26 thg 12, 2012

AI THẮNG? AI THUA?

Trần Trung Chính

Bàn luận về sắc đẹp của phụ nữ, chúng ta thường được nghe những mại viên của ngành cosmetics cũng như các chuyên viên trang điểm cho phụ nữ cho rằng: “Không có phụ nữ nào xấu cả, chỉ có những người chưa được đẹp vì họ chưa biết trang điểm”.

Phản bác một phần của nhận định này , cá nhân người viết bài này cho rằng: “thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu không phải vì họ không biết trang điểm mà là vì họ đã trang điểm nhiều rồi mà nhan sắc của họ vẫn chưa thể đẹp lên được chút nào cả. Thí dụ: Thị Nở - girl friend của Chí Phèo trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao hay hoặc Chị Doãn được nhà văn Vũ Trọng Phụng mô tả “Chị Doãn có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai”.

Ông bạn thân của tôi – nhà văn Trần Văn Giang – còn chua chát hơn khi cho rằng: “thực tế có một số phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nhìn nhận là mình xấu !!!”

Thời gian gần đây, nhà báo Huy Đức đã phóng lên mạng phổ biến quyển sách với tựa đề BÊN THẮNG CUỘC và “phe ta” đã lên tiếng đáp trả khá sôi động. Tôi viết bài viết này để chứng minh BÊN THẮNG CUỘC không phải là phía Việt Cộng mà nhà báo Huy Đức được các “bề trên “của ông ủy thác tâm sự hay nhà báo Huy Đức ghi nhận các sự kiện theo cách riêng của ông. Cũng như các phụ nữ thật sự xấu nhưng vẫn chưa chịu nhìn nhận mình là xấu, Việt Cộng chưa bao giờ nhìn nhận họ là BÊN THUA CUỘC. Sử Ký là ghi lại những sự kiện (facts), không ai có quyền và không ai có tư cách để sửa đổi sự kiện lịch sử, nhưng những thông tin tôi đưa vào bài viết này là những facts mà không thấy “phe ta” nêu ra trên diễn đàn, và tôi tin chắc rằng phía Việt Cộng sẽ thay đổi ý kiến (opinion) hoặc im lặng để ngậm ngùi cho thân phận “con ếch mà cứ muốn to bằng con bò”.

1.- Chiến tranh Triều Tiên 1950 – 1953 , khi Thống Tướng Mac Arthur chỉ huy 280,000 quân Liên Hiệp Quốc (trong đó có 250,000 binh sĩ Hoa Kỳ) đổ bộ Inchon bắt được hơn 130,000 quân Bắc Hàn và đẩy lui quân Bắc Hàn đến tận sông Áp Lục, Mao Trạch Đông chỉ thị nguyên soái Bành Đức Hoài chỉ huy 1 triệu chí nguyên quân Trung Hoa tràn sang Triều Tiên đẩy lùi quân Liên Hiệp Quốc xuống vĩ tuyên 38. Thống Tướng Mac Arthur trình kế hoạch tấn công Trung Cộng vào sâu trong lục địa, Tổng Thống Harry Truman biết kế hoạch của tướng Mac Arthur chỉ đúng về mặt quân sự, ông cất chức tướng Mac Arthur triệu hồi về Mỹ và bổ nhiệm tướng Ridgway lên thay vì ông không muốn sa lầy vào chiến trường Triều Tiên (kinh nghiệm 1 triệu quân Quan Đông của Nhật Bản rải vào Trung Hoa chả thấm vào đâu mà chỉ giữ được một số tỉnh ven biển) và khi sa lầy ở Trung Hoa thì Hoa Kỳ sẽ mất Âu Châu vào tay Staline. Cù cưa mà chả bên nào lấn chiếm thêm được nữa nên Hiệp Định ngưng chiến Bàn Môn Điếm ra đời. Cả 2 nước Nam – Bắc Triều Tiên khi ngưng bắn vào năm 1953 vẫn còn trong tình trạng chiến tranh cho đến tận bây giờ (2012). Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai cũng như Đảng Cộng Sản Trung Hoa cảm thấy thất vọng vì Hoa Kỳ vẫn không công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và cũng không thèm đối thoại với các lãnh tụ Trung Cộng trên bình diện ngoại giao chính thống.

2.- Chiến tranh Việt Pháp từ năm 1946 đến 1954 đưa Trung Cộng đến Hội Nghị Geneve , nhưng Trung Cộng vẫn không tiến triển thêm được bước nào trong mục tiêu được Hoa Kỳ công nhận.. Tháng 5/1972 khi Tổng Thống Richard Nixon đến Bắc Kinh, chính Thủ Tướng Chu Ân Lai tiết lộ chi tiết bị người Mỹ coi thường vào năm 1954 ở Hội Nghị Geneve: Chu Ân Lai lúc đó là Thủ Tướng kiêm Ngoai Trưởng của Trung Cộng đến phòng họp trước Ngoại Trưởng Dulles của Hoa Kỳ, khi Dulles đến, Chu Ân Lai tươi cười dơ tay trước. Ngoại Trưởng Dulles mặt nghiêm bước vào phòng họp mà không bắt tay Chu Ân Lai, khi đi ngang Chu Ân Lai ông này quay mặt nhìn ngang sang Chu Ân Lai rồi bước vào phòng họp nói chuyện với Ngoại Trưởng Liên Sô là Molotov và Ngoại Trưởng Anh là Sir Anthony Eden: Chu Ân Lai thừa hiểu là Dulles coi Trung Cộng là tay sai của Liên Sô nên Dulles chỉ nói chuyên với boss của Chu Ân Lai là Molotov . 10 năm sau, Tổng Thống Pháp là tướng Charles De Gaulle vì kèn cựa với Hoa Kỳ nên năm nào cũng đề nghị cho Trung Cộng gia nhập Liên Hiệp Quốc (với sự đồng thuận và hỗ trợ của Liên Sô) nhưng Hoa Kỳ vẫn nói KHÔNG. Và Trung Cộng cũng đành bó tay không có cách nào khác.

3.- Chiến tranh Việt Nam từ năm 1965 (tôi lấy thời điểm này làm mốc vì quân đội Hoa Kỳ chính thức vào Việt Nam qua văn thư yêu cầu của Thủ Tướng Phan Huy Quát) đã khiến Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đến Bắc Kinh. Mao Trạch Đông , Chu Ân Lai và Đảng Cộng Sản Trung Hoa vui mừng “không còn chỗ nói”, vì qua bản thông cáo Thượng Hải 1972 Trung Cộng đạt được 3 mục tiêu chiến lược:

A ) Được Hoa Kỳ thừa nhận là một “thực thể quốc gia” (trước đó Hoa Kỳ chỉ coi chính quyền Trung Cộng là một “thực tế” ) cho nên sẽ có thiết lập bang giao với sứ thần đàng hoàng chứ không còn nhờ một quốc gia khác đại diện bảo vệ quyền lợi .

B ) Hoa Kỳ đồng ý cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa gia nhập Liên Hiệp Quốc thay thế cho Trung Hoa Dân Quốc, có quyền phủ quyết như trong Hiến Chương San Francisco quy định (mục tiêu này mãi tới 21 năm kể từ 1949, Trung Cộng mới đạt được ) .

