Quả Trần sao quá đắng cay
Kiếp này đành ở, Kiếp sau xin về
Trước năm 1975 tôi là lính, chỉ là lính thường thôi. Tôi không có nợ máu với việt cộng nên “đi” hay “ở” đối với tôi không thành vấn đề. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, ở lại dưới quyền mấy anh chàng cán ngố thì chán chết.Vã lại, tôi có phương tiện di tãn nên tôi quyết định sẽ ra đi. Ba mạ tôi thông gia với gia đình của một vị Chỉ huy trưởng của một Đơn vị Đặc nhiệm có liên hệ mật thiết với Mỹ. Mỹ hứa sẽ cho trực thăng đến đón ông và thân nhân tại một địa điểm hẹn trước. Vợ con của vị Chỉ huy trưởng đã lên máy bay theo ngỏ tòa Đại Sứ Mỹ qua đảo Guam từ tuần trước, nên ba mạ và anh em tôi được điền vào chổ trống. Thế là tôi có quyền yên chí ra ngoài tán dốc với bạn bè. Nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến vấn đề di tản của tôi, sợ để lộ sẽ có chuyện không hay. Trưa ngày 29 tháng 4, vị Chỉ huy trưởng và đoàn tùy tùng trong đó có cả ba mạ và anh em tôi lặng lẽ đến điểm hẹn, đó là một cao ốc. Trong đêm có nghe vài tiếng máy bay nhưng không trực thăng nào đáp xuống. Tờ mờ sáng hôm sau, vị Chỉ huy trưởng cho biết đã không thể liên lạc được với Mỹ, sẽ không có trực thăng nào đến đón, mọi người phải trở về nhà , tự lo cho số phận của mình. Sự thất hứa của Mỹ đã khiến cho vị Chỉ huy trưởng bị đày ra Bắc cải tạo mười mấy năm và em rể tôi đã phải phơi thây bên hàng rào trại cải tạo Suối máu khi tìm đường trốn trại, em gái tôi trở thành góa phụ ở tuổi xuân thì. Riêng tôi, về đến nhà thì trời đã sáng, vừa vất túi xách xuống đất, chưa kịp ngả lưng thì một thằng bạn đi xe Honda gọi ngoài cổng nhà. Hỏi tôi có muốn cùng hắn xuống lục tỉnh tìm đường vượt biên không. Đã lỡ thì chơi luôn, tôi liền chào giã từ ba mạ, cùng bạn lên xe trước cặp mắt lo lắng của mọi người. Chúng tôi hướng về Chợ Lớn, tìm đường ra lục tỉnh, không đường nào chạy thông ,tất cả đều tắc nghẽn, kẹt cứng. Lại nghe nói ở bến Bạch Đằng có một tàu chở nhiều Tướng Tá sắp nhổ neo. Một liều ba bảy cũng liều, chúng tôi vội chạy về hướng bến Bạch Đằng như là một tia hi vọng cuối cùng. Quả nhiên có một chiếc tàu lớn đang nằm ụ, trên đó đã đầy nhóc người. Chiếc tàu hư đang được các chuyên viên lo nổ máy cho chạy đại. Bạn tôi là kỹ sư công binh nên vội xuống hầm tàu, xem có giúp đỡ được gì không. Riêng tôi thì đã mệt nhoài sau một đêm không ngủ, lo tìm chổ ngả lưng cho hai đứa, rồi thiếp lúc nào không hay. Khi tôi choàng tỉnh dậy thì tàu đang ở giữa sông Saigon, chạy lùi, đuôi hướng về phía Cát Lái, để đánh lạc hướng bộ đội đang chỉa súng ven hai bờ sông. Không ngờ giờ đây tôi cũng là chứng nhân của lịch sử. Chuyến tàu cuối cùng của Hải Quân đã ngang nhiên ra đi trước các họng súng của địch quân.
Tàu ra tới hải phận quốc tế thì bị khựng lại, không chạy được nữa. Phải kêu gọi các tàu bạn ghé qua di dời từng đợt người di tản. Cuối cùng, mọi người cũng đều được đưa tới vịnh Subic, Phillippine an toàn. Sau đó, đoàn người di tản được cấp phát đồ ăn, thức uống và quần áo.Tất cả các quần áo nhà binh đều phải được cởi bỏ trước khi lên tàu tư nhân để đến đảo Guam bắt đầu đời sống tỵ nạn. Đến đảo Guam, bạn tôi gặp lại các em, lập thành một hộ đi tỵ nạn bên Mỹ. Riêng tôi, nhờ có giấy bảo lãnh của người cô bên Canada nên phái đoàn Canada chấp nhận cho nhập cư Canada ngay sau khi lập xong thủ tục giấy tờ. Tôi được phái đoàn Canada đón tiếp niềm nở, đưa lên máy bay to lớn bay đến Montreal, cho ở khách sạn trong thời gian lập tiếp thủ tục định cư. Nằm trên nệm trắng chăn êm, nghĩ mà thấy tội nghiệp cho mấy thằng bạn đang nằm lay lất trong các lều dã chiến trên đảo Guam mà vẫn chưa biết số phận mình sẽ đi về đâu. Tôi được đón về ở nhà bà cô một tuần, sau đó ra riêng để tiện việc đi học, đi làm và hội nhập vào xã hội mới. Mấy tháng đầu tiên trên đất khách quả thật là thoái mái. Đi học thì chính phủ cung cấp cho sách vở giấy bút. Mỗi tuần phát cho tiền ăn tiền nhà. Các em đầm Canada thì vừa xinh vừa lịch sự, lúc nào gặp cũng bon jour, mercy. Không như thằng Mỹ, nghĩ tới là thấy ghét. Mỹ đã thất hứa khiến cho tôi bị ly tán gia đình, giận thiệt. Qua mùa thu, lá vàng rơi ngập lối thiên thai, rồi có tuyết bay lất phất, ôi đẹp làm sao, đẹp tuyệt vời. Tôi không biết làm thơ mà cũng mơ mơ màng màng như là một thi sĩ chính hiệu. Nhưng sang đông, sau mùa Noel thì...tôi không chịu được nữa rồi. Lạnh, lạnh buốt xương, nằm trong nhà cuộn mấy tầng chăn vẫn thấy lạnh. Ngoài trời thì trắng xóa, chẳng đi đâu được, buồn ơi là buồn. Lúc này tôi mới tìm cách liên lạc với các bạn bên Mỹ để cùng nhau chia sớt nỗi buồn. Thời gian qua, theo dỏi tin tức thế giới mỗi ngày, lòng tôi cũng nguôi ngoai, không còn thù hận Mỹ nữa. Chiến tranh mà, thời thế đưa đẩy thì cũng phải đành chịu thôi. Giờ đây, thấy người Mỹ giúp đở, nuôi dân tỵ nạn với cả tấm lòng mới thấy cảm phục và biết ơn họ. Canada của tôi cũng tốt nhưng không thể nào so sánh bằng Mỹ. Chúng tôi tuy được tiếp đón niềm nở lúc ban đầu, nhưng sau này mới biết mọi chi phí khách sạn, ăn ở, đều được chính phủ tính nợ. Chúng tôi sẽ phải hoàn trả lại từ từ khi đã có công ăn việc làm. Mỹ quả thật là to lớn, các bạn tôi hầu hết đều ở Cali. Mùa nào cũng nắng ấm chan hòa, thấy mà phát thèm.
