7 thg 7, 2009

Một số minh chứng cho lời kết tội nhà Minh trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi


Hồ Bạch Thảo

Một đôi lúc người yêu Việt sử cảm thấy buồn bởi đọc những bài luận sử, lấy sự lập dị làm đắc sách, tìm cách bôi nhọ cổ nhân, nhắm lôi kéo sự đồng tình của kẻ hiếu kỳ. Mặt khác những bậc danh nhân làm lịch sử, các cây bút lớn, văn chương cô đọng một câu muôn ý, lại có biết bao việc đại sự để làm, không rảnh để nêu lên những chi tiết vụn vặt. Lợi dụng tình trạng này, những ngòi bút điên đảo kia có thể tìm cách xuyên tạc sự thực, rồi một ngày nào đó họ có thể tung ra những bài viết đại loại như sau: “Tội ác giặc ghi trong Bình Ngô đại cáo nhắm gây căm thù, chưa hẳn có thực”.

Nếu trường hợp này xảy ra, bài khảo luận dưới đây nhằm nêu lên những bằng chứng từ chính sử Trung Hoa và Việt Nam, để làm sáng tỏ sự thực.

Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi chép về tội giặc như sau:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.
Dối trời lừa người, kế quỷ quyệt đủ muôn ngàn khoé,
Gây binh kết oán, tội chồng chất ngót hai mươi năm.
Tan nghĩa nát nhân, trời đất tưởng chừng muốn sập,
Sưu cao thuế nặng, núi chằm hết thảy sạch không.
Kẻ tìm vàng phá núi đãi bùn, lặn lội nơi lam chướng,
Người mò ngọc dòng dây quăng biển, làm mồi lũ giao long.
Nhiễu dân đặt cạm bẫy hươu đen,
Hại vật, chăng lưới bắt chim trả.
Đến cỏ cây sâu bọ cũng chẳng được trọn đời,
Người góa bụa khốn cùng không một ai yên ổn.
Hút máu mủ sinh dân, quân gian ác miệng răng nhờn béo,
Dựng công trình thổ mộc, nhà công tư dinh thự nguy nga.
Chốn châu huyện bao tầng sưu dịch,
Nơi xóm làng lặng lẽ cửi canh.
Tát cạn nước Đông Hải không đủ rửa tanh nhơ,
Chặt hết trúc Nam Sơn không đủ ghi tội ác.
Thần nhân đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha. (1)

Bắt chước lối làm sử xưa, xin lần lượt lấy những câu trong Bình Ngô đại cáo làm “cương”, rồi nêu lên những bằng chứng chi tiết làm “mục”. Có thể các bạn trẻ chê rằng “cương mục” quá cổ; nhưng nếu bạn đang ngồi trên ghế nhà trường, viết một đoạn văn tiếng Anh mà thiếu “topic sentence” (câu chủ đề) sẽ bị ông thầy giáo sổ toẹt ngay; “cương” cũng giống như “topic sentence” vậy.

Bây giờ xin phép vào vấn đề.

A.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ.

Tất cả những người tham gia khởi nghĩa chống quân Minh đều là dân, ngoài những nghĩa sĩ chết trên chiến trường không kể, Minh thực lục chép hai vụ giết tập thể tù nhân, một vụ giết lăng trì, róc thịt lãnh tụ khởi nghĩa Nguyễn Cảnh Dị. Các văn bản dưới đây là bằng chứng hùng hồn về việc “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn…”

Thủ phạm vụ giết tù nhân thứ nhất là Anh quốc công Trương Phụ, địa điểm gây tội ác tại xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều [Kiến An, Hải Phòng] (2). Để đàn áp cuộc nổi dậy của Nguyễn Sư Cối, Trương Phụ sai chém hơn 2.000 tù nhân, lập thành bãi tha ma nguỵ để dân chúng xem:

Ngày 9 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 8 [12/2/1410]