C ) Hoa Kỳ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa duy nhất ( nhiều người tưởng là Hoa Kỳ ngu dại khi công nhận điều khoản này, trong khi Hoa Kỳ thừa biết là Trung Cộng muốn tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực thì phải có một hải lực cực mạnh, mặt khác vì Tổng Thống Tưởng Giới Thạch dù thực tế chỉ giữ được Đài Loan nhưng ông vẫn có một Quốc Hội đại diện cho 18 tỉnh của Trung Hoa Lục Địa và ông cho rằng chiếc ghế của Trung Hoa Dân Quốc đại diện cho nước Trung Hoa. – [nên nhớ rằng năm 1943, khi họp tại Yalta, các lãnh tụ phe Đồng Minh bàn định về kế hoạch chấm dứt Thế Chiến II và tương lai của thế giới sau khi chiến tranh chấm dứt, 4 lãnh tụ đó là: Tổng Thống Roosevelt của Hoa Kỳ , Thủ Tướng Churchil của Anh Quốc, Chủ Tịch Staline của Liên Sô và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa , nước Pháp không có đại diện vì không được mời họp ] ) Khi Tổng Thống Lý Đăng Huy của Quốc Dân Đảng là người Đài Loan lên cầm quyền, thì thế hệ của Tưởng Giới Thạch – Tưởng Kinh Quốc đã qua đời, nếu Trung Cộng tiến đánh Đài Loan bằng vũ lực thì danh hiệu Trung Hoa Dân Quốc sẽ không còn và sẽ trở thành Cộng Hòa Đài Loan đồng thời Cộng Hòa Đài Loan sẽ chính thức xin gia nhập Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ sẽ can thiệp vì Trung Cộng đã xâm lăng một quốc gia khác) .

Tuy tự công nhận là BÊN CHIẾN THẮNG trong chiến tranh Việt Nam, nhưng Trung Cộng không ồn ào khoe rùm beng như phía Việt Cộng vì cả Mao Trạch Dông và Chu Ân Lai đều hiểu rằng 2 kẻ chơi cờ đấu trí với nhau trên bàn cờ thế giới lúc bấy giờ là Hoa Kỳ và Liên Sô. Việc Hoa Kỳ không phải tự nhiên ban cho Trung Cộng nhiều đặc ân mà chính là Hoa Kỳ đã sử dụng Trung Cộng như một con cờ nhằm “chiếu bí” Liên Sô và Mao Trạch Đông + Chu Ân Lai chấp nhận vai trò ấy trong tinh thần “đôi bên cùng có lợi”.

Phía Việt Cộng do các đàn anh “phỉnh gạt” và cũng hay “nổ bậy để dương oai” để lòe và lường gạt dân Việt nên lúc nào cũng rêu rao là “Cách Mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” (khi xưa, thất bại thì hô lên do Mỹ - Ngụy phá hoại , bây giờ thì nói bâng quơ là do “thế lực thù địch” không dám nêu đích danh quốc gia hay chính phủ nào cả ). Tôi liệt kê vào bài viết này những mất mát và thua thiệt của Việt Cộng để chứng minh rằng Việt Cộng chỉ là những kẻ THUA CUỘC trên bàn cờ thế giới. Dĩ nhiên phía Việt Cộng (trong đó có nhà báo Huy Đức) và cả “phe ta” đều thắc mắc là chính phủ VNCH sụp đổ , quân nhân cán bộ và viên chức chính quyền VNCH bị cầm tù đày đọa trong nhiều năm trời (trong đó có cá nhân người viết bài này cũng bị cầm tù 8 năm), dân chúng của miền Nam bị kỳ thị, bị xua đuổi ra khỏi thành phố và phải vượt thoát khỏi sự cai trị hà khắc của Việt Cộng…thì không phải là PHÍA THUA CUỘC thì là phía gì ?

Việt Nam Cộng Hòa (bao gồm chính phủ và nhân dân VNCH) không phải là phía “play game” trong chiến tranh Việt Nam 1954 – 1975, chúng ta bị buộc phải tham chiến để bảo vệ lãnh thổ và sinh mạng người dân như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trước lưỡng viện Quốc Hội VNCH khi ông từ chối bước vào hòa đàm Paris năm 1968 dưới thời Tổng Thống Lyndon Johnson: “chúng ta thà rằng chết bây giờ để hy vọng rằng con cháu chúng ta được sống…”. Ba cuộc tấn công lớn trong những năm 1968 Tết Mậu Thân, Mùa Hè Đỏ Lửa trong năm 1972, cũng như cuộc Tổng Tấn Công vào đầu năm 1975 đều hoàn toàn do Bắc Việt chủ trương với sự yểm trợ tối đa về vũ khí của khối Cộng. Và biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra vì Hoa Kỳ không muốn play game nữa, trong khi quân dân VNCH đã chiến đấu tận tình trong khả năng và ý chí của mình.

Những ai trách móc Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm …phải có trách nhiệm để làm mất VNCH là nói bậy, ăn theo bả tuyên truyền của Việt Cộng: vì muốn đem lại hòa bình thật sự cho toàn cõi Việt Nam, thì phải tiêu diệt kẻ đi xâm lược là Bắc Việt, các vị lãnh đạo VNCH không ai có khả năng tiêu diệt Việt Cộng (tức là đánh gục Bắc Việt) cho nên tôi rất thương cảm các vị lãnh đạo của VNCH. Người lãnh đạo giỏi thì chông cự quân xâm lăng được lâu, người lãnh đạo dở thì chống cư với thời gian ngắn hơn. Đối với tôi,khi gặp những kẻ chê trách các vị lãnh đạo VNCH, tôi chỉ hỏi cá nhân hay phe nhóm của những kẻ đó hãy kể cho tôi nghe những nỗ lực giữ nước của họ, thì những kẻ này bỏ đi vì họ và phe nhóm của họ NOTHING TO DO (ấy là chưa kể họ và phe nhóm của họ dấu diếm và chứa chấp Việt Cộng trong nhà như là một hình thức “đâm sau lưng chiến sĩ” ).

Sự thua thiệt thứ nhất: Hồ chí Minh cướp chính quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim, tuyên bố độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 nhưng không có một cường quốc nào công nhận cả ( kể cả Liên Sô là nước khai sinh ra chế độ Cộng Sản). Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam khoác lác tuyên truyền và sửa lịch sử rằng họ cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp trong khi thực tế cho thấy rằng khi quân đội Nhật đảo chính quân Pháp tại Đông Dương vào tháng 3 năm 1945 thì tất cả viên chính hành chánh và quân đội Pháp đều bị bắt giam hết cả: thực dân Pháp đâu còn nắm chính quyền nữa thì lấy đâu ra chính quyền trong tay thực dân Pháp để cho Hồ chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam cướp !!!

Đối với Anh Mỹ , qua cơ quan OSS và tài liệu của Sở Liêm Phóng Đông Dương, họ biết Hồ chí Minh là một tên Cộng Sản đệ tam quốc tế. Còn Staline thì cho rằng Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông nên Liên Sô không ủng hộ ( Staline nhận định quá chính xác vì quả thực Hồ chí Minh là tay sai của Mao Trạch Đông mặc dù mồm miệng vẫn ca tụng Staline ) . Vả lại hội nghị Postdam xảy ra ngay sau khi Hitler tự sát và nước Đức Quốc Xã đầu hàng vào tháng 5/1945 đã phân định trách nhiệm và địa phận của các nước thắng trận trước khi nước Nhật đầu hàng vào tháng 8/1945.

Vì Việt Nam không được các cường quốc công nhận sự độc lập vừa mới tự xưng nên khi quân đội Trung Hoa của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch (do tướng Lư Hán chỉ huy ) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra và quân đội Anh (do tướng Gracey chỉ huy) vào Việt Nam giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào thì Hồ chí Minh không dám đưa ra bất kỳ lời phản đối nào. Tướng Charles de Gaulle – thủ lãnh của nước Pháp Tự Do – vận động riêng với Thủ Tướng Churchill của Anh cho phép quân Pháp theo chân quân Anh vào Sài Gòn (quân Pháp do tướng Lecler chỉ huy). Tôi không thấy Hồ chí Minh và Bộ Ngoại Giao của nước VNDCCH đưa ra được một công hàm ngoại giao nào để lên tiếng phản đối về sự can thiệp của các lực lượng ngoại nhập vào công việc nội bộ của một nước độc lập tự chủ ? Như vậy chứng tỏ Hồ chí Minh và chính quyền của nước VNDCCH không hề có một thể diện nào trên chính trường thế giới. Khi quân đội Anh làm xong nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, tướng Gracey rút quân Anh ra khỏi Việt Nam thì quân đội Pháp do tướng Lecler chỉ huy vẫn ở lại miền Nam, thì chiến tranh Việt – Pháp là điều không thể tránh được.