Tình cờ tôi có được số điện thoại của Lan, hơi bồi hồi phân vân, không biết có nên gọi nàng hay không? Phản ứng của nàng sẽ thế nào, có còn hoan nghênh tôi nữa không? Nếu nói rằng Lan là người yêu cũ của tôi thì cũng không sai vì đã có lần chúng tôi tính đến chuyện cưới hỏi. Nhưng không, không thể nói như thế được. Lan là chị của hai nàng Kiều sinh đôi đã nổi tiếng một thời ở Nha Trang trước năm 1975. Nha Trang hồi đó là một thành phố yên bình, không chiến tranh, nhưng cũng lại là nơi qui tụ nhiều giai nhân mỹ nữ. Hai nàng Kiều sinh đôi cao ráo xinh đẹp khác hẳn các anh chị em trong gia đình. Kiều em thì sắc sảo năng động, Kiều chị thì dịu dàng mơ màng. Hai nàng nổii tiếng từ năm đệ tam, nhị, nhất. Em tung chị hứng một cách nhịp nhàng khiến nhiều chàng trai phải điêu đứng. Các lằn roi trên lưng của Kiều em đã phai nhạt kể từ khi ông anh bị tử trận ngoài chiến tuyến và không còn ai kiềm chế nữa. Bạn tôi là bạn thân của anh hai nàng Kiều được điền thế vào vai trò người anh. Nhưng bạn tôi quá hiền lành chỉ tạo dịp cho các nàng đi chơi đêm có giấy phép đúng theo sự giật dây của tôi mà thôi. Kiều em lên đến đệ nhất đã có một thiếu tá phi công săn đón, chiếm độc quyền. Nhưng Kiều chị mới là người khiến nhiều chàng trai mê mệt, trong đó có cả tôi. Hai nàng Kiều còn có cô chị đang học văn khoa ở viện đại học Đà Lạt, hè và tết mới về thăm nhà. Cô chị cũng xinh xắn, cởi mở, chỉ có tội thấp hơn hai em mà thôi. Bởi vì bạn tôi là bạn thân đã mất của cô nên cô đối xử với chúng tôi rất thân tình. Có cô chị, chúng tôi có dịp đến nhà các cô chơi, đưa đi nghe nhạc, ăn khuya thường xuyên hơn. Tôi thấy cô chị cũng xứng đôi với bạn tôi nên rấp tâm làm mai cho họ. Như thế cũng tiện cho tôi trong kế hoạch chinh phục Kiều chị. Thỉnh thoảng tôi gặp riêng cô chị, nói xa nói gần, nói tốt cho bạn tôi. Tôi với các nàng Kiều trở nên thân tình hơn, Kiều chị cũng gần gủi với tôi hơn. Lòng tôi như mở cờ, ắt hẵn phen này vui vẻ cả làng rồi. Tết qua, hè lại đến, một buổi chiều đẹp trời, cô chị gặp riêng tôi, tỏ lộ tình cảm riêng tư của nàng. Không biết từ lúc nào cô đã thương tôi và cảm thấy không thể nào thiếu vắng tôi trong cuộc đời. Cô muốn kết hôn cùng tôi trước các em của cô. Quả thật, tôi như bị sét đánh ngang tai, không biết bày tỏ thế nào với cô. Được cô yêu quả là một điều đáng hãnh diện, nhưng bạn tôi thì sao? Chắc cũng chẳng sao vì nó đã quen rồi. Còn Kiều chị nữa? Tuy tôi có thương, nhưng Kiều chị mộng quá cao, chắc tôi với không tới. Tôi lửng lửng lơ lơ để mặc cho cô chị dàn xếp theo ý của cô. Khi mạ cô nghe được ý định của cô thì bà đã có phản ứng mãnh liệt. Bà không thể chấp nhận bỏ bao nhiêu khó khăn nuôi con ăn học thành tài, rồi đem đi gả cho một thằng không bằng không cấp, không lon không lá như tôi. Tôi cũng bị chạm tự ái nặng, nên cũng dứt khoát từ chối tình nàng. Tự nhiên lúc này tôi có giá dể sợ. Các bạn của cô, là các luật sư tương lai, thay phiên nhau đi thuyết khách, nhưng tất cả đều thất bại. Lý do chính, đúng như mẹ cô nói, với xã hội bấy giờ, tôi không thể nào xứng với cô chị. Cô chị sau khi tốt nghiệp, trở về Nha trang dạy học, tỏ ra thân mật với bạn tôi hơn. Tôi biết cô có ý khiêu khích tôi, nhưng tôi cũng không quan tâm lắm. Bởi vì lúc này tôi cũng đang tan nát cõi lòng khi hay tin Kiều chị đã phải lòng với một chàng kỹ sư công chánh vừa ra trường. Thế rồi, tình hình chiến cuộc đổi thay bất ngờ. Nha trang bị bỏ ngỏ đột ngột. Tôi và các bạn, mỗi người lo tự tìm phương tiện bỏ chạy lấy thân. Tôi chạy được vào Saigon, ba mạ và các em tôi cũng lục tục vào sau. Gia đình tôi chỉ còn biết nương cậy vào cậu em rể, có anh là vị Chỉ huy trưởng của một Đơn vị Đặc nhiệm, có phương tiện di tản khi cần. Nhưng mỗi người đều có số phần. Chúng tôi đến điểm hẹn, chờ trực thăng Mỹ đến bốc đi. Trực thăng Mỹ không đến khiến nhiều người phải chịu cảnh tù tội. Riêng tôi, giờ cuối cùng, có người bạn tới nhà kéo đi. Chạy ra bến Bạch Đằng, lên chiếc tàu Hải Quân cuối cùng và đã vượt thoát. Tôi đã đến Canada an toàn và đang chịu thảm cảnh cô đơn như bây giờ. Cuối cùng, tôi quyết định gọi cho Lan. Tôi hồi hộp nghe tiếng điện thoại reo liên hồi và chờ đợi tiếng trả lời bên kia đầu giây. Lan đã reo mừng khi nhận được giọng nói của tôi. Nàng cho biết chỉ qua Mỹ được có một mình và cũng đang cô đơn nhớ nhà, nhớ ba mạ và các em từng ngày. Nàng nói huyên thuyên như không muốn dứt, nàng vẫn nhớ những kỷ niệm êm đẹp của ngày xưa thân ái. Nàng nói nàng đang ở trọ và thường hay vắng nhà để đi học nên không tiện nhận điện thoại của tôi nhưng nàng sẽ gọi cho tôi thường xuyên. Sau nhiều tuần nói chuyện, nàng tỏ ý ái ngại cho cuộc sống buồn thảm của tôi nơi miền giá lạnh. Nàng ngỏ ý nếu tôi muốn sang Mỹ, nàng sẽ lo mọi thủ tục giấy tờ cho tôi và hi vọng mọi sự sẽ tốt đẹp, sẽ không còn gì cách trở. Tôi rất cảm động mối thâm tình của nàng, nguyện sẽ yêu thương nàng, bù đắp lại cho những dang dở ngày xưa. Tôi cho nàng hay tôi sẽ làm theo ý nàng sắp đặt. Tôi sẽ sắp xếp sang thăm nàng một tuần để bàn luận chu đáo hơn. Nàng mừng rỡ và hứa sẽ ra phi trường đón tôi khi có chuyến bay và ngày giờ đích xác. Sau khi tôi cho nàng biết chuyến bay và ngày giờ qua Los Angeles thì tuyệt nhiên tôi không nhận được tin tức của nàng nữa. Số điện thoại của nàng cũng bị ngưng luôn. Tôi quá thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho nàng? Không lẽ nàng muốn dành cho tôi một ngạc nhiên thích thú khi hai người gặp mặt tại phi trường? Đến Los Angeles buổi chiều Thứ Bảy, mòn mỏi trông chờ, chẵng thấy bóng dáng người yêu đâu cả. Cuối cùng tôi phải gọi người bạn, hắn hẹn mấy giờ sau mới tới đón tôi được. Buồn tình, tôi cứ thở ngắn thở dài, thằng bạn chẳng hiểu vì sao, cứ xin lỗi hoài vì nghĩ mình đón tiếp không chu đáo. Tuần lễ đi nghỉ hè là tuần lễ thăm dò tin tức của Lan nhưng không được manh mối nào, tôi đành trở về lại Canada trong phiền muộn. Từ từ tôi cũng tìm hiểu được hoàn cảnh của Lan. Nàng đã theo một gia đình hàng xóm chạy từ Nha Trang vào Saigon. Bị kẹt ở Vũng Tàu, nên cũng theo gia đình họ xuống tàu vượt biên luôn. Nàng đã ở chung hộ với gia đình này trong các trại tỵ nạn và cũng đã sớm lập gia đình với người trưởng nam để có nơi nương tựa khi mà tương lai chẳng biết sẽ thế nào. Gặp tôi, nàng đã có gia đình, nhưng lòng nàng vẫn nặng trĩu những oán hận. Tôi đã làm nàng quá mất mặt trước bạn bè nên không thể nào tha thứ được. Nàng đã giả vờ săn đón để tạo ảo tưởng cho tôi, thăm dò tâm tư tình cảm của tôi, khiến cho tôi phải đau khổ, phải thất tình như nàng. Tôi cũng là người Huế, tôi thường nghe nói gái Huế khi thương thì thương gia diết, nhưng khi hận thì cũng hận thấu xương. Tôi không ngờ nàng hận tôi dử giằn như vậy, muốn thử lòng tôi mà quên cả hạnh phúc gia đình trong tầm tay. Tôi không hề oán trách nàng, chỉ thấy thương hại cho nàng. May mà mọi việc cũng qua đi và đã không gây tổn thương cho ai hết.
