 năm 2010, nhằm mục đích cung cấp vốn mới, hỗ trợ nền kinh tế các khoản tín dụng rẻ.
Ngay sau khi Fed công bố, Trung Cộng đã cao giọng chỉ trích chương trình QE2 này.
Kế hoạch mua lại trái phiếu của Fed dẫn đến một đồng đô la yếu hơn và lãi suất cao hơn, do đó làm giảm giá trị trái phiếu kho bạc mà Trung Quốc đang nắm giữ, như chúng ta đã thấy ở trên.
Trong ngày thứ Tư, 27 tháng 4 năm 2011, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã ấn định tỷ lệ lãi suất nằm trong khoảng 0-0,25 phần trăm và tuyên bố giữ nguyên quyết định mua lại trái phiếu với tổng số tiền 600 tỷ đô la.
Giám đốc Fed, ông Ben Bernanke, tại buổi họp báo cùng ngày cho biết Ủy ban Thị trường Mở đã có quyết định đầu tiên cho việc duy trì chính sách tái đầu tư các quỹ từ chứng khoán.
Sau cuộc họp hai ngày trước đó, Fed kết luận rằng, “sự phục hồi kinh tế Mỹ đang ở tốc độ vừa phải, và tình hình thị trường lao động cải thiện dần dần”; “Sự gia tăng lạm phát, đặc biệt là việc tăng giá nguyên liệu trong thời gian gần đây, có vẻ như là quá độ. Tình hình thị trường bất động sản vẫn còn yếu”.
Quyết định về tỷ lệ lãi suất trên phù hợp với những gì các nhà phân tích đã dự đoán, và không gây ra phản ứng nào lớn. Tuy nhiên sự chú ý của thị trường trong khi chờ quyết định của Fed đã tập trung vào cái khác, cụ thể là, điều gì tiếp theo chương trình mua lại trái phiếu mà trên thực tế là in thêm tiền để bơm vào nền kinh tế 600 tỷ đô la..
Ông Bernanke nói thêm rằng, kết thúc chương trình mua lại trái phiếu dài hạn với giá trị 600 tỷ đô la vào tháng 6 này, Fed sẽ tiếp tục theo dõi khối lượng đầu tư vào trái phiếu kho bạc trong ánh sáng của các thông tin mới nhất, sẵn sàng điều chỉnh đầu tư trái phiếu ở mức tốt nhất nhằm bảo đảm việc làm tối đa trong nền kinh tế Hoa Kỳ và ổn định giá.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giám đốc Fed, Ben Bernanke, có mặt và kết thúc một cuộc họp báo.
Chưa biết phản ứng mới của Trung Cộng với quyết định mới của Fed. Tuy nhiên để ứng phó, Trung Cộng có thể phải bắt đầu bán trái phiếu nợ ra.
Ngoài ra, người ta cho rằng, Trung Cộng đang tìm cách đa dạng hóa trái phiếu nợ của ngân hàng trung ương và có thể chuyển sang trái phiếu khu vực đồng euro, một ngoại tệ mạnh nhưng tính ổn định đang đặt trước nhiều dấu hỏi khi hàng loạt các nước khu vực đồng euro như Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ireland… đang vật lộn với khủng hoảng nợ công.
Cũng có người tin rằng Trung Cộng đã sử dụng các đại lý tại Vương quốc Anh để vực giá trị kho bạc lên. Giá trị hàng hoá sẽ hiển thị trên các cổ phiếu của Vương quốc Anh, không phải của Trung Cộng.
Một câu đặt câu hỏi đặt ra là trong tương lai, nếu Hoa Kỳ sẽ tiếp tục phát hành trái phiếu kho bạc mới, thì Trung Cộng có tiếp tục mua nữa hay không?
Cái khổ nằm ở chỗ là Trung Cộng vẫn phải mua, vì Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu quan trọng và lớn nhất của Trung Cộng, là “căn cứ địa” bảo đảm công việc làm cho hàng chục triệu, nếu không nói là hàng trăm triệu người lao động Trung Hoa. Một biến động lớn trên thị trường lao động sẽ là một thảm hoạ cho ổn định xã hội, điều mà các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không bao giờ muốn xảy ra, bằng mọi giá.
Trong cuộc chơi khó khăn này, anh Mỹ có vẻ như được nước, tha hồ mè nheo, õng ẹo rằng, anh cho vay thì tôi mới có tiền trả hàng hoá, còn Trung Cộng dù rất khó chịu, phàn nàn anh Mỹ khôn thì vừa thôi, đừng quá đáng. Nhưng rồi cuối cùng Trung Cộng cũng phải đồng ý nếu cò kè được lãi suất cao hơn. Trừ phi anh Mỹ không muốn vay thêm!
Kiểu gì thì bác Sam nhà ta vẫn đứng ở thế lợi hơn.
Kết thúc bài báo đã dẫn trên CNNMoney, tác giả Paul R. La Monica nêu ra một câu ngạn ngữ xưa: “Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng” (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).
Nghe ra có vẻ diễu cợt và hài hước quá!
Chủ nghĩa Tư bản và Cách bóc lột kiểu mới