Sự thua thiệt thứ hai: năm 1949, sau khi đuổi được phe Quốc Dân Đảng phải chạy ra Đài Loan, Mao Trạch Đông và Đảng Cộng Sản Trung Hoa tiến chiếm toàn bộ Trung Hoa Lục Địa, Trung Cộng liền viện trợ ồ ạt cho binh đội của Việt Minh. Năm 1950, Tướng Võ Nguyên Giáp đã đủ sức mở các cuộc tấn công quân đội Pháp dọc theo biên giới Hoa – Việt: quân khu Lạng Sơn của Pháp bị thất thủ rơi vào tay quân đội Việt Minh và chính phủ Pháp phải đưa Thống Tướng De Lattre Tassigni làm Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh Pháp tại Đông Dương đồng thời tăng cường thêm viện binh như Thống Tướng De Lattre yêu cầu (không kể lính tráng người Việt Nam, quân số quân đội viễn chinh Pháp dưới thời Thống Tướng De Lattre chỉ huy lên tới 220,000 người).

Là một tướng giỏi, Thống Tướng De Lattre đã đẩy lui quân đội Việt Minh trên nhiều mặt trận kể cả trận Hòa Bình, người con trai duy nhất của ông là Trung Úy Bernard De Lattre bị tử thương tại trận này. Nhưng ông biết rằng nước Pháp không đủ sức để đối đầu với Trung Hoa vĩ đại , nên sau khi biết Đại Tướng Eisenhower đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1952 – 1956, ông sang Hoa Kỳ vận động tân Tổng Thống Eisenhower trợ giúp nước Pháp. Về mặt cầu viện Hoa Kỳ, chính phủ Pháp đã tỏ ra là một chính phủ lãnh đạo kém: Ngoại Trưởng hay Thủ Tướng Chính Phủ sao không đi Hoa Kỳ làm công việc ngoại giao mà phải để một ông tướng đương nhiệmTư Lệnh chiến trường Đông Dương phải đi Washington D.C. trong lúc chiến trường đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng cần sự có mặt liên tục của Thống Tướng De Lattre ? Phải chăng chính phủ Pháp lợi dụng sự thân tình giữa Đại Tướng Eisenhower và Thống Tướng De Lattre trong thời gian Đại Tướng Eisenhower làm Tổng Tư Lệnh quân đội Đồng Minh đánh lại quân của Hitler và Mussolini hồi trước năm 1945 ? Điều đó không sai khi Hoa Kỳ đồng ý viện trợ vũ khi, quân trang, quân dụng cho quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương.

Tổng Thống Eisenhower gợi ý là nước Pháp nên trao trả độc lập cho Việt Nam (dĩ nhiên trao cho người quốc gia chứ không phải trao cho cán bộ Cộng Sản như Hồ chí Minh) và quân đội Pháp – do sự yêu cầu của chính quyền độc lập tự chủ chiến đấu tại chiến trường Đông Dương để ngăn chặn Cộng Sản như Hoa Kỳ đã làm tại chiến trường Cao Ly hồi 1950 – 1953. Thống Tướng De Lattre ghi nhận ý kiến của Tổng Thống Eisenhower, ông cũng cho Tổng Thống Mỹ biết là ông không có ảnh hưởng gì nhiều đến chính trường Pháp, tuy nhiên ông hứa là ông sẽ vận động trong chính giới Pháp. Từ Hoa Kỳ, Thống Tướng De Lattre trở lại Đông Dương ngay, và chỉ một thời gian sau đó ông phải trở về Pháp để chữa bệnh ung thư rồi chết tại Pháp mà chưa có kịp vận động hay thuyết phục chính giới Pháp gì hết !!!

Với các thông tin này, chúng ta thấy rằng nếu Hồ chí Minh là người quốc gia thì nước Việt Nam của chúng ta đã được Hoa Kỳ - Anh – Pháp ủng hộ từ lâu và sẽ không có chiến tranh, đổ vỡ, tan nát và chia rẽ như hiện nay: các nước Đông Nam Á cựu thuộc địa như Indonesia, Malaysia, Philippines …vì không có Cộng Sản nên được trao trả độc lập, an hưởng thái bình và xây dựng quốc gia phú cường. Do đó Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đảng viên Việt Cộng lúc nào cũng lớn lối về lòng tự hào “đánh thắng nhiều tên đế quốc” mà không bao giờ tự hỏi “đánh thắng để được cái gì ” chứ ?

( Có lẽ để đạt danh hiệu “anh hùng Xã Hội Chủ Nghĩa” hão huyền chăng, ký giả Huy Đức là người trưởng thành trong XHCN có thể giải thích hiện tượng “thích làm anh hùng” để người Việt tỵ nạn Cộng Sản hiểu thêm về con người Cộng Sản !!!”

Sự thua thiệt thứ ba: khi cầm tù được tướng De Castries và khoảng hơn 10.000 binh sĩ Pháp tại thung lũng Điện Biên Phủ, Đảng Cộng Sản Việt Nam tự ca lên rằng đã đánh gục và đuổi được Đế Quốc Pháp để dành được độc lập cho Việt Nam. Tôi nói quân đội Việt Minh cầm tù được tướng De Castries vì trong bức điện cuối cùng gửi cho Bộ Tư Lênh Quân Đội Pháp đóng tại Hà Nội, tướng Castries cho hay ông đã ra lệnh cho toàn thể binh sĩ dưới quyền trú đóng tại cứ điểm Điện Biên Phủ “ngưng chiến đấu” . 2 bức hình – do phía Việt Cộng chụp – đã minh chứng điều này: một bức hình chụp từ phía sau một cán binh Việt Cộng cho thấy anh này đang cầm cờ trắng chạy lên cắm tại nóc hầm chỉ huy của tướng De Castries chớ tướng De Castries không có cắm cờ trắng trên hầm chỉ huy của ông. Bức hình thứ hai chụp tướng De Castries từ trong hầm chỉ huy bước ra, ông không có dơ 2 tay lên cao khỏi đỉnh đầu thì sao Việt Cộng dám bảo là tướng De Castries đầu hàng ?

Chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Minh không phải là chiến thắng trọn vẹn vì sự sụp đổ của căn cứ Điện Biện Phủ chỉ đánh sập được ý chí chiến đấu của chính phủ Pháp và nhân dân Pháp chứ quân đội Pháp tại chiến trường Đông Dương vẫn giữ vững được các cứ điểm trọng yếu khác. Nhà báo Huy Đức cũng như các “bề trên” trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chắc chắn không biết câu châm ngôn danh tiếng của binh đoàn Lê Dương: “nước Pháp không hỏi bạn từ đâu đến, thì bạn cũng đừng bao giờ hỏi nước Pháp sẽ đưa bạn đi đâu”. Một người chú họ xa của tôi, sau năm 1975, vào Sài Gòn có kể một câu chuyện về tính liêm sỉ của một người Đức – nguyên là lính SS của chế độ Quốc Xã sau năm 1945 tình nguyện vào binh đoàn Lê Dương – người lính Lê Dương này dù quân số ít hơn vẫn không chịu đầu hàng, sau cùng bị thương nặng ngất xỉu thì bị bắt làm tù binh. Sau khi được cứu chữa tỉnh dây, sĩ quan quân báo của Việt Minh đến hỏi lý do tại sao không đầu hàng để được sống, người lính Lê Dương gốc Đức này trả lời khiến mọi người ngạc nhiên: “tình nguyện vào binh đoàn Lê Dương tức là lính đánh thuê, tao mà đầu hàng thì về sau ai mà thuê người Đức làm lính đánh thuê nữa”.