Việt cộng thôn tính miền Nam, thống nhất đất nước. Chủ nghĩa vô thần với chính sách bần cùng hóa nhân dân đã vô tình khiến người dân Việt Nam tin tưởng vào Thượng Đế hơn bao giờ hết. Là người công giáo, phật giáo hay lương, mỗi khi muốn đi vượt biên đều đến nhà thờ, chùa để khấn nguyện,cầu xin được bình an. Bởi vì họ đã biết trước chuyến đi lành ít dữ nhiều nhưng bắt buộc phải ra đi. Mỗi người có một số phần, khi gần kề bên sự sống cái chết đều cảm nhận được có Đấng Bề Trên độ trì bên mình. Họ không thể nào quên những cảnh tượng hãi hùng, cũng như không thể nào hiểu được mình đã may mắn thoát hiểm một cách thần tình nên không hề xao lãng báo đáp ân tình của Đấng Bề Trên. Do đó, người Việt Nam hãi ngoại xin gia nhập đạo Công giáo, Phật giáo rất đông. Nhiều Nhà Thờ, Chùa được xây lên để đáp ứng nhu cầu tâm linh của giáo dân. Phong trào Thiền, Niệm Phật ... cũng được phát triễn khắp nơi. Tôi cũng đang tập thiền, nghiên cứu Phật pháp, tử vi. Tôi không có tâm nguyện riêng. Ba mạ và các em cũng đã được anh Hai tôi bảo lảnh sang Canada. Anh tôi đã lập gia đình trước năm 1975 nên đã di tản theo phương tiện riêng của anh và cũng đã đến Canada cùng lúc với tôi. Tôi không có người thân để lo lắng, tuy nhiên tinh thần tôi hơi bị giao động từ khi tôi cảm nhận đã có người hận mình đến xương tủy. Tình yêu là vậy sao? Như vậy không phải chỉ có một mà nhiều nhiều người nữa đã oán hận tôi. Tôi có hại ai đâu. Tôi chỉ đem niềm vui, nụ cười đến cho họ. Có điều tôi không thể kéo dài cuộc vui khi họ muốn tiến xa hơn nữa. Đó là vì lúc bấy giờ đất nước đang chiến tranh. Tôi còn chưa thể tự lo cho mình được, làm sao dám nghĩ đến hạnh phúc gia đình. Lòng tôi hoang mang nên mỗi khi nhắm mắt ngồi thiền định , cũng như trong giấc ngủ tôi đều thấy có các cô gái hiển hiện như trách móc. Các cô chẳng ai xa lạ, là bạn gái ngày xưa của tôi, đã hơn một lần yêu và chia tay. Thời niên thiếu, tôi ham vui, không chăm chỉ học hành nên phải đi lính sớm. Cũng may, tôi được phục vụ trong một đơn vị không tác chiến gần gia đình. Công việc cũng nhàn hạ, hợp với khả năng của tôi nên tôi cũng cảm thấy thoái mái. Chiều tối, nếu không bị cấm trại, tôi cũng có thể vui chơi với bạn bè. Tôi có nhiều bạn gái. Các cô thích nghe lời dịu ngọt và cách săn đón của tôi nên dễ dàng yêu thương tôi. Tôi không làm hại hay gây tổn thương đến ai. Tôi chỉ là bạn bè muốn tạo cho họ niềm vui, nụ cười ở tuổi đầu đời thế thôi. Tuy nhiên, em nào có ý muốn cột chân tôi, muốn giới thiệu tôi với gia đình họ là tôi tìm cớ thoái thác và tìm cách rút lui. Thật ra, tôi cũng tiếc thương họ lắm, nhưng tương lai tôi quá mờ mịt, không thể bảo đảm được cuộc sống lứa đôi, nên cứ phải phát lờ, vui được ngày nào hay ngày ấy. Sự lởn vởn của các cô làm tôi đâm hoảng, không biết số phận của họ giờ này ra sao? Giờ này cha đang đi cải tạo, gia đình đi kinh tế mới? Liệu họ có đủ miếng ăn qua ngày, hay đã đi vượt biên với dữ nhiều lành ít? Lòng tôi hoang mang, không thiền nữa. Thời may, tôi gặp được một tu sinh của chùa Vạn Phật bên Cali sang Motreal thăm họ hàng. Chúng tôi thảo luận với nhau về Phật Pháp. Anh giải thích thế nào là sắc sắc không không. Anh đã ra trường kỹ sư nhưng lại muốn tìm nơi yên tịnh để tu dưỡng. Anh hướng dẫn tôi cách nhập thiền và hứa sẽ giới thiệu vị sư chu trì cho tôi khi tôi có duyên đến chùa. Tình trạng kinh tế ở Canada bắt đầu khó khăn, nhiều hãng xưởng đóng cửa, sa thải nhân viên. Tôi cùng chung số phận với những người mất việc nên quyết định sang Cali, tìm đến chùa Vạn Phật để tu tập. Người bạn tu sinh đã giới thiệu tôi với vị sư chu trì và ngài đã nhận tôi làm đệ tử. Sư phụ đặt tên cho tôi là Quả Trần. Sư phụ không giãi thích ý nghĩa, chỉ bảo tôi từ từ chiêm nghiệm rồi sẽ hiểu. Tôi tu tập được ba tháng thì sư phụ gọi tôi lên để khảo sát. Tôi trình với sư phụ tôi khi thiền định tôi không còn bị khuấy phá. Sư phụ hài lòng với thành quả của tôi. Tuy nhiên, sư phụ cũng bảo là cái nghiệp của tôi còn nặng. Sở di trú không chấp nhận cho tôi được ở lại chùa lâu dài. Tôi hiểu ý sư phụ nên đã cảm tạ sư phụ để sửa soạn xuống núi. Quả thật cái nghiệp của tôi còn nặng nề. Lên chùa, đã có một em, không quen biết nhiều, chỉ nói là ngưỡng mộ tôi, muốn đưa tôi đến tận cổng chùa. Đang tu tập thì có một em khác, em của vị tu sinh, lên chùa công quả, từ bên kia triền đồi, bên bờ suối vẫy tay chào hỏi. Và trong bửa tiệc tiễn đưa tôi về lại Canada, lại có một em khác ngồi cạnh bên khiến tôi không cầm lòng, tuyên bố hôm nay không ăn chay để mọi người khỏi bận tâm về các thức ăn bày biện trên bàn. Cali quả thật là nơi dừng chân tuyệt vời và là khung trời mơ ước của tôi. Tôi quyết định bay về Montreal, thu xếp mọi công chuyện. Xong mang hết đồ đạc lên xe lái đi Vancouver tìm nơi định cư mới. Vancouver sát ranh giới với Mỹ và gần Cali nhất. Tôi có thể lái xe đi Cali bất cứ lúc nào tôi muốn. Từ từ tôi cũng kiếm được việc làm ở Vancouver, đời sống cũng tạm ổn. Rổi rảnh, tôi cũng hay sinh hoạt với nhóm thanh thiếu niên, hướng dẫn họ cách thức luyện tập thiền. Tôi hay nhắc nhở đến cảnh thanh tịnh ở chùa Vạn Phật. Cô bé con bà chủ nhà tôi ở trọ nghe chuyện thích quá, cứ đòi tôi đưa đi viếng cảnh chùa bên Mỹ. Chiều ý, tôi đưa cô bé đi một vòng khắp Cali. Viếng chùa tàu ở miền nam Cali, lên chùa Vạn Phật ở miền bắc, rồi đến tu viện Kim Sơn gần San Jose. Cũng có một vài kỹ niệm vui vui. Cũng chẵng có gì đáng tiếc xãy ra ngoại trừ bị giựt bóp ở San Francisco làm cã hai mất hết giấy tờ hộ thân, phải đi khai báo và mau trở lại Canada làm lại giấy tờ. Về nhà, cô bé bị mẹ la rày vì đã theo trai cả tuần. Cô chịu đựng, chờ tôi tỏ tình và giãi thích cho ba mẹ cô. Tôi thấy tâm tôi vẫn tịnh, nên vẫn giử im lặng. Tôi không hề quyến dụ cô. Cô đã lớn rồi, đưa nhau đi tầm đạo là chuyện bình thường thôi. Tôi không có lổi gì với gia đình cô. Tuy nhiên tôi cũng lặng lẻ dọn đi nơi khác để tránh sự xoi mói của mẹ cô. Buồn tình và có lẽ cũng giận tôi nữa, cô đã chiều theo ý mẹ đi lấy chồng xa bên Úc. Cô đi rồi lại có cô khác đến nghe lời dịu ngọt của tôi, rồi lại ra đi trong nước mắt. Không biết tôi đang tạo nghiệp hay cái nghiệp của tôi quá nặng nề. Tôi đang phân vân giữa đạo và đời. Khi thì muốn quy y cửa Phật, lúc thì nhìn về Cali như là một khung trời mơ ước.