Ngày hôm nay, quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ đánh bại dư đảng giặc Nguyễn Sư Cối tại châu Đông Triều. Trước đây Sư Cối nguỵ xưng vương, cùng với bọn nguỵ Kim Ngô Thượng Tướng quân Đỗ Nguyên Thố đóng binh hơn 2 vạn tại xã Nghi Dương, huyện An Lão, châu Đông Triều; thường đến sông Hoàng Giang, Ma Lao, cùng cửa biển Đại Toàn cướp phá, để hưởng ứng theo Giản Định [Giản Định Đế]. Đến ngày hôm nay, Trương Phụ cho vây xã Nghi Dương, bọn giặc chống cự, quan quân phấn khởi bắn tên đá như mưa, khiến giặc thua to. Chém hơn 4.500 thủ cấp, chết trôi nhiều; bắt sống nguỵ Giám Môn Tướng quân Phạm Chi, nguỵ Vũ Lâm Vệ Tướng quân Trần Nguyên Khanh, nguỵ Trấn Phủ sứ Nguyễn Nhân Trụ hơn 2.000 tên, bèn chém liệm xác chôn thành bãi tha ma để thị chúng (sinh cầm nguỵ Giám Môn Vệ Tướng quân Phạm Chi, nguỵ Vũ Lâm Vệ Tướng quân Trần Nguyên Khanh, nguỵ Trấn Phủ sứ Nguyễn Nhân Trụ đẳng nhị thiên dư nhân, giai trảm chi liễm kỳ thi vi kinh quan yên) [生 擒 僞 監 門衛 將 軍 范支, 僞 羽 林 衛 將 軍 陳 原 卿, 僞 鎮 撫 使 阮 人 柱 等 二 千 餘 人, 皆 斬 之 斂 其 屍 爲 京 觀 焉]. (3)

Chín năm sau, lại có một cuộc khởi nghĩa khác cũng tại huyện An Lão, do nhà sư Phạm Ngọc tu tại chùa Đồ Sơn cầm đầu. Viên Tổng binh Giao Chỉ bấy giờ là Phong Thành hầu Lý Bân đàn áp, bắt tù nhân trước sau hơn 1.000 người, bèn cho xử chém để làm răn:

Ngày 15 tháng Chạp năm Vĩnh Lạc thứ 17 [31/12/1419]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân bắt được tù trưởng giặc Phạm Thiện tại châu Đông Triều. Trước đây tên yêu tăng Phạm Ngọc tại chùa Đồ Sơn, huyện An Lão phao rằng trời giáng ấn kiếm, lệnh làm chúa; bèn tiếm xưng La Bình vương, kỷ nguyên Vĩnh Ninh, tụ tập đám đông làm loạn. Bọn Thiện và Đào Thừa đến theo. Ngọc cho Thiện làm Nhập nội Kiểm hiệu Tả Tướng quốc Bình chương quân quốc trọng sự, Ngô Trung làm Nhập nội Hành khiển Hữu Thượng thư Tri quân quốc trọng sự, Đào Thừa làm Xa kỵ Đại Tướng quân, Lê Hành làm Tư không, tụ tập đám đông chiếm cứ đường thủy và bộ. Lúc đại quân đến đánh, Thiện dàn quân hai bên bờ, lại bày thuyền giữa sông, thủy bộ cùng chống cự. Bân xua quân đánh gấp, chém 1.200 thủ cấp, bắt sống Thiện cùng bọn Trung gồm 780 người, tịch thu hơn 200 chiếc thuyền lớn nhỏ; Ngọc tẩu thoát, lại bắt quân giặc hơn 260 tên, tất cả đều bị xử chém để răn. Thiện, Trung, cùng bọn Vũ Lộ đều bị giải về kinh sư (Bân đốc tướng sĩ cức chiến, trảm thủ thiên nhị bách cấp, sinh cầm Thiện cập Trung đẳng thất bách bát thập nhân, đắc thuyền đại tiểu nhị bách dư sưu. Ngọc thoát tẩu, hựu đắc tặc tốt nhị bách lục thập dư nhân giai trảm chi giới. Thiện, Trung, cập Vũ Lộ đẳng câu tống kinh) [彬 督 將士 亟 戰, 斬 首 千 二 百 級, 生 擒 善 及 忠 等 七 百 八 十 人, 得 船 大 小 二 百 餘 艘. 玊 脫 走, 又 得賊 卒 二 百 六 十 餘 人, 皆 斬 之 械. 善 忠 及 武 路 等 俱 送 京]. (4)

Qua hai văn kiện nêu trên, Minh thực lục chỉ ghi việc làm của hai viên tổng chỉ huy quân đội nhà Minh tại nước ta, còn thuộc hạ thì cho là chuyện nhỏ không đề cập tới. Nhưng một khi chủ tướng giết một, thì kẻ dưới giết mười; hãy tưởng tượng nỗi đau khổ của dân ta lúc bấy giờ!