Việt Cộng và Trung Cộng thì chê tướng Navarre (cha đẻ ra cứ điểm Điện Biên Phủ) là dở vì 16,000 quân Pháp nằm dưới thung lũng sẽ ăn đạn pháo mà chết không thể phản pháo được. Khi thiết lập căn cứ Điện Biên Phủ, tướng Navarre biết điều đó nhưng đây là chiến thuật “cục đường nhử đàn kiến”, 16,000 quân của Đại Tá De Castries nằm dưới thung lũng Điện Biên Phủ đã quyến rũ được 40,000 quân Việt Minh của tướng Võ Nguyên Giáp (không kể số dân quân đi tải vật liệu và trnag cụ vũ khí). Quân của tướng Võ Nguyên Giáp sẽ bị tiêu diệt bởi lực lượng Không Quân Chiến Lược của …Hoa Kỳ (vì không lưc của Pháp tại Đông Dương yếu lằm) . Khi căn cứ Điện Biên Phủ vừa bị tấn công, quân đội Pháp tại Đông Dương trông chờ tiếp cứu từ Không Lực Hoa Kỳ nhưng vì chính phủ Pháp vẫn còn đầu óc thực dân không chịu trao trả độc lập cho người quốc gia Việt Nam nên chính phủ Hoa Kỳ không muốn ủng hộ Đế Quốc Pháp để duy trì tình trạng thuộc địa tại Đông Dương.

Các hồ sơ được giải mật sau này cho thấy là Tổng Thống Eisenhower đã nói với đại diện chính phủ Pháp là Hoa Kỳ sẽ tham chiến nếu đồng minh Anh Quốc cũng đồng ý như vậy, trong khi đó Thủ Tướng Churchill trả lời với Thủ Tướng Daladier là: “nước Anh đã trao trả độc lập cho thuộc địa Ấn Độ từ năm 1947, thì không có lý do gì lại đi giúp nước Pháp để duy trì thuộc địa tại Đông Dương” . Như vậy sự sụp đổ của cứ điểm Điện Biên Phủ là do chính phủ Pháp chứ không phải do tướng lãnh và quân đội Pháp. Sau khi căn cứ Điện Biên Phủ sụp đổ, Thủ Tướng Daladier từ chức và chính khách Mendes France lên thay thế với khẩu hiệu “phải ký cho được một thỏa ước ngưng chiến với Việt Minh trong tháng 7/1954, nếu không được, chính phủ của tôi sẽ ra đi”.

Sự thua thiệt thứ tư: Tình hình căn cứ Điện Biên Phủ sắp tới hồi kết thúc, thì Thủ Tướng Bửu Lộc của chính phủ Quốc Gia Việt Nam từ chức, ông Ngô Đình Diệm lên thay thế. Tại hội nghị Geneve 1954, trưởng phái đoàn của chính phủ Quốc Gia Việt Nam lúc bấy giờ là luật sư Nguyễn Quốc Định được thay thế bởi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ ( bác sĩ Trần Văn Đỗ là em trai của Luật Sư Trần Văn Chương, là chú ruột của bà Ngô Đình Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân). Khi mới sang Geneve, ông Phạm Văn Đồng có hỏi ngoại trưởng Trần Văn Đỗ là có nhận chỉ thị gì của chính phủ Sài Gòn về việc chia cắt đất nước Việt Nam hay không ? Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ trả lời là ông không có chỉ thị nào về việc này và cũng không nghe dư luận bên ngoài chính phủ bàn tán gì về việc chia cắt đất nước.

Thời gian sau đó, ngoại trưởng Trần Văn Đỗ mới biết là các đại cường đồng ý với việc chia cắt Việt Nam ra làm 2 , chỉ còn bàn cãi là cắt ở đoạn nào mà thôi. Phía Việt Cộng muốn lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới ( tức là toàn thể tỉnh Thừa Thiên tới sát Đèo Hải Vân), phía Pháp muốn lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới hoặc nếu Việt Minh muốn lấy tới vĩ tuyến 16 thì phải nhường hành lang Bùi Chu – Phát Diệm – Nam Định cho Pháp. Molotov cho Chu Ân Lai và Phạm Văn Đồng hay rằng Liên Sô có kinh nghiệm cay đắng về hành lang Tây Đức nối với Tây Bá Linh nên phía Liên Sô cảnh báo là không nên nhận giải pháp này vì “lợi bất cập hại”. Phía Mỹ thì không có ý kiến vì phái đoàn Mỹ đến Geneve trong vai trò giám sát và bảo chứng cho việc ký kết một hiệp định ngưng bắn giữa Pháp và Việt Minh. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ điện về Sài Gòn báo cáo tình hình hình cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm và xin chỉ thị về việc chia cắt đất nước. Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chỉ thị cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước Việt Nam và phía chính phủ của Quốc Gia Việt Nam sẽ không ký vào hiệp định Geneve 1954 .

Sau khi Đặng Tiểu Bình dạy cho Việt Cộng một bài học vào năm 1979, Ban Lãnh Đạo của Đảng CSVN mới công bố Sách Trắng về Trung Quốc, thì nhân dân miền Bắc và các đảng viên cấp dưới mới biết rằng chính Chu Ân Lai thúc ép Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng phải nhận Bắc Việt ( nói theo kiểu dân chơi trong giới giang hồ: “thế là mất mẹ miền Nam cho bọn Mỹ - Ngụy). Ông Huy Đức và những người có ăn học hiểu biết trong XHCN có bao giờ thắc mắc đặt câu hỏi là: tại sao đang thắng lớn mà lại không tiếp cuộc chiến để dành hoàn toàn độc lập cho VN ? Tại sao lại chịu nhận làm chủ chỉ có một nửa nước để rồi 6 năm sau phải thành lập MTGPMN và phải đợi tới 15 năm sau mới “giải phóng” toàn bộ VN với tổn thất riêng miền Bắc không thôi cũng đã lên tới con số suýt soát 3 triệu người ? Câu trả lời chắc chắn chỉ có Đảng CSVN mới đủ kích thước và tư cách để trả lời.

Sự thua thiệt thứ năm: từ năm 1969, phái đoàn Bắc Việt cãi chầy cãi cối, cãi lòng vòng rất mất thì giờ về bàn vuông, bàn tròn, bàn hình chữ nhật… với mục đích là để được nói chuyện tay đôi với Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam .

Nhưng tới năm 1972, Tổng Thống Richard Nixon và Cố Vấn của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ là Henry Kissinger đi thăm Liên Sô và Trung Cộng,, thì không một ai trong hàng ngũ lãnh đạo của Bắc Việt lại chịu hiểu rằng số phận cả nước Việt Nam được định đọat tại điện Kremlin và khu biệt thự có tên gọi là Trung Nam Hải., chứ không phải được định đoạt tại hòa đàm Paris. Hiệp Định Paris năm 1973 là một “bẫy rập”, nhằm giúp Hoa Kỳ rút chân ra khỏi Đông Dương, miếng mồi béo bở mà Hoa Kỳ đặt trong bẫy này là điều 21B trong bản Hiệp Định: “Hoa Kỳ sẽ viện trợ 3 tỷ dollars cho Việt Nam nếu các bên tuân thủ các điều ký kết. Quyền tự quyết của nhân dân phải do nhân dân Việt Nam quyết định bằng lá phiếu bầu cử…” (hay đại loại gần giống như thế vì tôi không trích nguyên văn điều khoản này )

Khi Việt Cộng dứt điểm VNCH bằng vũ lực, tức là phía Việt Cộng ngang nhiên xé bỏ bản Hiệp Định Paris 1973 do chính họ đặt bút ký thì Hoa Kỳ đã có lý do để “xù nợ” tức là không viện trợ cho Việt Nam một xu nào hết mà bọn lãnh tụ Việt Cộng không thể kiện cáo vào đâu được. Nên nhớ là vào năm 1976, sau khi thống nhất 2 miến, chính quyền Việt Cộng kiểm kê dân số Việt Nam được 45 triệu người và tổng sản lượng quốc gia là 4 tỷ dollars, do vậy số tiền 3 tỷ dollars đối với chính quyền Việt Cộng là một số tiền rất lớn ( Cũng qua tờ báo Nhân Dân in tại Hà Nội, trong trại tù chúng tôi được biết rằng dòng họ Morgan có tích sản 170 tỷ dollars, được xếp hạng nhất tại Hoa Kỳ, dòng họ Rockefeller có tích sản 127 tỷ dollars được xếp hạng nhì, trong khi tồng sản lượng quốc gia GNP của Hoa Kỳ là 2,000 tỷ dollars. Nêu ra chi tiết để ký giả Huy Đức và các “bề trên” trong Đãng CSVN thấy rằng, tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam không bằng số lẻ của tích sản dòng họ Rockefeller)

Nếu ký giả Huy Đức và các đảng viên Đảng CSVN cứ ngoan cố cho rằng Việt Cộng là BÊN THẮNG TRẬN thi tôi yêu cầu ký giả Huy Đức hãy đưa ra những thành quả cụ thể mà phía Việt Cộng thủ đắc được sau khi cướp đoạt được miền Nam bằng vũ lực, dĩ nhiên thành quả cụ thể phải tính bằng tiền chứ nói thành quả chung chung như Việt Cộng đã nói từ hơn 50 năm qua, là điều người đọc không chấp nhận được.