Cách đây hơn mười năm, một thầy giáo của tôi nói rằng chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến một mức rất tinh vi. Nếu trước kia các chủ đồn điền phải dùng gậy ba-tong để bóc lột công nhân bản xứ, bây giờ việc bóc lột diễn ra ở tầm mức quốc gia. Ông lấy ví dụ thời những năm 70-80 Nhật đã mua rất nhiều tài sản ở Mỹ, kể cả trái phiếu chính phủ vì Nhật có thặng dư mậu dịch lớn với Mỹ giống như Trung Quốc bây giờ. Thế rồi năm 1985 Mỹ đã buộc Nhật phải ký vào Plaza Accord để đồng Yen lên giá hơn 50% so với đồng USD trong hai năm sau đó. Điều này tương đương với tất cả các khoản đầu tư trước đây của Nhật vào Mỹ bị mất giá hơn một nửa, cũng có nghĩa là Mỹ đã “bóc lột” Nhật một cách trắng trợn bằng cách “quịt” 50% số nợ với Nhật.
Hơn 20 năm sau, Trung Cộng đã thế chân Nhật trở thành “chủ nợ” lớn nhất của Mỹ. Có điều những nỗ lực của Mỹ trong suốt giai đoạn 2000-2006 không làm Trung Cộng nhượng bộ và đồng yuan chỉ được thả lỏng một phần và cho lên giá từ từ so với USD trong 2 năm gần đây. Điều đáng nói là dù đồng yuan đã bắt đầu lên giá, thặng dư mậu dịch của Trung Cộng với Mỹ vẫn tiếp tục gia tăng và những số liệu gần đây cho thấy gần như toàn bộ thâm hụt ngân sách của Mỹ đều được tài trợ từ nguồn này. Hiện tại dự trữ ngoại hối của Trung Cộng đã gần đạt 2 ngàn tỷ USD. Thử tưởng tượng nếu Mỹ thành công trong việc làm USD mất giá khoảng 50% so với đồng yuan như đã làm với Nhật năm 1985, số tiền Trung Cộng bị “quịt” sẽ tương đương với 10 năm GDP hiện tại của Việt Cộng.
Vậy tại sao Trung Cộng không chuyển dự trữ ngoại tệ của mình sang các đồng tiền khác hay vàng? Hay đơn giản hơn là ngừng không tăng dự trữ ngoại tệ nữa vì đã quá đủ để đảm bảo an toàn cho cán cân thanh toán? Vấn đề là bản thân Trung Cộng muốn giữ tỷ giá của đồng yuan với đồng USD cố định vì Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất. Theo cách nói của một số nhà kinh tế thì Trung Cộng đã“hối lộ” cho dân Mỹ thông qua chính sách tỷ giá để họ tiếp tục mua hàng của Trung Cộng. Cái lợi mà Trung Cộng được trong ván bài kinh tế này không phải là 2 ngàn tỷ USD dự trữ ngoại tệ mà Trung Cộng biết sẽ mất một phần trong tương lai. Mục tiêu của Trung Cộng chính là tăng trưởng kinh tế thông qua con đường xuất khẩu, đây là điều cần thiết để Trung Cộng giữ xã hội ổn định và là phương tiện để đạt được các mục tiêu chính trị khác. Có nghĩa là Trung Cộng chấp nhận sẽ bị quịt nợ trong tương lai, hay nói cách khác sẵn sàng để Mỹ “bóc lột”.
Không chỉ bị “bóc lột” vì khoản cho vay của mình sẽ mất giá khi đồng yuan lên giá, người dân Trung Cộng hiện tại đang bị bóc lột trên một khía cạnh khác. Họ buộc phải giảm tiêu dùng và tăng tiết kiệm cá nhân vì chính sách quản lý vĩ mô méo mó của chính quyền Trung Cộng. Mỗi đô la thêm vào dự trữ ngoại tệ quốc gia đều có đóng góp của những công nhân Trung Hoa làm việc trong các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đây có thể coi là một loại thuế trá hình đánh lên thu nhập của những người công nhân này và lên cả lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó, mọi người dân Trung Hoa đều phải giảm tiêu dùng các loại hàng hóa nhập khẩu vì chính sách tỷ giá thấp của chính phủ. Họ đang bị “bóc lột” gián tiếp thông qua dự trữ ngoại tệ mà có lẽ nhiều người không biết và không đồng ý.
Năm 1985, Reagan và Volcker đã ép buộc thành công Nhật chấp nhận đồng Yen lên giá để giải quyết vấn đề thâm hụt mậu dịch của Mỹ và nguy cơ khủng hoảng tài chính. Bush và Greenspan đã không làm được như vậy với Trung Quốc, để rồi cuộc khủng hoảng hiện tại nổ ra. Tất nhiên người Mỹ phải chịu hậu quả đầu tiên, nhưng không ai tiên liệu được cuộc khủng hoảng này sẽ dừng lại ở đâu. Nếu khoảng tháng 9-10/2008 “mắt bão” cuộc khủng hoảng nằm ở Mỹ thì hiện tại có vẻ nó đã chuyển sang các nước Đông Âu, và nhiều người dự báo nó sẽ đi dần sang phía Đông. Có thể Trung Cộng sẽ trắng tay trong ván bài kinh tế-chính trị vẫn “chơi” lâu nay. Ngược lại nếu Trung Cộng khéo léo và may mắn, họ sẽ xoay chuyển được global geopolitical landscape theo một hướng mới có lợi hơn cho mình. Đó có lẽ là bản chất dân tộc Trung Hoa, sẵn sằng nhịn ăn nhịn mặc, bị bóc lột và khinh rẻ trong thời gian dài để vùng lên đúng lúc. Có điều chiến lược này rất rủi ro và người lãnh đạo phải sẵn sàng hy sinh lợi ích của cả dân tộc trong một ( vài ) thế hệ để có được cơ hội
“thắng làm vua”...