Thấm thoát tôi đã ở Canada trên mười mấy năm. Tôi giựt mình khi thấy tóc đang bắt đầu đổi màu. Ở tuổi trên bốn mươi, nếu không thể đi tu thì phải lo đến việc lập gia đình trước khi quá muộn. Tôi có thể kiếm vợ ở Canada dể dàng nhưng đây không phải là nơi tôi muốn định cư. Lòng tôi vẫn hướng về Cali, nơi mà tôi mơ hồ tôi muốn có một cái gì đó. Tôi lại vừa mới thất nghiệp. Làm công nhân thật là phiền phức. Tôi có ý định tìm một nghề tự do cho thoái mái hơn. Do đó tôi quyết định qua Cali học khóa huấn luyện ngành du lịch 2 tháng. Tôi nghĩ ngành này thích hợp với khoa ăn nói của tôi, tôi sẽ dể dàng thành công hơn. Trong dịp này, tôi cũng quen biết được vài cô, nhưng chỉ để vui chơi thôi chứ các cô không đủ điều kiện để bảo lảnh tôi. Tài chánh quả là một vấn đề nan giãi. Tôi cũng không thành công trong việc mở văn phòng du lịch ở Vancouver. Tôi không thể bán vé máy bay nội địa vì bây giờ người ta thường mua vé trên mạng internet. Còn bán vé về Việt Nam, phải liên hệ với việt cọng, tôi không thích. Lòng tôi thật rối bời, lại phải đầu quân lại vào các hãng điện tử, lại phải dậm chân tại chổ. Một người bạn đã giới thiệu tôi một thiếu phụ một con, cô trông rất đẹp, rất quý phái. Sau vài lần gặp gở, cô rất bằng lòng phong cách của tôi và muốn tiến xa hơn nữa. Thật ra tôi cũng đã biết cô từ mấy tháng trước. Tôi cũng thích cô nhưng vẫn cứ lưỡng lự, dẩu sao tôi vẫn còn là trai tân. Giờ đây tôi không còn lối thoát, sự mong ước sang Mỹ lập lại cuộc đời đã lấn áp tôi và tôi đã cầu hôn cùng cô. Hôn lễ cũng đơn giãn thôi, trong vòng thân mật của gia đình và bạn bè. Vợ tôi lo thủ tục giấy tờ cho tôi về định cư tại Seattle. Tôi dự tính sau khi ổn định sẽ đưa vợ về Cali. Vợ tôi cũng thích Cali nắng ấm nhưng vì đã có cơ sở vững chắc ở đây nên không tiện di chuyễn đi nơi khác. Lòng tôi lại nặng chỉu những suy tư. Hạnh phúc gia đình là vậy sao? Lúc nào cũng bị bó chân bó tay, không suy tính được việc gì cã. Seattle và Vancouver cũng lạnh lẻo như nhau, có khác gì đâu. Tôi cãm thấy có chút ân hận nhưng không bao giờ tỏ lộ cho vợ tôi hay. Mãi đến khi tôi nghe được tiếng khóc chào đời của con tôi, lòng tôi bổng bừng tỉnh. Như có một luồng sinh khí đang thổi vào trong tôi, tôi không còn biết gì nữa ngoài con tôi. Tôi ôm con, nựng con, săn sóc con đêm ngày. Cám ơn vợ tôi đã cho tôi một cô bé bụ bẩm dễ thương. Vợ tôi đã đau đớn cưu mang con nên tôi tình nguyện săn sóc con cho vợ khỏi cực nhọc thêm nữa. Ngoài giờ đi làm ở hãng điện tử và thiền, tôi không bao giờ rời xa con. Tôi cho con bú sữa, thay tã và tắm rửa cho con mỗi ngày. Đêm đêm thức giấc canh chừng từ những tiếng la, tiếng khóc o oe của con. Tôi vui với sự khôn lớn của con, từ cái lăn mình, cựa quậy, tiếng khóc đòi ăn, vòi vĩnh. Tôi lại càng quay quắt quấn quít mỗi khi con lên cơn sốt, mọc răng. Tôi giảm bớt liên lạc với bạn bè. Ngay cả khi điện thoại mà nghe con khóc, cũng vội vã xin lỗi ngưng điện đàm để lo cho con. Đến hè, tôi thường đưa vợ con đi khắp các tiểu bang thăm bà con bạn bè. Thường thì hay về Cali thăm em gái tôi và các bạn Nha Trang của tôi. Em tôi đã lấy chồng bên Mỹ và đã định cư tại Cali từ mấy năm nay. Khi con tôi đã biết đi, biết nói, thì vợ tôi để hai cha con đi, để tôi có nhiều thì giờ thù tiếp với bạn bè hơn. Mới đó mà con tôi đã hơn mười tuổi, và đang theo học tiểu học, sắp sữa lên Middle School. Chúng tôi lo chọn nhà mới gần trường Middle School và High School tốt cho con tôi theo học sau này. Vợ tôi thật khéo chọn, ngôi nhà mới xinh xắn, đầy đủ tiện nghi và phòng ốc cho các con. Nhìn gương mặt rạng rỡ của con tôi, tôi không thể dấu nụ cười mãn nguyện. Tuy nhiên, tôi không có duyên với ngôi nhà mới này. Từ ngày chúng tôi mời bà ngoại của con tôi về ở chung, nụ cười đã không còn nở trên môi của tôi. Tôi không biết phải nói thế nào về bà. Bà ăn nói rất khéo léo nhã nhặn, nhưng để xã giao mà thôi. Đối với tôi thì bà không khách sáo chút nào. Thấy tôi làm lương thấp hơn vợ tôi, bà tỏ vẽ khó chịu. Thê thảm nhất là lúc tôi thất nghiệp. Bà đay nghiến, xem tôi như không phải là thành phần trong gia đình. Bà xâm phạm luôn cã tự do cá nhân của tôi, nói xiên nói xỏ mỗi khi tôi nhập thiền hoặc ăn chay trường. Cuối cùng bà áp lực với vợ tôi, buộc vợ tôi phải chọn bà hay tôi. Tôi không biết bà có hiểu thế nào là tình phụ tữ. Trước kia bà đã khiến cho cháu ngoại lớn của bà mất bố, nay lại đành đoạn để cho cháu ngoại út của bà phải xa lìa cha nó. Tôi không làm gì lầm lỗi với vợ tôi, nhưng thương vợ, không để vợ tôi khó xữ, tôi bằng lòng ra đi. Nhưng tôi không cam lòng mất con tôi một cách đành đoạn. Tôi thuê phòng gần nhà để mỗi ngày được nhìn thấy con tôi đi đi về về. Vợ tôi vẫn kính nễ tôi, không muốn con tôi mang mặc cảm mất cha, đã bằng lòng cho tôi được đưa đón con tôi đi học. Vợ tôi đưa con tôi đến trường ban ngày, tôi đón về mỗi chiều. Thứ Bãy, Chủ Nhật, tôi đưa con tôi đi học nhạc, học vỏ, thỉnh thoãng đi shopping ăn kem. Niềm hãnh diện và hạnh phúc nhất của tôi mỗi khi được vợ tôi ủy quyền đưa con tôi đi dự đại hội thi đua tranh giãi với các trường khác. Nhìn những chiếc cúp, những bằng khen của con mà lòng vui sướng, không ngăn được khóe mắt đỏ hoe. Nhớ ngày xưa ham vui chơi, khiến mọi việc dỡ dang, học hành chẵng ra đâu vào đâu, mất cã tương lai. Tôi muốn bù đắp lại sự thiếu sót của tôi bằng cách dồn hết thời gian của tôi cho con tôi, đưa con tôi đi đây đi đó khi cần. Con tôi thật là ngoan, ngoài sự thông minh hiếu học, vẫn chụi khó nghe lời tôi răn dạy. Mỗi ngày một lớn, nhưng hè nào cũng theo tôi về Cali, không phàn nàn hoặc tỏ vẽ khó chịu khi cùng tôi đến thăm các bạn già của tôi. Thân thiện với cac cô bé cùng lứa tuổi là chuyện trò thích nghi ngay. Thời gian thấm thoát trôi qua, con tôi sắp học xong trung học và đang sữa soạn nộp hồ sơ vào đại học. Con tôi học giỏi, điểm GPA cao, sinh hoạt xã hội tốt. Tôi hi vọng sẽ có trường đại học danh tiếng chấp nhận con tôi. Tôi dự trù sẽ dọn về gần trường để có thể gần con và giúp đở con tôi khi cần thiết. Nhưng con tôi rất ngoan. Con tôi thương bố mẹ, không muốn xa rời bố mẹ nên đã chọn trường đại học ở Seattle để học phí nhẹ, bớt tốn kém. Thế cũng tốt thôi, tôi khỏi phải đổi job, có thể dành dụm thêm ít tiền đưa con đi nghỉ hè xa.
Giờ đây tôi không còn lo lắng gì nhiều nữa. Thỉnh thoãng buồn tình giở lá số tử vi ra nghiền ngẫm. Có lẻ bạn tôi giãi đoán cũng chẵng sai lắm. Tôi có mạng đế vương nhưng vô chính diệu nên chỉ là ông vua không ngai. Đời tôi ung dung tự tại, không quyền thế, chức tước, nhưng lúc nào cũng có bạn bè giúp đở. Quanh tôi nhiều mỹ nhân vây quanh, tưởng là có số đào hoa, nhưng đào hoa tại mệnh nên yêu rất nhiều mà chẵng được bao nhiêu, rốt cuộc cũng nằm chèo queo một mình. Tôi dự định khi nghỉ hưu tôi sẽ về Cali sống với em gái tôi. Tôi cũng còn có hoài vọng, chờ khi ngoại của con tôi qua đời, con tôi sẽ là sợi dây kết nối để vợ chồng tôi sum họp, săn sóc nhau trong tuổi già. Không biết kiếp trước tôi đã tạo nghiệp như thế nào, nhưng kiếp này tôi quyết tâm ăn chay niệm Phật cho đến tuổi già .
Trong lòng vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, không dứt khóat được việc gì.