Trung Cộng sẽ xâm chiếm Việt Nam và nếu họ chiến thắng Việt Cộng và cai trị toàn cõi Việt Nam, liệu ký giả Huy Đức và những “bề trên” cao cấp trong Đảng CSVN có đủ liêm sỉ để ca ngợi mấy anh Ba Tàu Đỏ là BÊN THẮNG CUỘC hay không ? Nếu có thì tiếp tục giữ tựa đề quyển sách này, nếu không thì có lẽ tựa đề VIỆT NAM ƠI ! HÃY KHÓC LÊN ĐI QUÊ HƯƠNG YÊU DẤU là thích hợp nhất.

Trần Trung Chính

San Jose ngày 25 tháng 12 năm 2012

4 thg 12, 2012

Tàu: Một Tân Đế Quốc Thực Dân Hay Thời Xuân Thu Chiến Quốc?

Nguyễn Văn Trần

Từ nhiều năm nay, tuy tự thừa nhận là quốc gia đang phát triển, Tàu không dấu thái độ hóng hách, kiêu căng do mức phát triển với 2 số liên tục suốt trong thời gian dài. Nhiều nhà phân tách đã không bỏ qua trường hợp nước Tàu để tìm hiểu và dự đoán tương lai.

Người ta đang theo dõi thế giới thay đổi sâu xa và khủng hoảng tài chánh sẽ góp phần làm gia tăng ảnh hưởng về tốc độ sự vận hành của thế giới. Sức mạnh kinh tế của những quốc gia kỹ nghệ phát triển xưa đang suy thoái để nhường chỗ cho những nước đang phát triển, trong đó có Tàu đứng đầu. Tình hình này, theo nhiều nhà kinh tế học, sẽ còn kéo dài trong nhiều năm nữa.

Tuy nhiên cũng có không ít những nhà kinh tế học khác lại quả quyết sự cầm cự của những quốc gia đang phát triển chống lại tình trạng khủng hoảng chung sẽ không kéo dài được lâu. Trong số những nhà kinh tế này, Ông Nouriel Roubini, nhà chuyên môn dự báo những thảm họa quốc gia, hồi tháng 4 vừa qua, đã lên tiếng nhận xét về mô hình phát triển Trung quốc. Theo ông,«Trung quốc không thể đứng vững được lâu hơn và sẽ sụp đổ, rất có thể sau năm tới 2013». Vì không có một nước nào trên thế giới có thể sản xuất để đem 50% sản lượng nội địa đưa vào đầu tư mà không tạo ra những quá tải đối với khả năng sản xuất và không đẻ ra những tín dụng xấu.

Ông Francis Fukuyama, nhà chánh trị học, xã hội học và triết học của Mỹ, tiên đoán một cách quả quyết hơn «Tôi nghĩ cái hệ thống ở Tàu sẽ nổ tung một lúc nào đó» vì theo ông, «tương lai nước Tàu không có gì chắc chắn. Sự cứng rắn của hệ thống chánh trị càng ngày sẽ đụng chạm mạnh với sự nhanh chóng của tin tức qua những mạng xã hội». Mà đụng chạm thì phải bùng vỡ thôi.

Như trong năm rồi, tai nạn xe lửa cao tốc xảy ra, nhà cầm quyền Bắc kinh theo thói quen dấu dân chúng, cho chôn dấu tất cả vết tích của vụ việc. Nhưng dân chúng dồn dập đưa tin với cả đầy đủ hình ảnh. Nhà cầm quyền Bắc kinh sau cùng phải thừa nhận sự thật tệ hại đó.

Nhà cầm quyền ở Bắc kinh cũng biết rõ những khó khăn và nguy hiểm sanh tử cho chế độ độc tài của họ nên họ nổ lực tìm giải pháp khắc phục để tồn tại.

Chúng ta sẽ xem qua những khó khăn và khả năng đối phó để duy trì chế độ độc tài của Bắc Kinh. Trong bài này, chúng ta thử thấy Tàu có phải là một thứ Đế quốc thực dân kiểu mới hay không?

Chánh sách đối ngoại của Bắc kinh

Chưa bao giờ chỉ trong hai năm mà những trao đổi ngoại thương giữa Tàu và Phi châu gia tăng lên tới 89 %, một kỷ lục mới. Bắc kinh, đồng thời, cũng tuôn hàng hóa, có chất độc nhiều ít không biết, tràn ngập qua Phi châu đen. Mục đính là để thu về nhiên vật liệu cung ứng cho nhu cầu sản xuất của Tàu. Để bảo đảm nguồn năng lượng, Bắc kinh còn đầu tư mạnh vào các nước Phi châu có dự trữ nhiên liệu để khai thác. Khi đẩy mạnh chánh sách này, Bắc Kinh không quên trấn an các quốc gia Phi châu, vốn cựu thuộc địa của Tây phương, là Bắc Kinh không bao giờ muốn thiết lập chế độ thực dân như trước kia.

Tại Diễn đàn Hợp tác kỳ 4 giữa Tàu và Phi châu tổ chức ngày 19 tháng 7 tại Bắc kinh, Hu Jintao tuyên bố để xác định chánh sách đối ngoại của Tàu «Tàu là một trong những nước lớn nhứt của thế giới đang phát triển, và Phi châu là một lục địa lớn gồm nhiều quốc gia. Nhân dân Trung hoa và Phi châu thắt chặt những mối quan hệ bình đẳng, thật lòng, hữu nghị và cùng yểm trợ nhau trong sự phát triển chung».

Năm 1979, Đặng Tiểu Bình thay đổi đường lối cộng sản hướng về phát triển kinh tế. Ngày nay, nhà cầm quyền ở Bắc Kinh giữ ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế. Để bảo đảm nguồn nhiên liệu không bị gián đọan, Bắc kinh không ngần ngại quan hệ ngoại giao với những chánh quyền độc tài và tham nhũng. Họ còn yểm trợ những chánh quyền này như trước đây các chánh quyền thực dân đã dựng lên và nuôi dưỡng. Vì những chánh quyền này còn thì nguồn cung cấp nhiên liệu còn. Vả lại, xưa nay, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, có gì lạ!