Trang 2174, quyển 219, Minh thực lục, chép việc Lý Bân đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Ngọc, tàn sát hơn 1.000 tù nhân nghĩa quân.

Lại thêm tội ác lớn của bọn Trương Phụ gây ra trong cuộc đánh phá tàn quân của vua Trùng Quang [Trần Quý Khoách] tại huyện Chính Hoà, phủ Tân Bình [Quảng Bình ngày nay]. Trong cuộc giao tranh, Nguyễn Cảnh Dị bị thương (Minh thực lục chép lầm là Đặng Cảnh Dị), quân Minh bắt được bèn đem róc thịt cho đến chết.(5) Riêng anh em Đặng Dung bị bắt đem về Trung Quốc.

Nhắc đến Đặng Dung, người yêu thơ cổ không quên được nét hào tráng, bi hùng trong thiên tuyệt tác nói lên hoài bão của tác giả.

Thuật hoài

Thế sự du du nại lão hà!
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.

Tạm dịch:

Cuộc đời còn mờ mịt, nhưng già rồi biết làm sao đây!
Trong khoảng trời đất vô cùng, chuếnh choáng men say ca hát.
Khi gặp thời những kẻ xuất thân tầm thường như ngư phủ, đồ tể
cũng thành công dễ dàng,
Một khi vận đã qua, đấng anh hùng đành nuốt hận.
Ôm hoài bão giúp vua, phù trì đất nước,
Nhưng không kéo nổi sông trời để rửa sạch giáp binh.
Mối thù nước chưa trả xong, thì đầu đã bạc,
Mấy lần còn ngồi dưới ánh trăng, mài sắc thanh kiếm Long Tuyền.

Sau đây là văn bản trình bày việc đánh bắt và giết Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung:

Ngày 17 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 12 [7/2/1414]

Quan Tổng binh Anh quốc công Trương Phụ mang quân đến trang Tra Hoàng, huyện Chính Hoà [Quảng Bình], châu Chính Bình; tướng giặc là Hồ Đồng hàng. Nghe tin bọn Đặng Cảnh Dị, Đặng Dung, Long Hổ Tướng quân nguỵ Lê Thiềm cùng hơn 700 tên chạy đến sách Côn Bồ, Tiêm Man; bọn Phụ tiến binh ngay đến sông La Mông. Phải theo đường núi vin cành lá mà leo lên, nên đành bỏ ngựa, tướng sĩ tiếp tục đi theo. Đến sách Côn Bồ, bọn Cảnh Dị đã bỏ trốn; lại truy kích đến sách Tra Bồ Nại, bọn giặc và dân địa phương đều trốn, không biết ở chốn nào, nên làm cuộc lục soát lớn. Vào canh tư, đi trên 20 dặm, nghe tiếng trống điểm canh, Phụ sai Đô chỉ huy Phương Chính mang quân lẳng lặng đi, đến lúc trời sáng đến phía bắc sông, tại sách Tra Bồ Cán. Giặc lập trại tại bờ phía nam, quan quân vượt sông vây đánh. Giặc chống không nổi, tên bắn liên tiếp trúng, Cảnh Dị bị thương tại sườn, bắt được. Đặng Dung trốn, Phương Chính mang quân truy lùng bắt cùng với em là Đặng Nhuệ; lại bắt hết bọn giặc Lê Thiềm, tịch thu ấn nguỵ của Cảnh Dị. Cảnh Dị bị thương nặng, róc thịt, gói thủ cấp áp giải cùng anh em Đặng Dung đến kinh đô; tất cả đều bị xử chém để làm răn. (Cảnh Dị thương thậm, quả chi, hàm thủ cập Dung huynh đệ tống kinh sư, tất trảm tuẫn) [景 異 傷 甚,剮 之, 函 首 及 鎔 兄 弟 送 京 師, 悉 斬 狥]. (6)