Lê Giang

HOÀNG SA NỘ KHÍ PHÚ



HOÀNG SA NỘ KHÍ PHÚ
Kha Tiệm Ly

Ngựa cũ quen đường,
Đĩ già lậm nết.
Việc phế hưng mỗi thuở khác nhau,
Mộng bá chủ bao đời y hệt!

Ta thấy ngươi,
Từ Đông Chu bị họa Thất Hùng,
Đến Hậu Hán bị xiềng Tam Quốc.
Đất Trường An thây chất chập chùng,
Bờ Vô Định xương phơi chất ngất!

Đã biết,
Hễ gieo chinh chiến là kín đất đau thương,
Nếu động can qua thì mịt trời tang tóc.

Vậy mà sao,
Chẳng lo điều yên nước no dân,
Lại quen thói xua quân chiếm đất?

Như nước ta,
Một dải non sông, nam bắc chung giềng,
Trăm triệu anh em, trước sau như nhất.
Hoàng Liên, Tam Đảo, Hồng Hà, Cửu Long , là máu là xương,
Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa là da là thịt.
Máu xương đâu lẽ tách rời,
Thịt da dễ gì chia cắt?
Mà là liền tổ quốc phồn vinh,
Mà là khối giang sơn gấm vóc.
Người trăm triệu nhưng vốn một lòng,
Tim một trái dẫu nhiều sắc tộc!
Nữ nhi chẳng thiếu bậc anh hùng,
Niên thiếu cũng thừa người kiệt xuất.
Mười năm phục quốc, gươm Lê Lợi thép vẫn sáng ngời,
Ba lượt phá Nguyên, sông Bạch Đằng cọc còn nhọn hoắt.
Thùng! Thùng! Thùng! Liên hồi giục, trống Ngọc Hồi hực bước tiến quân.
Đánh! Đánh! Đánh! Luôn miệng thét, điện Diên Hồng, vang lời sát thát.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng chết còn lạc phách kinh hồn,
Sông Nhị Hà, Sĩ Nghị chạy còn đứng tim vỡ mật.
Thoáng thấy vó câu Thường Kiệt, Khâm Châu ngàn dặm, không còn bóng quỉ bóng ma,(1)
Chợt nghe tiếng sét Đống Đa,Quảng Đông toàn tỉnh chẳng tiếng con gà con vịt. (1)
Hùng khí dù dậy trời Nam,
Nghĩa nhân lại tràn đất Bắc:Thương ngươi binh bại, tàn quân về còn cấp xe ngựa rình rang (2)
Trọng kẻ trung can, hổ tướng chết vẫn được khói hương chăm chút.(3)
Mạc Cửu đem quân lánh nạn, chúa ta vẫn mở dạ đón người,
Hoa kiều mượn đất ở nhờ, dân ta vẫn chia cơm xẻ thóc.
Phúc cùng hưởng khi mưa thuận gió hòa,
Họa cùng chia lúc sóng vùi gió dập.
Giúp các ngươi như kẻ một nhà,
Thương các ngươi như người chung bọc!