Hơn nữa, cộng sản vốn là con đẻ của Đế quốc tư bản. Vào đầu thế kỷ trước, các công ty lớn các nước tư bản thắt chặt mối quan hệ với giới lãnh đạo các nước có tài nguyên thiên nhiên như dầu hỏa, khoáng sản, cao su…

Phải chăng thật lòng không muốn giẫm lên những bước chân thực dân cũ mà Hu Jintao đã cho các nước Phi châu quan hệ với Tàu vay 20 tỷ đô-la trong 3 năm để mở mang nông nghiệp, hệ thống hạ tầng cơ sở và xí nghiệp nhỏ. Lúc nào giới chức Bắc Kinh cũng tuyên bố là không hề can thiệp vào nội bộ các quốc gia bạn. Theo dự tính, tới năm 2035, Tàu phải cần 11, 6 triêu thùng dầu / ngày và qua 5 năm sau, mức tiêu thụ sẽ tăng lên bằng Huê Kỳ trong lúc đó, Tàu chỉ có khả năng tự túc nhiên liệu cho ¼ nhu cầu. Nhu cầu nhiên liệu ngày trở thành sanh tử cho giới lãnh đạo Bắc Kinh. Ông Le Yucheng, Thứ trưởng Ngoại giao, không giấu giếm mối lo ngại lớn của nhà cầm quyền «Bổn phận của nước Tàu là bảo đảm một đời sống đàng hoàng cho 1, 3 tỷ người dân của mình. Quí vị có thấy đó là cái thách thức vô cùng lớn không và là cái áp lực vô cùng nặng nề đè lên chánh phủ không. Tôi không thấy có gì khác là đáng kể hơn. Tất cả phần còn lại chỉ phụ thuộc vào cái ưu tiên quốc gia này». Tức vì nhu cầu nhiên vật liệu để phát triển, Tàu phải tăng cường quan hệ ngoại giao với các nước Phi châu, Nam Mỹ, khối cựu Liên-xô và Trung đông. Đó là mục tiêu hàng đầu của chánh sách đối ngoại hiện nay. Mục tiêu ngoại giao này, để bảo đảm nguồn cung cấp không bị gián đoạn vì nội chiến, sự thay đổi chế độ ở đó, được đảng và Chánh phủ, Ngân hàng Nhà nưóc và cả Quân đội yểm trợ. Riêng về nguồn dầu hỏa, Chánh phủ chỉ thị các Công ty Quốc doanh gấp rút đầu tư khai thác các mỏ dầu ở ngoại quốc.

Việc đầu tư luôn luôn đi kèm với những khoản cho vay rẻ, giúp xây dựng cơ sở thể thao, giải trí, những bữa chiêu đãi huy hoàng tại Bắc kinh và cả quân sự nữa. Các nước như Angola, Venezuela, Soudan, Zimbabwe đều được hưởng những lợi lạc này khi bắt tay «làm ăn» với Tàu. Họ nhận từ 2 tỷ tới 20 tỷ đô-la vay rẻ hoặc sự yểm trợ quân sự.

Như vậy làm sao hiểu được lời tuyên bố của Hu Jintao là Tàu ngày nay không thiết lập chế độ thực dân như Tây phương trước đây khi họ ngày càng can thiệp sâu vào nội tình các nước cung cấp nhiên vật liệu cho họ để bảo vệ quyền lợi của họ nơi đây? Trong mục đích này, Tàu không ngần ngại yểm trợ những chế độ độc tài, tham nhũng vừa quân sự vừa ngoại giao cấp Liên Hiệp quốc. Iran là một trường hợp cụ thể. Với những nước khác, Bắc Kinh chủ trương bắt lấy vài người trong Chánh quyền hoặc cả Chánh quyền bằng mua chuộc. Những người trong Chánh quyền thì giàu nhờ tiền của Tàu nhưng dân chúng thì không hưởng được gì qua cách ngoại giao này. Như ở Angola, người dân chỉ sống không quá 2 đô-la / ngày. Ở Zimbabwe, khi ủng hộ chế độ độc tài đàn áp dân của Robert Mugabe, giúp huấn luyện và tổ chức an ninh để bảo vệ chế độ, Tàu nhằm tậu đất đai trồng trọt và khai thác khoán sản, đá quí. Cách Tàu có mặt ở Phi châu không khác gì họ đang tung hoành ở Việt Nam qua đảng cộng sản Hà Nội. Đảng viên cộng sản giàu có nhờ bán đất đai, khoáng sản cho Tàu trong lúc đó dân chúng Việt nam ngày càng nghèo thêm. Đất nước sẽ không còn của Việt Nam nữa.

Tàu có phải Đế quốc thực dân kiểu mới?

Tổng thống Nam Phi nhận định rõ «cách ngoại giao của Tàu như vậy không thể tồn tại được về lâu về dài».

Theo báo cáo của Ủy Ban Phát triển Âu châu, Tàu đổ xô đầu tư vào Phi châu, khai thác đất đai nông nghiệp, khoáng sản, xây dựng hạ tầng cơ sở, …cho mọi người cảm tưởng Phi châu đang hưởng phúc lợi. Bắc kinh đang giúp vực dậy nền kinh tế Phi châu và Phi châu bắt đầu phát triển. Năm 2005, một nghiên cứu khác đưa ra một hình ảnh Phi châu tương phản. Mười bốn nước sản xuất dầu hỏa và khoáng sản bán cho Tàu có được thặng dư về ngoại thương. Ba mươi nước khác, trái lại, buôn bán bị thua lỗ vì thị trường của họ tràn ngập hàng hóa tiêu dùng rẻ tiền của Tàu, giết chết những nhà sản xuất nội địa. Đây cũng là hình ảnh của Việt Nam ngày nay.

Trong trao đổi giữa Tàu và Phi châu, cái hố ngăn cách giữa nước được và nước thua thiệt ngày càng thêm khoét sâu và rộng ra không tránh khỏi gây ra ở đây đó sự bất mãn trong dân chúng. Bản báo cáo kết luận «Với đa số các quốc gia Phi châu, lời tuyên bố của nhà lãnh đạo Bắc Kinh đem lại hi vọng rất lớn, nhưng thực tế chẳng có gì hết vì không tạo ra được những điều kiện phát triển thật sự» nhằm phúc lợi cho dân chúng vốn nghèo đói triền miên của vùng kém mở mang.

Khi Tàu tới Phi châu hay những nơi khác chỉ nhằm tìm nguyên vật liệu, ủng hộ những chế độ độc tài tham nhũng địa phương để sai khiến chúng bảo vệ quyền lợi của mình, không nghĩ tới quyền lợi thật sự của dân chúng ở những nơi đó thì cách ứng xử này không thể bênh vực cho Tàu không phải là Đế quốc thực dân giống như các thế lực thực dân Tây phương trước kia.

Riêng ở Việt Nam, Tàu kết hợp với đảng cộng sản Hà Nội thành một thế lực thực dân kiểu mới đàn áp, bốc lột nhân dân Việt Nam cực kỳ dã man, cướp của dân tới từng cộng rau muống cuối cùng. Thế lực mới này, không có tên nào khác chính xác hơn để gọi, đó là bọn ngụy Hán.

*** Những số liệu và trích dẫn mượn ở tác giả Micheal T. Klare, Le Monde Diplmatique, số 9/2012, Paris

Nguyễn văn Trần

1 thg 12, 2012

Henry Kissinger: Cái Loa Đi Mở Đường Của Siêu Quyền Lực.



Mũ Nâu Đỗ Như Quyên

“Cứ mổi khi con người này ra mặt hội họp tuyên bố gì đấy, hoặc có sách mới v.v thì y như rằng ở đâu đó trong thiên hạ có loạn to chập chờn đe dọa. Hôm nay chúng ta thử tìm hiểu sơ qua về con người nhiều bí ẩn này”.

Tên họ thật: Heinz Alfred Kissinger, gốc dân Do Thái, sinh ở Đức ngày 27. 5. 1923, theo gia đình tới Mỹ định cư vào tháng 8. 1938. Gia nhập quân đội Mỹ tháng 2.1943 rồi vô quốc tịch Mỹ ngày 19. 6.1943, tên Heinz đọc theo âm tiếng Đức đổi thành Henry theo tiếng Anh. Sau 16 tuần huấn luyện tại North Carolina , ông Kissinger ra trường với cấp binh nhì và được đưa về Sư Đoàn 84 Bộ Binh ở Clairborne , Louisiana . Đầu tháng 10. 1944 SĐ 84/BB đến nước Anh, sau đó đổ bộ lên bãi Omaha ( Normandy , Pháp) vào đầu tháng 11. 1944 (nghĩa là ông Kissinger không tham dự ngày đổ quân lịch sử -6.6.1944) rồi tiến quân mặt trận Hòa Lan, kế tiếp là Bỉ cuối cùng vào chiến trường Đức. Sau khi Đức đầu hàng (8.5.1945), ông Kissinger được vị Tư Lệnh SĐ 84/BB là Thiếu Tướng Alexander R. Bolling (1895-1964) chọn làm thông dịch viên. Đầu năm 1946, ông ta lên cấp trung sĩ và được gởi đi học ở Trường Tình Báo-Bộ Tư Lịnh Âu Châu (European Command Intelligence School) tại thành phố Oberammergau của Đức. Tháng 5.1946 ông Kissinger được giải ngũ, nhưng không về Mỹ ngay mà nấn ná ở lại Đức để chú tâm nghiên cứu về vấn đề Hội Kín (Secret Society) của Âu Châu qua hàng đống tài liệu Đức Quốc Xã bỏ lại.