Quả Trần sao quá đắng cay Kiếp này xin nhận, Kiếp sau xin về
Duy Sam 2018
Kiếp này đành ở, Kiếp sau xin về
Trước năm 1975 tôi là lính, chỉ là lính thường thôi. Tôi không có nợ máu với việt cộng nên “đi” hay “ở” đối với tôi không thành vấn đề. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, ở lại dưới quyền mấy anh chàng cán ngố thì chán chết.Vã lại, tôi có phương tiện di tãn nên tôi quyết định sẽ ra đi. Ba mạ tôi thông gia với gia đình của một vị Chỉ huy trưởng của một Đơn vị Đặc nhiệm có liên hệ mật thiết với Mỹ. Mỹ hứa sẽ cho trực thăng đến đón ông và thân nhân tại một địa điểm hẹn trước. Vợ con của vị Chỉ huy trưởng đã lên máy bay theo ngỏ tòa Đại Sứ Mỹ qua đảo Guam từ tuần trước, nên ba mạ và anh em tôi được điền vào chổ trống. Thế là tôi có quyền yên chí ra ngoài tán dốc với bạn bè. Nhưng tuyệt nhiên không nhắc đến vấn đề di tản của tôi, sợ để lộ sẽ có chuyện không hay. Trưa ngày 29 tháng 4, vị Chỉ huy trưởng và đoàn tùy tùng trong đó có cả ba mạ và anh em tôi lặng lẽ đến điểm hẹn, đó là một cao ốc. Trong đêm có nghe vài tiếng máy bay nhưng không trực thăng nào đáp xuống. Tờ mờ sáng hôm sau, vị Chỉ huy trưởng cho biết đã không thể liên lạc được với Mỹ, sẽ không có trực thăng nào đến đón, mọi người phải trở về nhà , tự lo cho số phận của mình. Sự thất hứa của Mỹ đã khiến cho vị Chỉ huy trưởng bị đày ra Bắc cải tạo mười mấy năm và em rể tôi đã phải phơi thây bên hàng rào trại cải tạo Suối máu khi tìm đường trốn trại, em gái tôi trở thành góa phụ ở tuổi xuân thì. Riêng tôi, về đến nhà thì trời đã sáng, vừa vất túi xách xuống đất, chưa kịp ngả lưng thì một thằng bạn đi xe Honda gọi ngoài cổng nhà. Hỏi tôi có muốn cùng hắn xuống lục tỉnh tìm đường vượt biên không. Đã lỡ thì chơi luôn, tôi liền chào giã từ ba mạ, cùng bạn lên xe trước cặp mắt lo lắng của mọi người. Chúng tôi hướng về Chợ Lớn, tìm đường ra lục tỉnh, không đường nào chạy thông ,tất cả đều tắc nghẽn, kẹt cứng. Lại nghe nói ở bến Bạch Đằng có một tàu chở nhiều Tướng Tá sắp nhổ neo. Một liều ba bảy cũng liều, chúng tôi vội chạy về hướng bến Bạch Đằng như là một tia hi vọng cuối cùng. Quả nhiên có một chiếc tàu lớn đang nằm ụ, trên đó đã đầy nhóc người. Chiếc tàu hư đang được các chuyên viên lo nổ máy cho chạy đại. Bạn tôi là kỹ sư công binh nên vội xuống hầm tàu, xem có giúp đỡ được gì không. Riêng tôi thì đã mệt nhoài sau một đêm không ngủ, lo tìm chổ ngả lưng cho hai đứa, rồi thiếp lúc nào không hay. Khi tôi choàng tỉnh dậy thì tàu đang ở giữa sông Saigon, chạy lùi, đuôi hướng về phía Cát Lái, để đánh lạc hướng bộ đội đang chỉa súng ven hai bờ sông. Không ngờ giờ đây tôi cũng là chứng nhân của lịch sử. Chuyến tàu cuối cùng của Hải Quân đã ngang nhiên ra đi trước các họng súng của địch quân.
Tàu ra tới hải phận quốc tế thì bị khựng lại, không chạy được nữa. Phải kêu gọi các tàu bạn ghé qua di dời từng đợt người di tản. Cuối cùng, mọi người cũng đều được đưa tới vịnh Subic, Phillippine an toàn. Sau đó, đoàn người di tản được cấp phát đồ ăn, thức uống và quần áo.Tất cả các quần áo nhà binh đều phải được cởi bỏ trước khi lên tàu tư nhân để đến đảo Guam bắt đầu đời sống tỵ nạn. Đến đảo Guam, bạn tôi gặp lại các em, lập thành một hộ đi tỵ nạn bên Mỹ. Riêng tôi, nhờ có giấy bảo lãnh của người cô bên Canada nên phái đoàn Canada chấp nhận cho nhập cư Canada ngay sau khi lập xong thủ tục giấy tờ. Tôi được phái đoàn Canada đón tiếp niềm nở, đưa lên máy bay to lớn bay đến Montreal, cho ở khách sạn trong thời gian lập tiếp thủ tục định cư. Nằm trên nệm trắng chăn êm, nghĩ mà thấy tội nghiệp cho mấy thằng bạn đang nằm lay lất trong các lều dã chiến trên đảo Guam mà vẫn chưa biết số phận mình sẽ đi về đâu. Tôi được đón về ở nhà bà cô một tuần, sau đó ra riêng để tiện việc đi học, đi làm và hội nhập vào xã hội mới. Mấy tháng đầu tiên trên đất khách quả thật là thoái mái. Đi học thì chính phủ cung cấp cho sách vở giấy bút. Mỗi tuần phát cho tiền ăn tiền nhà. Các em đầm Canada thì vừa xinh vừa lịch sự, lúc nào gặp cũng bon jour, mercy. Không như thằng Mỹ, nghĩ tới là thấy ghét. Mỹ đã thất hứa khiến cho tôi bị ly tán gia đình, giận thiệt. Qua mùa thu, lá vàng rơi ngập lối thiên thai, rồi có tuyết bay lất phất, ôi đẹp làm sao, đẹp tuyệt vời. Tôi không biết làm thơ mà cũng mơ mơ màng màng như là một thi sĩ chính hiệu. Nhưng sang đông, sau mùa Noel thì...tôi không chịu được nữa rồi. Lạnh, lạnh buốt xương, nằm trong nhà cuộn mấy tầng chăn vẫn thấy lạnh. Ngoài trời thì trắng xóa, chẳng đi đâu được, buồn ơi là buồn. Lúc này tôi mới tìm cách liên lạc với các bạn bên Mỹ để cùng nhau chia sớt nỗi buồn. Thời gian qua, theo dỏi tin tức thế giới mỗi ngày, lòng tôi cũng nguôi ngoai, không còn thù hận Mỹ nữa. Chiến tranh mà, thời thế đưa đẩy thì cũng phải đành chịu thôi. Giờ đây, thấy người Mỹ giúp đở, nuôi dân tỵ nạn với cả tấm lòng mới thấy cảm phục và biết ơn họ. Canada của tôi cũng tốt nhưng không thể nào so sánh bằng Mỹ. Chúng tôi tuy được tiếp đón niềm nở lúc ban đầu, nhưng sau này mới biết mọi chi phí khách sạn, ăn ở, đều được chính phủ tính nợ. Chúng tôi sẽ phải hoàn trả lại từ từ khi đã có công ăn việc làm. Mỹ quả thật là to lớn, các bạn tôi hầu hết đều ở Cali. Mùa nào cũng nắng ấm chan hòa, thấy mà phát thèm.