Thế mà nay,
Ngươi lại lấy oán trả ơn,
Ngươi lại lấy thù báo đức!
Ăn đàng sóng, nói đàng gió, y như đĩ thúi già mồm.
Lộn bề ngược, tráo bề xuôi, khác chi điếm già bịp bạc.Kéo neo tuần hạm, ào ào đổ bộ Hoàng Sa,
Quay súng thần công, ầm ỉ tấn công Đá Bắc.
Chẳng chấp hải qui,
Chẳng theo công ước.
Quen nết xưa xấc láo, giở giọng hung tàn,
Lậm thói cũ nghênh ngang, chơi trò bạo ngược.
Nói cho ngươi biết; dân tộc ta:
Từng đánh bọn ngươi chỉ với ngọn giáo dài,
Từng đuổi bọn ngươi chỉ bằng thanh kiếm bạc.
Từng đánh Tây bằng ngọn tầm vông,
Từng đuổi Nhật với thanh mác vót!Vì khát tự do mà uống nước đìa,
Vì đói độc lập mà ăn cơm vắt.
Sá chi tóc gội sa trường,
Đâu quản thây phơi trận mạc.
Hãy liệu bảo nhau,
Nhìn thây Gò Đống mà liệu thắng liệu thua,
Thấy cọc Bạch Đằng mà nghĩ sau nghĩ trước!
Đừng để Biển Đông như Đằng Giang máu nhuộm đỏ lòm,
Đừng để Hoàng Sa là Đống Đa xương phơi trắng xác!
Nếu ngươi dựa vào hỏa tiển, phi cơ,
Thì ta cũng có tuần dương, đại bác.
So vũ khí, thì kẻ nhược người cường,
Đọ trái tim, coi ai gang ai sắt?
Thư hãy xem tường,
Hoàng Sa hạ bút.


K.T.L.

12 thg 6, 2011

Mó Dái Ngựa




Phiếm luận
Mó Dái Ngựa

Trần Bình Nam

Đây chỉ là Phiếm luận khi quý bà phụ nữ Việt Nam để cho các ông bàn chuyện “Nga đánh Mỹ, Mỹ đánh Tàu” trong khi các bà bàn chuyện thực tế “mua nhà ở đâu, cho con học đại học nào”. Và trong khi các nhóm đấu tranh chính trị cho một nước Việt Nam tự do dân chủ phú cường “chửi bới” Trung quốc là xâm lăng ỷ mạnh hiếp yếu, chỉ trích chính quyền Hà Nội là “hèn nhát” mà chưa đưa ra một đối sách cứu quốc nào làm cho đồng bào trong nước yên tâm trước đe dọa quốc phá gia vong.
Phiếm luận thường cho trí tưởng tượng bay xa, ý tưởng phát xuất tại chỗ đôi khi không kịp có dữ kiện chứng minh nên không tránh khỏi cường điệu. Xin độc giả đọc phiếm luận này trong tinh thần khoan dung, dễ dãi, lấy chân làm giả, lấy hư làm thật.