Tháng 7.1947, ông Kissinger quay về Mỹ và xin được một học bổng vào trường đại học Harvard (cũng nên biết thêm là những trường đại học như Harvard; Yale; Princeton; Oxford; Sorbonne là những trường do các nhóm Hội Kín có nguồn gốc ở Âu Châu thành lập từ thế kỷ thứ 19. Mục đích sâu xa của đám ma đầu này lúc lập trường là sẽ thu hút và chiếm hữu hết những nhân tài khắp thế giới bằng tiền – danh và lợi đối với những sinh viên biểu lộ sự thông minh đặc biệt, hay ít ra chúng cũng đào tạo được những con người, mà Hội Kín gọi là “phụ tùng”, trong tương lai sẽ phục vụ đắc lực cho bộ máy thống trị toàn thế giới gồm toàn những con người được nhào nặn theo khuôn mẫu của “văn hóa” Âu Châu). Năm 1950 ông Kissinger có bằng B.A, năm 1952 lấy bằng M.A và năm 1954 có được bằng Ph.D.
Trong thời gian học ở Harvard ông ta được ưu đãi đặc biệt, vì trường này vốn có một nguồn tài chánh dồi dào do CIA bí mật tài trợ qua một tổ chức trá hình là Hội Học Sinh Quốc Gia (National Student Association. Hội này đã bị “bể” năm 1967 do công chúng phanh phui).

Từ năm 1950, lúc còn đang “học” ông Kissinger đã được bí mật tuyển làm cố vấn cho Phòng Nghiên Cứu Các Chiến Dịch- Lục Quân (Army-Operations Research Office).
1951: Được cử tới Nam Hàn tìm hiểu về “mức độ ảnh hưởng tâm lý của dân chúng về sự có mặt của quân đội Mỹ”.
1952: Bí mật được chọn làm cố vấn cho Ủy Ban Chiến Lược Tâm Lý thuộc Bộ Tham Mưu Liên Quân (Psychological Strategy Board of the Joint Chiefs of Staff).
1955: Được Hội Kín ở Mỹ cho làm chủ bút tạp chí Ngoại Giao Sự Vụ (Foreign Affairs magazine). Tạp chí này tuy thuộc “tư nhân”, nhưng nó là cái loa chính thức và đầy quyền lực đặt ở Mỹ của vương triều nước Anh và con cháu của giới quý tộc tại Châu Âu ( Ở bên Tây, ban đầu nó được trung ương Ủy Hội Tam Điểm (Trilateral Commission) lập ra trong một phòng kín ở khách sạn Majestic, thủ đô Balê nước Pháp vào ngày 30.5.1919 và nấp dưới một cái tên thật “hiền” là Viện Quốc Tế Sự Vụ (Institute of International Affairs), ông HCM cũng là hội viên Tam Điểm từ thuở đó nên ngày nay Đảng Cộng Sản Việt Nam có họ hàng, dây mơ rễ má với tài phiệt quốc tế là chuyện đương nhiên. Viện Quốc Tế Sự Vụ có hai chi nhánh, một nằm ở Anh là Học Viện Hoàng Gia về Quốc Tế Sự Vụ (Royal Institute of International Affairs- RIIA), một nằm tại Mỹ từ ngày 21.7.1921 là Hội Đồng về Các Quan Hệ Đối Ngoại (Council on Foreign Relations- CFR) cùng với cái loa của nó là tạp chí Ngoại Giao Sự Vụ. Từ ngày đó đến hôm nay, cái loa này của RIIA và CFR mới là “đầu sỏ” làm trùm hết tất cả các hãng điện thoại, truyền hình và những tờ báo v.v lớn nhất, mạnh nhất của nước Mỹ vì giới chủ nhân của truyền thông Mỹ đều là hội viên của các Hội Kín trong bí mật, ngoài công khai họ là hội viên của CFR. Ngoài ra, các tổng thống Mỹ, tất cả giám đốc CIA, bộ trưởng quốc phòng, ngoại giao, tài chánh, y tế, giáo dục, thương mại v.v cho tới chủ những siêu công ty về hàng không, hàng hải, xe hơi, dầu hỏa v.v đều là hội viên CFR, một hội “tư nhân” do Hội Kín thành lập (có tới 90% dân chúng Mỹ không biết chuyện này).

1957, ông Kissinger thường được thỉnh giảng ở đại học Harvard, năm 1959 thành phụ tá giáo sư tới năm 1962 chính thức là “giáo sư” của trường này.

Tháng 10. 1965 ông ta âm thầm đến Sài Gòn, Việt Nam. Hội Kín sai ông tới đó để thẩm định phương diện tinh thần và tâm lý của giới quân nhân, chính trị, tôn giáo v.v của người dân Việt Nam Cộng Hòa nói chung trước sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt.

Tháng 10. 1966, ông Kissinger “rón rén” tới Sài Gòn một lần nữa để xác định lần chót về nhận xét của mình trước đó đối với tinh thần chống cộng của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi về Mỹ, những ghi nhận của ông về tinh thần dân chúng và giới lãnh đạo VNCH được phúc trình lên chính phủ Mỹ với một nội dung rất lạc quan để trấn an công luận.

Tuy nhiên trong bí mật, ông ta đã phúc trình cho CFR (tức siêu quyền lực, siêu tài phiệt) một sự thật quan trọng mà công chúng không hề biết, đó là: Ý thức về hiểm họa cộng sản và tinh thần chống cộng của người dân VNCH nói chung rất cao. Điều này sẽ là một trở ngại rất lớn, Cộng Sản Bắc Việt rất khó chiếm được miền Nam-Việt Nam theo như kế hoạch mà siêu quyền lực đã soạn ra và chờ đợi. Đây là điểm then chốt nhất nên ngày 27.11.1968, sau khi chọn người và cân nhắc kỹ lưỡng, siêu quyền lực giới thiệu ông Kissinger với vị tổng thống tương lai của Mỹ là ông Richard Milhous Nixon (1913-1994, ông này cũng là hội viên cao cấp của CFR và nhiều Hội Kín khác). Sau đó tổng thống “tân cử” R.M.Nixon đưa ông Kissinger vô nắm Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security Council) và từ đây ông ta bắt đầu đại diện cho Hội Kín-không phải đại diện cho dân Mỹ- khởi sự bí mật tiếp xúc, dàn xếp các thỏa thuận với CSBV.