Tình cờ tôi có được số điện thoại của Lan, hơi bồi hồi phân vân, không biết có nên gọi nàng hay không? Phản ứng của nàng sẽ thế nào, có còn hoan nghênh tôi nữa không? Nếu nói rằng Lan là người yêu cũ của tôi thì cũng không sai vì đã có lần chúng tôi tính đến chuyện cưới hỏi. Nhưng không, không thể nói như thế được. Lan là chị của hai nàng Kiều sinh đôi đã nổi tiếng một thời ở Nha Trang trước năm 1975. Nha Trang hồi đó là một thành phố yên bình, không chiến tranh, nhưng cũng lại là nơi qui tụ nhiều giai nhân mỹ nữ. Hai nàng Kiều sinh đôi cao ráo xinh đẹp khác hẳn các anh chị em trong gia đình. Kiều em thì sắc sảo năng động, Kiều chị thì dịu dàng mơ màng. Hai nàng nổii tiếng từ năm đệ tam, nhị, nhất. Em tung chị hứng một cách nhịp nhàng khiến nhiều chàng trai phải điêu đứng. Các lằn roi trên lưng của Kiều em đã phai nhạt kể từ khi ông anh bị tử trận ngoài chiến tuyến và không còn ai kiềm chế nữa. Bạn tôi là bạn thân của anh hai nàng Kiều được điền thế vào vai trò người anh. Nhưng bạn tôi quá hiền lành chỉ tạo dịp cho các nàng đi chơi đêm có giấy phép đúng theo sự giật dây của tôi mà thôi. Kiều em lên đến đệ nhất đã có một thiếu tá phi công săn đón, chiếm độc quyền. Nhưng Kiều chị mới là người khiến nhiều chàng trai mê mệt, trong đó có cả tôi. Hai nàng Kiều còn có cô chị đang học văn khoa ở viện đại học Đà Lạt, hè và tết mới về thăm nhà. Cô chị cũng xinh xắn, cởi mở, chỉ có tội thấp hơn hai em mà thôi. Bởi vì bạn tôi là bạn thân đã mất của cô nên cô đối xử với chúng tôi rất thân tình. Có cô chị, chúng tôi có dịp đến nhà các cô chơi, đưa đi nghe nhạc, ăn khuya thường xuyên hơn. Tôi thấy cô chị cũng xứng đôi với bạn tôi nên rấp tâm làm mai cho họ. Như thế cũng tiện cho tôi trong kế hoạch chinh phục Kiều chị. Thỉnh thoảng tôi gặp riêng cô chị, nói xa nói gần, nói tốt cho bạn tôi. Tôi với các nàng Kiều trở nên thân tình hơn, Kiều chị cũng gần gủi với tôi hơn. Lòng tôi như mở cờ, ắt hẵn phen này vui vẻ cả làng rồi. Tết qua, hè lại đến, một buổi chiều đẹp trời, cô chị gặp riêng tôi, tỏ lộ tình cảm riêng tư của nàng. Không biết từ lúc nào cô đã thương tôi và cảm thấy không thể nào thiếu vắng tôi trong cuộc đời. Cô muốn kết hôn cùng tôi trước các em của cô. Quả thật, tôi như bị sét đánh ngang tai, không biết bày tỏ thế nào với cô. Được cô yêu quả là một điều đáng hãnh diện, nhưng bạn tôi thì sao? Chắc cũng chẳng sao vì nó đã quen rồi. Còn Kiều chị nữa? Tuy tôi có thương, nhưng Kiều chị mộng quá cao, chắc tôi với không tới. Tôi lửng lửng lơ lơ để mặc cho cô chị dàn xếp theo ý của cô. Khi mạ cô nghe được ý định của cô thì bà đã có phản ứng mãnh liệt. Bà không thể chấp nhận bỏ bao nhiêu khó khăn nuôi con ăn học thành tài, rồi đem đi gả cho một thằng không bằng không cấp, không lon không lá như tôi. Tôi cũng bị chạm tự ái nặng, nên cũng dứt khoát từ chối tình nàng. Tự nhiên lúc này tôi có giá dể sợ. Các bạn của cô, là các luật sư tương lai, thay phiên nhau đi thuyết khách, nhưng tất cả đều thất bại. Lý do chính, đúng như mẹ cô nói, với xã hội bấy giờ, tôi không thể nào xứng với cô chị. Cô chị sau khi tốt nghiệp, trở về Nha trang dạy học, tỏ ra thân mật với bạn tôi hơn. Tôi biết cô có ý khiêu khích tôi, nhưng tôi cũng không quan tâm lắm. Bởi vì lúc này tôi cũng đang tan nát cõi lòng khi hay tin Kiều chị đã phải lòng với một chàng kỹ sư công chánh vừa ra trường. Thế rồi, tình hình chiến cuộc đổi thay bất ngờ. Nha trang bị bỏ ngỏ đột ngột. Tôi và các bạn, mỗi người lo tự tìm phương tiện bỏ chạy lấy thân. Tôi chạy được vào Saigon, ba mạ và các em tôi cũng lục tục vào sau. Gia đình tôi chỉ còn biết nương cậy vào cậu em rể, có anh là vị Chỉ huy trưởng của một Đơn vị Đặc nhiệm, có phương tiện di tản khi cần. Nhưng mỗi người đều có số phần. Chúng tôi đến điểm hẹn, chờ trực thăng Mỹ đến bốc đi. Trực thăng Mỹ không đến khiến nhiều người phải chịu cảnh tù tội. Riêng tôi, giờ cuối cùng, có người bạn tới nhà kéo đi. Chạy ra bến Bạch Đằng, lên chiếc tàu Hải Quân cuối cùng và đã vượt thoát. Tôi đã đến Canada an toàn và đang chịu thảm cảnh cô đơn như bây giờ. Cuối cùng, tôi quyết định gọi cho Lan. Tôi hồi hộp nghe tiếng điện thoại reo liên hồi và chờ đợi tiếng trả lời bên kia đầu giây. Lan đã reo mừng khi nhận được giọng nói của tôi. Nàng cho biết chỉ qua Mỹ được có một mình và cũng đang cô đơn nhớ nhà, nhớ ba mạ và các em từng ngày. Nàng nói huyên thuyên như không muốn dứt, nàng vẫn nhớ những kỷ niệm êm đẹp của ngày xưa thân ái. Nàng nói nàng đang ở trọ và thường hay vắng nhà để đi học nên không tiện nhận điện thoại của tôi nhưng nàng sẽ gọi cho tôi thường xuyên. Sau nhiều tuần nói chuyện, nàng tỏ ý ái ngại cho cuộc sống buồn thảm của tôi nơi miền giá lạnh. Nàng ngỏ ý nếu tôi muốn sang Mỹ, nàng sẽ lo mọi thủ tục giấy tờ cho tôi và hi vọng mọi sự sẽ tốt đẹp, sẽ không còn gì cách trở. Tôi rất cảm động mối thâm tình của nàng, nguyện sẽ yêu thương nàng, bù đắp lại cho những dang dở ngày xưa. Tôi cho nàng hay tôi sẽ làm theo ý nàng sắp đặt. Tôi sẽ sắp xếp sang thăm nàng một tuần để bàn luận chu đáo hơn. Nàng mừng rỡ và hứa sẽ ra phi trường đón tôi khi có chuyến bay và ngày giờ đích xác. Sau khi tôi cho nàng biết chuyến bay và ngày giờ qua Los Angeles thì tuyệt nhiên tôi không nhận được tin tức của nàng nữa. Số điện thoại của nàng cũng bị ngưng luôn. Tôi quá thắc mắc không biết chuyện gì đã xảy ra cho nàng? Không lẽ nàng muốn dành cho tôi một ngạc nhiên thích thú khi hai người gặp mặt tại phi trường? Đến Los Angeles buổi chiều Thứ Bảy, mòn mỏi trông chờ, chẵng thấy bóng dáng người yêu đâu cả. Cuối cùng tôi phải gọi người bạn, hắn hẹn mấy giờ sau mới tới đón tôi được. Buồn tình, tôi cứ thở ngắn thở dài, thằng bạn chẳng hiểu vì sao, cứ xin lỗi hoài vì nghĩ mình đón tiếp không chu đáo. Tuần lễ đi nghỉ hè là tuần lễ thăm dò tin tức của Lan nhưng không được manh mối nào, tôi đành trở về lại Canada trong phiền muộn. Từ từ tôi cũng tìm hiểu được hoàn cảnh của Lan. Nàng đã theo một gia đình hàng xóm chạy từ Nha Trang vào Saigon. Bị kẹt ở Vũng Tàu, nên cũng theo gia đình họ xuống tàu vượt biên luôn. Nàng đã ở chung hộ với gia đình này trong các trại tỵ nạn và cũng đã sớm lập gia đình với người trưởng nam để có nơi nương tựa khi mà tương lai chẳng biết sẽ thế nào. Gặp tôi, nàng đã có gia đình, nhưng lòng nàng vẫn nặng trĩu những oán hận. Tôi đã làm nàng quá mất mặt trước bạn bè nên không thể nào tha thứ được. Nàng đã giả vờ săn đón để tạo ảo tưởng cho tôi, thăm dò tâm tư tình cảm của tôi, khiến cho tôi phải đau khổ, phải thất tình như nàng. Tôi cũng là người Huế, tôi thường nghe nói gái Huế khi thương thì thương gia diết, nhưng khi hận thì cũng hận thấu xương. Tôi không ngờ nàng hận tôi dử giằn như vậy, muốn thử lòng tôi mà quên cả hạnh phúc gia đình trong tầm tay. Tôi không hề oán trách nàng, chỉ thấy thương hại cho nàng. May mà mọi việc cũng qua đi và đã không gây tổn thương cho ai hết.