Năm 1979 Trung quốc “Sờ Đít Cọp”, đánh Việt Nam. Cọp Nga không dám vồ dù mới một tháng trước đó ký Hiệp ước thề sống thề chết bảo vệ Việt Nam làm ông em Việt Nam tưởng bở đem quân đánh Cam Bốt lật đổ chính phủ Polpot thân Trung quốc. Bộ trưởng Ngoại giao Trung quốc Hoàng Hoa sau đó ví von với một viên chức Hoa Kỳ “Chúng tôi đã sờ đít cọp”. May mà Trung quốc sờ nhằm đít “cọp giấy”.
Chuyện được thua cách đây 32 năm được ông tiến sĩ Henry Kissinger thuật lại và bình luận nơi chương 13 trong cuốn “On China” của ông mới xuất bản (xem Chiến Tranh Việt Hoa 1979)
Cuốn sách ra đời đúng lúc Trung quốc và Việt Nam lục đục trong vụ tranh giành Biển Đông. Hồi đó công khai là thù, hôm nay chính danh là bạn; nhưng bản chất Trung quốc cướp đất và nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ đất vẫn là một.
Trong tháng 5 và tháng 6, 2011 Trung quốc hai lần cho tàu ngăn cản việc dò tìm dầu hỏa của sở dầu khí Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung quốc đi quá xa, và đã đến lúc những nhà lãnh đạo tại Hà Nội không thể nhân nhượng giữa bạn và thù, nước lớn nước nhỏ nữa, mà phải xác định lập trường quyết tâm bảo vệ quốc gia.
Toàn quốc bừng dậy. Sài gòn, Hà Nội, Huế, Nha Trang, Đà Nẵng nhân dân đủ mọi tầng lớp, trong đó có những đảng viên đảng cộng sản Việt Nam biểu tình chống hành động thô bạo của Trung quốc. Tướng Phùng Quang Thanh Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đã mạnh mẽ xác định lập trường bảo vệ vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo luật quốc tế trong Hội nghị “Đối thoại Shangri-La” tại Singapore ngày 5/6/2011 vừa qua.
Trung quốc giận tím gan. Trung quốc cho các cơ sở thông tin độc lập (độc lập nhưng đi bên lề phải) phản ảnh sự giận dữ của mình. Hãy đọc đoạn văn sắt máu dưới đây của mạng “Trung quốc Binh khí Đại toàn:”
http://www.cnweapon.com/html/news/2010-2011/news14304
“Quần đảo Nam Sa (Việt Nam gọi là Trường Sa) vốn dĩ là chuỗi ngọc trai lấp lánh của đất mẹ Trung Hoa, nhưng lại bị nhiều kẻ trộm cắp, muốn chiếm đoạt, giành giật, việc này chỉ làm phân tán đi ánh hào quang của chuỗi ngọc trai mà thôi. Trong số các đảo bị các nước chiếm đoạt, bọn Việt Nam kiêu ngạo, vong ơn bội nghĩa đã ráo riết chiếm đóng quần đảo với số lượng nhiều nhất. Nghĩ lại mà xem, Việt Nam vốn xưa là phiên thuộc của Đại Hán ta. Năm 1885, theo Thỏa ước Pháp – Thanh, Việt Nam đã bị nhượng lại cho Pháp, dần trở thành thuộc địa của Pháp. Trong hai cuộc chiến tranh, Trung Quốc đã giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hai miền Nam Bắc đã được thống nhất. Nhưng thật không ngờ bọn Việt Nam không những không biết ơn Trung Quốc, mà trái lại đã lấy oán báo ân, tự vỗ ngực xem mình là nước có tiềm lực quân sự lớn thứ ba thế giới, liên tiếp khiêu khích Trung Quốc. Mặc dù qua hai bài học, là cuộc chiến tranh biên giới Trung–Việt và chiến tranh Bãi đá ngầm, nhưng Việt Nam vẫn không nhận ra được bài học, càng ra sức chiếm đoạt nhiều đảo hơn.