Nhưng năm 1955 mới là năm mà cuộc đời ông Henry A. Kissinger rẽ qua một bước ngoặc quan trọng. Tại một hội nghị về chiến lược quân sự ở Quantico, Virginia ông ta được giới thiệu với ông Nelson Aldrich Rockefeller (1908-1979). Ông này thuộc “đảng” Cộng Hòa, từng có mặt trong nhiều nội các chính phủ của những tổng thống như các ông Franklin Delano Roosevelt (1882-1945, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín); Harry S. Truman (1884-1972, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín); Dwight David Eisenhower (1890-1969, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín) và Richard Milhous Nixon (1913-1994, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín). Ông Nelson Aldrich Rockefeller còn là Thống Đốc Tiểu Bang Nữu Ước từ năm 1959 tới 1973, từng là Phó Tổng Thống (1974-1977) cho ông Gerald Rudolph Ford, Jr (1913-2006, hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín). Ông ta là con của ông John Davison Rockefeller, Jr (1874-1960) và là cháu nội của ông “vua dầu hỏa” John Davison Rockefeller, Sr (1839-1937, lưu ý là tất cà những người đàn ông trong giòng họ Rockefeller đều là hội viên cao cấp của nhiều Hội Kín). Sau cuộc gặp gỡ “lịch sử” đó và thêm vài lần nữa, ông Kissinger được gia tộc Rockefeller mời làm cố vấn cho Quỹ Huynh Đệ Rockefeller và từ 1956 tới 1958 là Giám Đốc của Dự Án Những Nghiên Cứu Đặc Biệt cho Qưỹ Huynh Đệ Rockefeller (Director of the Special Studies Project for the Rockefeller Brothers Fund). Từ đó, “sự nghiệp” chính trị của ông Kissinger lên ào ào như diều trước gió, chức cao nhất mà ông giành được là Bộ Trưởng Ngoại giao (1973-1977). Có người cho rằng nếu ông ta sinh ở Mỹ chắc chắn sẽ làm tổng thống hai nhiệm kỳ. Nhưng dù sao chăng nữa những chức vụ mà ông ta có được cũng chỉ là chuyện nhỏ và ngoài công khai. Thật ra trong bóng tối của thế giới siêu quyền lực, ông ta thuộc hạng “lão làng”, nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong các Hội Kín và những hiệp hội “tư nhân” (vòng ngoài của Hội Kín) tại nước Mỹ và quốc tế.

Ông Henry A. Kissinger là một người rất say mê có được quyền lực và danh vọng, dù phải nói dối và bội nghĩa bạc tình ông ta cũng làm để thỏa mãn niềm đam mê đó. Ông Kissinger kết hôn với bà Ann Fleischer năm 1949, họ có hai người con nhưng gia đình không được ấm êm vì bà thường than phiền sự vô trách nhiệm của ông đối với gia đình. Năm 1964 ông ta bỏ vợ để được thảnh thơi hoạt động trong trò chơi chính trị kiểu Mỹ. Mãi tới năm 1974, ông Kissinger mới lập gia đình lần nữa với bà Nancy Maginnes sau khi đã ngồi yên vị trong chiêc ghế bộ trưởng ngoại giao.

Ông Kissinger “viết” nhiều nhưng phần lớn những gì ông “viết” không phải do chính ông tìm ra ý tưởng. Ông “viết” cũng như làm một bổn phận, nói ra giùm những chiến lược quan trọng mà siêu quyền lực không thể công khai nói ra (tựa như ông Karl Heinrich Marx (1818-1883) không phải là tác giả thực sự của bản “Tuyên Ngôn Cộng Sản” (The Communist Manifesto, 1.2.1848), ông này được trả tiền để viết theo triết thuyết của một Hội Kín có tên “Hội Của Sự Công Chính” ( The League of the Just), một hội vòng ngoài của một Hội Kín lớn hơn là “Hội Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật” (The Parisian Outlaws League). Ông Kissinger có vài cuốn sách tiêu biểu như: The White House Years (1974); Years of Upheaval (1982); Years of Renewal (1999) v.v..nhưng trước đó trong năm 1957 ông “viết” một cuốn làm thay đổi quan niệm quốc phòng của Liên Bang Mỹ đến tận hôm nay, đó là cuốn “Những Vũ Khí Hạt Nhân và Chính Sách Đối Ngoại” (Nuclear Weapons and Foreign Polycy). Ngoài ra các “bài viết” của ông về đề tài chính trị, ngoại giao, quốc phòng v.v đăng trên các báo, tạp chí thì rất nhiều nhưng nói chung, tất cả những gì ông “viết” và “lách” cũng chỉ là cái loa dọn đường cho Hội Kín và siêu quyền lực. Chỉ nhằm biện hộ cho các “chính sách” trong quá khứ của “chính phủ” Mỹ mà siêu quyền lực điều khiển trong bóng tối. Hoặc ông “viết” cũng như thay mặt Hội Kín nhắc khéo cho thiên hạ biết trước rằng “chính phủ” Mỹ sắp có một kế sách chiến lược chi đó trong tương lai! Vậy thôi.

Suy ra ông Henry A. Kissinger cũng chẳng là nhân tài, là anh hùng chi cả đối với nền “hoà bình” của nhân loại. Nhưng ông ta lại nham nhở đưa tay nhận giải “Nobel Hòa Bình” (sic) cũng do đám Hội Kín bày ra để thưởng công cho ông. Ông cũng không có chút công lao gì đối với một nước Mỹ đã bị mất chủ quyền vào tay Hội Kín và siêu quyền lực. Ngược lại, chỉ riêng trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam thôi ông đã sĩ nhục công chúng Mỹ khi lén lút thỏa hiệp với đối phương. Ông đã làm cho hàng chục triệu gia đình Việt Nam; Cam Bốt; Mỹ; Lào tới tận hôm nay vẫn cỏn sống với nhức nhối, khổ đau vì bị mất mát, rẽ chia và thù hận. Nghĩ cho cùng, những thế lực đứng trong bóng tối mới là những kẻ tội ác ngập đầu. Ông Kissinger cũng vì say mê quyền lực và danh vọng nên bị lợi dụng, bị thế lực đó đẩy ra ngoài ánh sáng để nói những điều họ không thể nói ra. Ông ta cũng như Hội Kín và siêu quyền lực chẳng có tài cán gì, chỉ là những kẻ biết vận dụng cách nắm quyền lực mà không cần lộ diện. Biết cách tìm người đáng tin cậy, trao quyền để làm những gì có lợi cho mục tiêu cuối cùng của họ là thống trị toàn thế giới dưới nền “văn minh thực dụng” của Âu Châu.

Vài năm gần đây ông Kissinger lại xuất hiện và tuyên bố vung vít đủ điều. Tháng 5.2011 ông ta ra mắt cuốn sách mới là

On China (Penguin,2011)
. Như đã nói ở phần đầu, mỗi khi ông này có “sách” mới thì đâu đó trong thiên hạ sắp có loạn to! Bởi nhờ có loạn thì siêu quyền lực mới có cớ đi chinh phạt và thâu tóm dần dần cũng như phát triển ảnh hưởng của mình. Và mầm mống của loạn lạc cũng do siêu quyền lực tạo ra từ trong bóng tối. Tại sao con người này không chết phức cho rồi?

………o………
Nguồn tham khảo: “The Price of Power. Kissinger in the Nixon White House”. Seymour M. Hersh. Summit Book, NY, 1983.
“Kissinger”. Marvin Kalb and Bernard Kalb. Little, Brown and Company, 1974.
“Rule By Secrecy”. Jim Marrs. Harper Collins, 2001.
“The Invisible Government”. David Wise and Thomas B. Ross. Random House, 1964.
“The Unseen Hand”. Ralph A. Epperson. Publius Press, 1985.
“Who Stole the American Dream” ? Burke Hedges. INTI Publications, 1992.
“Who Owns America ” ? Walter J. Hickel. Warner Paperback, 1972.
“Who’s Running America ” ? Thomas R. Dye. Prentice-Hall, 1986.
“Who Rule’s America ” ? William G. Domhoff. Prentice-Hall, 1967.
“Wake-up America . It’s Latter Than You Think” ! Robert L. Preston. Hawkes Publishing Inc, 1972.
“None Dare Call It Conspiracy”. Gary Allen. Concord Press, 1971.
“None Dare Call It Treason”. John A. Stormer. Liberty Bell Press, 1964.
“Secret Societies of America ‘s Elite”. Steven Sora. Destiny Books, 2003.
“Conspiracies and Secret Societies. The Complete Dossier”. Brad Steiger and Sherry Steiger. Visible Ink, 2006.
“The Biggest Secret”. David Icke. Bridge of Love , 2001.

12 THÁNG ANH ĐI