Việt cộng thôn tính miền Nam, thống nhất đất nước. Chủ nghĩa vô thần với chính sách bần cùng hóa nhân dân đã vô tình khiến người dân Việt Nam tin tưởng vào Thượng Đế hơn bao giờ hết. Là người công giáo, phật giáo hay lương, mỗi khi muốn đi vượt biên đều đến nhà thờ, chùa để khấn nguyện,cầu xin được bình an. Bởi vì họ đã biết trước chuyến đi lành ít dữ nhiều nhưng bắt buộc phải ra đi. Mỗi người có một số phần, khi gần kề bên sự sống cái chết đều cảm nhận được có Đấng Bề Trên độ trì bên mình. Họ không thể nào quên những cảnh tượng hãi hùng, cũng như không thể nào hiểu được mình đã may mắn thoát hiểm một cách thần tình nên không hề xao lãng báo đáp ân tình của Đấng Bề Trên. Do đó, người Việt Nam hãi ngoại xin gia nhập đạo Công giáo, Phật giáo rất đông. Nhiều Nhà Thờ, Chùa được xây lên để đáp ứng nhu cầu tâm linh của giáo dân. Phong trào Thiền, Niệm Phật ... cũng được phát triễn khắp nơi. Tôi cũng đang tập thiền, nghiên cứu Phật pháp, tử vi. Tôi không có tâm nguyện riêng. Ba mạ và các em cũng đã được anh Hai tôi bảo lảnh sang Canada. Anh tôi đã lập gia đình trước năm 1975 nên đã di tản theo phương tiện riêng của anh và cũng đã đến Canada cùng lúc với tôi. Tôi không có người thân để lo lắng, tuy nhiên tinh thần tôi hơi bị giao động từ khi tôi cảm nhận đã có người hận mình đến xương tủy. Tình yêu là vậy sao? Như vậy không phải chỉ có một mà nhiều nhiều người nữa đã oán hận tôi. Tôi có hại ai đâu. Tôi chỉ đem niềm vui, nụ cười đến cho họ. Có điều tôi không thể kéo dài cuộc vui khi họ muốn tiến xa hơn nữa. Đó là vì lúc bấy giờ đất nước đang chiến tranh. Tôi còn chưa thể tự lo cho mình được, làm sao dám nghĩ đến hạnh phúc gia đình. Lòng tôi hoang mang nên mỗi khi nhắm mắt ngồi thiền định , cũng như trong giấc ngủ tôi đều thấy có các cô gái hiển hiện như trách móc. Các cô chẳng ai xa lạ, là bạn gái ngày xưa của tôi, đã hơn một lần yêu và chia tay. Thời niên thiếu, tôi ham vui, không chăm chỉ học hành nên phải đi lính sớm. Cũng may, tôi được phục vụ trong một đơn vị không tác chiến gần gia đình. Công việc cũng nhàn hạ, hợp với khả năng của tôi nên tôi cũng cảm thấy thoái mái. Chiều tối, nếu không bị cấm trại, tôi cũng có thể vui chơi với bạn bè. Tôi có nhiều bạn gái. Các cô thích nghe lời dịu ngọt và cách săn đón của tôi nên dễ dàng yêu thương tôi. Tôi không làm hại hay gây tổn thương đến ai. Tôi chỉ là bạn bè muốn tạo cho họ niềm vui, nụ cười ở tuổi đầu đời thế thôi. Tuy nhiên, em nào có ý muốn cột chân tôi, muốn giới thiệu tôi với gia đình họ là tôi tìm cớ thoái thác và tìm cách rút lui. Thật ra, tôi cũng tiếc thương họ lắm, nhưng tương lai tôi quá mờ mịt, không thể bảo đảm được cuộc sống lứa đôi, nên cứ phải phát lờ, vui được ngày nào hay ngày ấy. Sự lởn vởn của các cô làm tôi đâm hoảng, không biết số phận của họ giờ này ra sao? Giờ này cha đang đi cải tạo, gia đình đi kinh tế mới? Liệu họ có đủ miếng ăn qua ngày, hay đã đi vượt biên với dữ nhiều lành ít? Lòng tôi hoang mang, không thiền nữa. Thời may, tôi gặp được một tu sinh của chùa Vạn Phật bên Cali sang Motreal thăm họ hàng. Chúng tôi thảo luận với nhau về Phật Pháp. Anh giải thích thế nào là sắc sắc không không. Anh đã ra trường kỹ sư nhưng lại muốn tìm nơi yên tịnh để tu dưỡng. Anh hướng dẫn tôi cách nhập thiền và hứa sẽ giới thiệu vị sư chu trì cho tôi khi tôi có duyên đến chùa. Tình trạng kinh tế ở Canada bắt đầu khó khăn, nhiều hãng xưởng đóng cửa, sa thải nhân viên. Tôi cùng chung số phận với những người mất việc nên quyết định sang Cali, tìm đến chùa Vạn Phật để tu tập. Người bạn tu sinh đã giới thiệu tôi với vị sư chu trì và ngài đã nhận tôi làm đệ tử. Sư phụ đặt tên cho tôi là Quả Trần. Sư phụ không giãi thích ý nghĩa, chỉ bảo tôi từ từ chiêm nghiệm rồi sẽ hiểu. Tôi tu tập được ba tháng thì sư phụ gọi tôi lên để khảo sát. Tôi trình với sư phụ tôi khi thiền định tôi không còn bị khuấy phá. Sư phụ hài lòng với thành quả của tôi. Tuy nhiên, sư phụ cũng bảo là cái nghiệp của tôi còn nặng. Sở di trú không chấp nhận cho tôi được ở lại chùa lâu dài. Tôi hiểu ý sư phụ nên đã cảm tạ sư phụ để sửa soạn xuống núi. Quả thật cái nghiệp của tôi còn nặng nề. Lên chùa, đã có một em, không quen biết nhiều, chỉ nói là ngưỡng mộ tôi, muốn đưa tôi đến tận cổng chùa. Đang tu tập thì có một em khác, em của vị tu sinh, lên chùa công quả, từ bên kia triền đồi, bên bờ suối vẫy tay chào hỏi. Và trong bửa tiệc tiễn đưa tôi về lại Canada, lại có một em khác ngồi cạnh bên khiến tôi không cầm lòng, tuyên bố hôm nay không ăn chay để mọi người khỏi bận tâm về các thức ăn bày biện trên bàn. Cali quả thật là nơi dừng chân tuyệt vời và là khung trời mơ ước của tôi. Tôi quyết định bay về Montreal, thu xếp mọi công chuyện. Xong mang hết đồ đạc lên xe lái đi Vancouver tìm nơi định cư mới. Vancouver sát ranh giới với Mỹ và gần Cali nhất. Tôi có thể lái xe đi Cali bất cứ lúc nào tôi muốn. Từ từ tôi cũng kiếm được việc làm ở Vancouver, đời sống cũng tạm ổn. Rổi rảnh, tôi cũng hay sinh hoạt với nhóm thanh thiếu niên, hướng dẫn họ cách thức luyện tập thiền. Tôi hay nhắc nhở đến cảnh thanh tịnh ở chùa Vạn Phật. Cô bé con bà chủ nhà tôi ở trọ nghe chuyện thích quá, cứ đòi tôi đưa đi viếng cảnh chùa bên Mỹ. Chiều ý, tôi đưa cô bé đi một vòng khắp Cali. Viếng chùa tàu ở miền nam Cali, lên chùa Vạn Phật ở miền bắc, rồi đến tu viện Kim Sơn gần San Jose. Cũng có một vài kỹ niệm vui vui. Cũng chẵng có gì đáng tiếc xãy ra ngoại trừ bị giựt bóp ở San Francisco làm cã hai mất hết giấy tờ hộ thân, phải đi khai báo và mau trở lại Canada làm lại giấy tờ. Về nhà, cô bé bị mẹ la rày vì đã theo trai cả tuần. Cô chịu đựng, chờ tôi tỏ tình và giãi thích cho ba mẹ cô. Tôi thấy tâm tôi vẫn tịnh, nên vẫn giử im lặng. Tôi không hề quyến dụ cô. Cô đã lớn rồi, đưa nhau đi tầm đạo là chuyện bình thường thôi. Tôi không có lổi gì với gia đình cô. Tuy nhiên tôi cũng lặng lẻ dọn đi nơi khác để tránh sự xoi mói của mẹ cô. Buồn tình và có lẽ cũng giận tôi nữa, cô đã chiều theo ý mẹ đi lấy chồng xa bên Úc. Cô đi rồi lại có cô khác đến nghe lời dịu ngọt của tôi, rồi lại ra đi trong nước mắt. Không biết tôi đang tạo nghiệp hay cái nghiệp của tôi quá nặng nề. Tôi đang phân vân giữa đạo và đời. Khi thì muốn quy y cửa Phật, lúc thì nhìn về Cali như là một khung trời mơ ước.