Do bọn Việt Nam bắt tay thực hiện khai thác đảo sớm nên điều kiện chiếm cứ thuận lợi hơn, hơn nữa lại có nguồn nước ngọt nên bọn chúng có thể thi công trên đảo, xây dựng sân bay, kiến tạo hạ tầng kỹ thuật thông tin di động, di dân ra đảo, tổ chức du lịch quốc tế, thiết lập phân chia ranh giới khu hành chính cấp huyện hòng vĩnh cửu hóa, thực tế hóa, quốc tế hóa, hợp pháp hóa hành vi bá chiếm. Tiếp đó các nước khác cũng lần lượt theo đuôi Việt Nam, như Philipin, Malaysia, Indonesia, Brunei… xâu xé vùng biển Nam Sa của Trung Quốc, xây dựng căn cứ quân sự hoặc khoan dầu mỏ. Tất cả bọn chúng đều không coi Trung Quốc ra gì. Các nước xung quanh xâm chiếm quần đảo Nam Sa đúng vào thời kỳ đất nước Trung Quốc chúng ta tiến hành cải cách mở cửa, thực hiện chiến lược đối ngoại hòa bình, tập trung xây dựng kinh tế trong nước, duy trì hòa bình phát triển với bên ngoài. Cùng là những nước đang phát triển đáng ra Việt Nam và các nước lân cận phải có thiện ý giải quyết hài hòa những tranh chấp. Đất nước chúng ta đề xướng ra mục tiêu “gác lại chiến tranh, cùng nhau phát triển”.
Tuy nhiên, 30 năm qua, lòng tốt của chúng ta lại không hề được báo đáp, mà trái lại các nước còn không ngừng tăng cường lấn chiếm khu vực biển của nước ta, ngang nhiên chiếm lãnh hải, lãnh thổ nước ta. Không khó khăn lắm, chúng ta cũng có thể nhận ra rằng, lòng tốt của chúng ta không được báo đáp tử tế; danh dự, lãnh thổ và lãnh hải quốc gia nếu chỉ dựa vào giao thiệp hòa bình thì khó mà giữ gìn, bảo vệ được. Ủy ban thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc quy định, 12/5/2009 là kỳ hạn cuối cùng cho các quốc gia có liên quan phải hoàn thành việc gửi những bản giải trình các luận cứ khoa học về chủ quyền thềm lục địa và khu kinh tế đặc quyền.
Tình hình phát triển còn làm phức tạp hóa vấn đề, sự xoay chuyển của thời gian sẽ làm cho chúng ta càng thêm bất lợi, nếu cứ tiếp tục kéo dài sự khoan dung của chúng ta thì kẻ khác sẽ cho rằng chúng ta đã chấp nhận, bằng lòng với việc đó. Vì thế, biện pháp hiệu quả nhất là phải dùng lực lượng quân sự chiếm đoạt lại Nam Sa, và phải đưa việc này vào chương trình nghị sự. Chúng ta phải thấy một thực tế rằng, mức độ xâm phạm của các nước có liên quan đối với lợi ích của nước ta là khác nhau, do điều kiện môi trường và địa vị quốc tế khác nhau nên sẽ có những phản ứng khác nhau đối với hoạt động quân sự của nước ta, vì vậy mà chúng ta cần phải có những cách đối xử khác nhau, giải quyết tốt những mâu thuẫn chủ yếu, thúc đẩy giải quyết những mâu thuẫn thứ yếu. Không còn nghi ngờ gì nữa, mục tiêu tấn công chủ yếu của chúng ta phải là Việt Nam.”
Và bài báo kết luận: “Hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến tái chiếm Nam Sa”
Vấn đề không còn là Trung quốc có muốn đánh Việt Nam để giành đất giành biển không. Vấn đề là nếu đánh thì có những hậu quả gì?
Năm 1979 trước khi “sờ đít cọp”, Đặng Tiểu Bình đã đi một vòng du thuyết, và sau khi biết ý Hoa Kỳ chẳng những sẽ không can thiệp mà còn gián tiếp khuyến khích Trung quốc mới ra tay, mà cũng chỉ dám đánh trong vòng 1 tháng với một chiến thuật biển người thí hơn 50.000 mạng lính rồi vội vàng rút lui (xem Chiến Tranh Việt Hoa 1979). Hơn nữa yếu tố Trung quốc quyết định đánh Việt Nam mà không sợ Nga Sô đánh trả có lẽ còn dựa vào yếu tố “rận cùng chăn biết tẩy lẫn nhau” rằng Nga Sô chỉ nói mạnh nhưng kỳ thật yếu kém kinh tế và con gờm thái độ của Hoa Kỳ. Trung quốc hồi đó còn yếu, lo chế độ mới được củng cố bị Nga Sô về hùa với Hoa Kỳ đe dọa nên dùng cái vốn có sẵn là mạng người thừa thãi bỏ vào canh bạc. Đối với Mao, lính càng chết nhiều càng đỡ miệng ăn, càng tránh nạn đói, một đe dọa hãi hùng của Trung quốc .