Thấm thoát tôi đã ở Canada trên mười mấy năm. Tôi giựt mình khi thấy tóc đang bắt đầu đổi màu. Ở tuổi trên bốn mươi, nếu không thể đi tu thì phải lo đến việc lập gia đình trước khi quá muộn. Tôi có thể kiếm vợ ở Canada dể dàng nhưng đây không phải là nơi tôi muốn định cư. Lòng tôi vẫn hướng về Cali, nơi mà tôi mơ hồ tôi muốn có một cái gì đó. Tôi lại vừa mới thất nghiệp. Làm công nhân thật là phiền phức. Tôi có ý định tìm một nghề tự do cho thoái mái hơn. Do đó tôi quyết định qua Cali học khóa huấn luyện ngành du lịch 2 tháng. Tôi nghĩ ngành này thích hợp với khoa ăn nói của tôi, tôi sẽ dể dàng thành công hơn. Trong dịp này, tôi cũng quen biết được vài cô, nhưng chỉ để vui chơi thôi chứ các cô không đủ điều kiện để bảo lảnh tôi. Tài chánh quả là một vấn đề nan giãi. Tôi cũng không thành công trong việc mở văn phòng du lịch ở Vancouver. Tôi không thể bán vé máy bay nội địa vì bây giờ người ta thường mua vé trên mạng internet. Còn bán vé về Việt Nam, phải liên hệ với việt cọng, tôi không thích. Lòng tôi thật rối bời, lại phải đầu quân lại vào các hãng điện tử, lại phải dậm chân tại chổ. Một người bạn đã giới thiệu tôi một thiếu phụ một con, cô trông rất đẹp, rất quý phái. Sau vài lần gặp gở, cô rất bằng lòng phong cách của tôi và muốn tiến xa hơn nữa. Thật ra tôi cũng đã biết cô từ mấy tháng trước. Tôi cũng thích cô nhưng vẫn cứ lưỡng lự, dẩu sao tôi vẫn còn là trai tân. Giờ đây tôi không còn lối thoát, sự mong ước sang Mỹ lập lại cuộc đời đã lấn áp tôi và tôi đã cầu hôn cùng cô. Hôn lễ cũng đơn giãn thôi, trong vòng thân mật của gia đình và bạn bè. Vợ tôi lo thủ tục giấy tờ cho tôi về định cư tại Seattle. Tôi dự tính sau khi ổn định sẽ đưa vợ về Cali. Vợ tôi cũng thích Cali nắng ấm nhưng vì đã có cơ sở vững chắc ở đây nên không tiện di chuyễn đi nơi khác. Lòng tôi lại nặng chỉu những suy tư. Hạnh phúc gia đình là vậy sao? Lúc nào cũng bị bó chân bó tay, không suy tính được việc gì cã. Seattle và Vancouver cũng lạnh lẻo như nhau, có khác gì đâu. Tôi cãm thấy có chút ân hận nhưng không bao giờ tỏ lộ cho vợ tôi hay. Mãi đến khi tôi nghe được tiếng khóc chào đời của con tôi, lòng tôi bổng bừng tỉnh. Như có một luồng sinh khí đang thổi vào trong tôi, tôi không còn biết gì nữa ngoài con tôi. Tôi ôm con, nựng con, săn sóc con đêm ngày. Cám ơn vợ tôi đã cho tôi một cô bé bụ bẩm dễ thương. Vợ tôi đã đau đớn cưu mang con nên tôi tình nguyện săn sóc con cho vợ khỏi cực nhọc thêm nữa. Ngoài giờ đi làm ở hãng điện tử và thiền, tôi không bao giờ rời xa con. Tôi cho con bú sữa, thay tã và tắm rửa cho con mỗi ngày. Đêm đêm thức giấc canh chừng từ những tiếng la, tiếng khóc o oe của con. Tôi vui với sự khôn lớn của con, từ cái lăn mình, cựa quậy, tiếng khóc đòi ăn, vòi vĩnh. Tôi lại càng quay quắt quấn quít mỗi khi con lên cơn sốt, mọc răng. Tôi giảm bớt liên lạc với bạn bè. Ngay cả khi điện thoại mà nghe con khóc, cũng vội vã xin lỗi ngưng điện đàm để lo cho con. Đến hè, tôi thường đưa vợ con đi khắp các tiểu bang thăm bà con bạn bè. Thường thì hay về Cali thăm em gái tôi và các bạn Nha Trang của tôi. Em tôi đã lấy chồng bên Mỹ và đã định cư tại Cali từ mấy năm nay. Khi con tôi đã biết đi, biết nói, thì vợ tôi để hai cha con đi, để tôi có nhiều thì giờ thù tiếp với bạn bè hơn. Mới đó mà con tôi đã hơn mười tuổi, và đang theo học tiểu học, sắp sữa lên Middle School. Chúng tôi lo chọn nhà mới gần trường Middle School và High School tốt cho con tôi theo học sau này. Vợ tôi thật khéo chọn, ngôi nhà mới xinh xắn, đầy đủ tiện nghi và phòng ốc cho các con. Nhìn gương mặt rạng rỡ của con tôi, tôi không thể dấu nụ cười mãn nguyện. Tuy nhiên, tôi không có duyên với ngôi nhà mới này. Từ ngày chúng tôi mời bà ngoại của con tôi về ở chung, nụ cười đã không còn nở trên môi của tôi. Tôi không biết phải nói thế nào về bà. Bà ăn nói rất khéo léo nhã nhặn, nhưng để xã giao mà thôi. Đối với tôi thì bà không khách sáo chút nào. Thấy tôi làm lương thấp hơn vợ tôi, bà tỏ vẽ khó chịu. Thê thảm nhất là lúc tôi thất nghiệp. Bà đay nghiến, xem tôi như không phải là thành phần trong gia đình. Bà xâm phạm luôn cã tự do cá nhân của tôi, nói xiên nói xỏ mỗi khi tôi nhập thiền hoặc ăn chay trường. Cuối cùng bà áp lực với vợ tôi, buộc vợ tôi phải chọn bà hay tôi. Tôi không biết bà có hiểu thế nào là tình phụ tữ. Trước kia bà đã khiến cho cháu ngoại lớn của bà mất bố, nay lại đành đoạn để cho cháu ngoại út của bà phải xa lìa cha nó. Tôi không làm gì lầm lỗi với vợ tôi, nhưng thương vợ, không để vợ tôi khó xữ, tôi bằng lòng ra đi. Nhưng tôi không cam lòng mất con tôi một cách đành đoạn. Tôi thuê phòng gần nhà để mỗi ngày được nhìn thấy con tôi đi đi về về. Vợ tôi vẫn kính nễ tôi, không muốn con tôi mang mặc cảm mất cha, đã bằng lòng cho tôi được đưa đón con tôi đi học. Vợ tôi đưa con tôi đến trường ban ngày, tôi đón về mỗi chiều. Thứ Bãy, Chủ Nhật, tôi đưa con tôi đi học nhạc, học vỏ, thỉnh thoãng đi shopping ăn kem. Niềm hãnh diện và hạnh phúc nhất của tôi mỗi khi được vợ tôi ủy quyền đưa con tôi đi dự đại hội thi đua tranh giãi với các trường khác. Nhìn những chiếc cúp, những bằng khen của con mà lòng vui sướng, không ngăn được khóe mắt đỏ hoe. Nhớ ngày xưa ham vui chơi, khiến mọi việc dỡ dang, học hành chẵng ra đâu vào đâu, mất cã tương lai. Tôi muốn bù đắp lại sự thiếu sót của tôi bằng cách dồn hết thời gian của tôi cho con tôi, đưa con tôi đi đây đi đó khi cần. Con tôi thật là ngoan, ngoài sự thông minh hiếu học, vẫn chụi khó nghe lời tôi răn dạy. Mỗi ngày một lớn, nhưng hè nào cũng theo tôi về Cali, không phàn nàn hoặc tỏ vẽ khó chịu khi cùng tôi đến thăm các bạn già của tôi. Thân thiện với cac cô bé cùng lứa tuổi là chuyện trò thích nghi ngay. Thời gian thấm thoát trôi qua, con tôi sắp học xong trung học và đang sữa soạn nộp hồ sơ vào đại học. Con tôi học giỏi, điểm GPA cao, sinh hoạt xã hội tốt. Tôi hi vọng sẽ có trường đại học danh tiếng chấp nhận con tôi. Tôi dự trù sẽ dọn về gần trường để có thể gần con và giúp đở con tôi khi cần thiết. Nhưng con tôi rất ngoan. Con tôi thương bố mẹ, không muốn xa rời bố mẹ nên đã chọn trường đại học ở Seattle để học phí nhẹ, bớt tốn kém. Thế cũng tốt thôi, tôi khỏi phải đổi job, có thể dành dụm thêm ít tiền đưa con đi nghỉ hè xa.
Giờ đây tôi không còn lo lắng gì nhiều nữa. Thỉnh thoãng buồn tình giở lá số tử vi ra nghiền ngẫm. Có lẻ bạn tôi giãi đoán cũng chẵng sai lắm. Tôi có mạng đế vương nhưng vô chính diệu nên chỉ là ông vua không ngai. Đời tôi ung dung tự tại, không quyền thế, chức tước, nhưng lúc nào cũng có bạn bè giúp đở. Quanh tôi nhiều mỹ nhân vây quanh, tưởng là có số đào hoa, nhưng đào hoa tại mệnh nên yêu rất nhiều mà chẵng được bao nhiêu, rốt cuộc cũng nằm chèo queo một mình. Tôi dự định khi nghỉ hưu tôi sẽ về Cali sống với em gái tôi. Tôi cũng còn có hoài vọng, chờ khi ngoại của con tôi qua đời, con tôi sẽ là sợi dây kết nối để vợ chồng tôi sum họp, săn sóc nhau trong tuổi già. Không biết kiếp trước tôi đã tạo nghiệp như thế nào, nhưng kiếp này tôi quyết tâm ăn chay niệm Phật cho đến tuổi già .
Trong lòng vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, không dứt khóat được việc gì.
Quả Trần sao quá đắng cay Kiếp này xin nhận, Kiếp sau xin về
Duy Sam 2018