Thời điểm này Trung quốc có lợi thế hơn: Quân lực mạnh, kinh tế sung mãn, tinh thần quốc gia qúa khích và mộng đế quốc trong lòng người dân - nhớ thời kỳ bị người da trắng bắt nạt – đang hừng hực. Trong khi đó “con ngựa” Hoa Kỳ tuy đang là siêu cường duy nhất vẫn tiềm tàng một số nhược điểm: kinh tế khó khăn, hai cuộc chiến hao mòn mệt mỏi chưa gỡ xong, ngân sách thâm thủng, nợ nần chồng chất, mà chủ nợ lại là Trung quốc.
Đánh Việt Nam, kịch bản của Trung quốc đơn giản là: dồn Việt Nam vào chân tường để Việt Nam phản ứng, rồi lấy cớ đánh mạnh đánh mau, trước hết trên biển dùng Hải và Không quân nhanh chóng chiếm toàn bộ quần đảo Trường Sa. Trên bộ xua bộ binh biển người tiến vào Hà Nội, giải giới quân đội Việt Nam, thành lập một chính phủ thân Trung quốc (kiểu chính phủ Hunsen ở Cam Bốt đối với Việt Nam năm 1979), đóng quân tại các nơi hiểm yếu rồi rút đại quân về, biến Việt Nam thành một Tây Tạng.
Năm 1979 Trung quốc đã sờ đít cọp Nga. Lần này đánh Việt Nam, Trung quốc biết mình sẽ “mó dái ngựa” Hoa Kỳ. Ngựa có đá không? Nếu dùng lý giải tình hình năm 1979 vào tình hình hiện nay, Trung quốc dễ đi đến kết luận “Ngựa Hoa Kỳ sẽ không dám đá”. Hoa Kỳ chưa có ràng buộc gì với Việt Nam, và Hoa Kỳ đang có nhiều vấn đề. Và sau khi thắng trận đánh khai thông cửa ngỏ Đông Nam Á châu, kiểm soát con đường thông thương huyết mạch từ Ấn Độ Dương vào Thái bình Dương, uy hiếp Indonesia, Úc châu, Tân Tây Lan, Trung quốc sẽ chơi ngang hàng với Hoa Kỳ ở các châu khác trên thế giới, Phi châu, Nam Mỹ, Trung Đông.
Nếu năm 1979 Nga Sô đã không đám đánh Trung quốc để trả đũa trận đánh vào biên giới Việt Nam và sau đó Nga Sô mang “cục nợ” Việt Nam phải viện trợ … viện trợ để rồi “xuất huyết” mà sụp đổ, thì lần này nếu Trung quốc có thể “Mó dái ngựa” mà vô sự thì cái ngày Trung quốc làm bá chủ thế giới sẽ được thu ngắn vài thập niên.
Đây là một kết luận quá ngon lành và hấp dẫn. Nhưng cái gì “quá ngon” thì “nhiều chất độc”. Nền kinh tế Mác xít của Nga Sô là một nền kinh tế “chết” nên năm 1979 Nga có đánh trả Trung quốc hay không Nga cũng dần đi đến chỗ chết. Trái lại nền kinh tế Hoa Kỳ là một nền kinh tế tư bản. Chiến tranh toàn diện vì an ninh của chính nước Mỹ sẽ là kích thích tố cần thiết cho nền kinh tế đang èo ọp của Hoa Kỳ, và làm sống dậy tinh thần quốc gia của nhân dân Mỹ.
Và các nhà chiến lược về sự bành trướng của Trung quốc cần quan tâm đến một yếu tố đặc thù của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ vốn là một võ sĩ có võ nghệ cao cường, theo tinh thần võ sĩ hiệp là bản tính hiền hòa và nhân nhượng. Nhưng khi buộc phải xuất chiêu để bảo vệ sinh mạng và những giá trị của mình, thì nhất định sẽ không để kẻ địch sống. Trung quốc từng tuyên bố Biển Đông là vùng “quyền lợi cốt lõi”. Hoa Kỳ đáp lại: sự tự do dùng thủy lộ qua Biển Đông là “quyền lợi thiết yếu” của Hoa Kỳ. Võ sĩ mà không dám bảo vệ quyền lợi thiết yếu của mình được sao?
Nếu Trung quốc đánh Việt Nam kịch bản có thể là: Chính phủ cộng sản Việt Nam nếu còn một chỗ đất để trụ (dưới sự bảo vệ của Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc) sẽ đưa vấn đề xâm lăng ra Liên hiệp quốc. Cộng đồng thế giới yểm trợ Việt Nam, nhưng phiếu phủ quyết của Trung quốc sẽ không cho Liên hiệp quốc hành động. Nếu Hoa Kỳ hành động sẽ phải hành động một mình với sự trợ lực của các đồng minh, nhất là các đồng minh Âu châu.
Chiến tranh nguyên tử sẽ bùng nổ chăng? Hoa Kỳ, Trung quốc và cộng đồng thế giới đều không muốn tự diệt nên sẽ không (hay chưa) có chiến tranh nguyên tử. Chiến tranh quy ước trên không, trên biển và nhất là trên bộ là chọn lựa của Trung quốc.
Nhưng cục diện khó dừng ở đó. Các nhà chiến lược Hoa Kỳ biết rằng trước sau trong thế kỷ 21 này, Trung quốc và Hoa Kỳ cũng phải đụng độ nhau trong một cuộc chạm trán thư hùng để phân chia ngôi thứ, và thời gian càng trôi qua càng bất lợi cho Hoa Kỳ.
Vậy … vậy tại sao không nhân cơ hội này dùng thế thượng phong quân sự và lực lượng nguyên tử áp đảo để “knock out” Trung quốc luôn. Trong cuộc chạm trán nguyên tử, Hoa Kỳ sẽ dùng “hỏa tiễn phá hỏa tiễn” (missiles anti missiles) để phá nổ các hỏa tiễn nguyên tử của Trung quốc bắn ra ngay trên không phận Trung quốc, chấp nhận bụi phóng xạ trong giới hạn sống được tại các nơi khác trên thế giới trong đó có lục địa Hoa Kỳ.
Knock out Trung quốc, trả lại tự do cho Tây Tạng, Tân Cương, Mãn châu, Việt Nam, phá bỏ cơ chế Liên hiệp quốc lỗi thời, cân bằng lại trật tự thế giới, tạo cơ hội cho các nước tại Phi châu, Nam Mỹ, các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Đức tham gia thế giới sự.
Còn vũ khí nguyên tử? Con quỹ dữ khi đã thoát ra khỏi miệng bình thì không nhốt vào bình được nữa. Cách tốt nhất là làm quen với nó để cho nó chung sống với người. Hủy bỏ đặc quyền 5 nước chính thức có vũ khí nguyên tử. Nước nào muốn chế tạo vũ khí nguyên tử cứ “bán hết thóc” và “nhịn đói” mà chế tạo. Ai cũng có thì chẳng ai dọa được ai, và con quỷ nguyên tử sẽ biến thành con cừu. Không có gì chướng mắt bằng thấy Nga, Mỹ, Tàu, Anh, Pháp ôm khư khư kho bom của mình, trong khi ai chế bom thì la ó ồn ào làm như thế giới tiêu vong đến nơi!
Phải nhân cơ hội Trung quốc “mó dái ngựa ” đá cho Trung quốc té nhào và xây dựng lại một trật tự thế giới công bình hơn. Việt Nam sẽ nhân đó thoát khỏi đại nạn cộng sản. Một thời đại mới mở màn trong cảnh hoang tàn, nhưng là bước khỏi đầu cho một nước Việt Nam tự do dân chủ và phú cường xứng đáng với tài nguyên, đất đai con người và lịch sử của nó.
Viết đến đây tôi bàng hoàng như qua một giấc mộng, thấy mình đáng bị đánh vài hèo vì tội nói khoác. Có bị vài hèo cũng chịu, tôi chỉ hy vọng các nhà lãnh đạo Trung quốc chia sẻ giấc mộng của tôi để biết sợ mà không dám “mó dái ngựa”. Hãy để yên cho đất nước tôi. Mấy ngàn năm chúng tôi thâm nhập văn hóa quý vị, thế mà quý vị đã không đồng hóa nổi chúng tôi thì bây giờ quý vị đừng hy vọng hão huyền có thể nuốt chửng chúng tôi.
Tôi cũng hy vọng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ chia sẻ giấc mộng này để nhân cơ hội “Trung quốc đánh Việt Nam” tung vó đập tan cường bạo, tái lập lại trật tự thế giới và đồng thời cải tạo chính mình thoát ra khỏi cái vòng tròn luẫn quẩn càng lúc càng tự lừa dối mình.
Và đó là dịp để thức tỉnh những người đang lãnh đạo đất nước Việt Nam trở về với cội nguồn và là niềm hy vọng của đại khối nhân dân Việt Nam sống trong nước hay đang sống ở chân trời góc biển nào.
Cùng tất biến, biến tất thông. Đó là quy luật.

Trần Bình Nam

12 THÁNG ANH ĐI