Những bằng chứng lịch sử nêu trên có thể làm sáng tỏ lời cảnh cáo sau đây của thầy Mạnh Tử đối với bọn cai trị độc tài: “Một khi dân không sợ chết, đừng lấy cái chết doạ dân”. Trương Phụ đàn áp tại huyện An Lão, giết hàng ngàn tù nhân, đắp mả nguỵ để cảnh cáo, nhưng vô ích, lửa giận của dân được nhen nhúm, để rồi 9 năm sau lại nổi lên cuộc khởi nghĩa khác của nhà sư chùa Đồ Sơn cũng chính tại huyện An Lão này. Việc Trương Phụ chỉ huy những trận càn quét tàn quân của vua Trùng Quang tại sông Ái Tử, Ái Mẫu thuộc châu Thuận [Quảng Trị], cùng hành động dã man róc thịt Nguyễn Cảnh Dị tại phủ Tân Bình vào năm Quý Tỵ (1413), thì 4 năm sau đó cũng chính tại châu Thuận và phủ Tân Bình nổi lên cuộc khởi nghĩa lớn do những người đã từng hợp tác với nhà Minh khởi xướng, để mưu lật đổ bạo quyền:

Ngày 13 tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 15 [26/7/1417]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân tâu: “Tại Giao Chỉ, người châu Thuận [Quảng Trị] có bọn Lê Hạch, Phan Cường, cùng bọn thổ quan Đồng tri Trần Khả Luận, Phán quan Nguyễn Chiêu, Chủ bạ Phạm Mã Hoãn, Thiên hộ Trần Não, Bách hộ Trần Ngô Sài; tại châu Nam Linh [phía bắc Quảng Bình] có Phán quan Nguyễn Nghĩ, Tri huyện Tả Bình Phạm Bá Cao, Huyện thừa Vũ Vạn, Bách hộ Trần Ba Luật làm loạn. Chúng đốt thành quách nhà cửa hai châu, giết quan lại, tiếm xưng danh hiệu, tụ tập đồng đảng hơn 1.000 tên. Bèn ra lệnh ngay cho Đô đốc Chu Quảng mang quân đánh dẹp, cùng Chỉ huy Giao Châu Trung vệ Hoàng Chấn, Chỉ huy Đồng tri Giao Châu Hữu vệ Đàm Công Chính, Chỉ huy Thiêm sự vệ Thuận Hóa Ngô Quỳ, Chỉ huy Thiêm sự vệ Tân Bình Phan Cần cầm quân hội tiễu; giết Lê Hạch cùng đồ đảng hơn 500 người tại trận; bắt sống Phan Cường, Trần Khả Luận, Nguyễn Chiêu, Phạm Mã Hoãn, Phạm Bá Cao, Vũ Vạn; chiếu theo luật tất cả đều bị tru lục. Bọn Nguyễn Nghĩ, Trần Ba Luật cùng đồng bọn còn sót lại bỏ trốn; đốc suất các tướng tiếp tục truy bổ…” (7)

B.

Dối trời lừa người, kế quỷ quyệt đủ muôn ngàn khoé,
Gây binh kết oán, tội chồng chất ngót hai mươi năm.
Tan nghĩa nát nhân, trời đất tưởng chừng muốn sập,
Sưu cao thuế nặng, núi chằm hết thảy sạch không.

Người Trung Quốc có câu nói “Quân bất hý ngôn” nghĩa là vua không nói đùa, ý nói lời vua hứa chắc như đinh đóng cột. Xét việc làm của vua Minh Thành Tổ, rõ ràng phản lại câu nói nêu trên. Trong đạo dụ nêu 20 điều kết tội cha con vua nhà Hồ, (8) Minh Thành Tổ long trọng hứa sẽ lập con cháu nhà Trần lên làm vua. Nhưng vốn bản chất “dối trời lừa người” nhà Minh tìm mọi cách phỉnh gạt rằng con cháu nhà Trần đã chết hết, để chia nước ta thành phủ huyện cai trị. Giản Định Đế, Trần Quý Khoách là con cháu nhà Trần, được dân chúng tôn lên làm vua, thể theo lời vua nhà Minh thường rêu rao “phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt” bèn cho sứ giả đến xin cầu phong, thì bị quân Minh khủng bố bắt giết. Lịch sử ghi nhận Trương Phụ hai lần giết sứ giả nhà Hậu Trần: Năm Vĩnh Lạc thứ 7 [1409] giết sứ giả Đoàn Tự Thủy tại Thanh Hóa; năm Vĩnh Lạc thứ 11 [1413] giết sứ giả Nguyễn Biểu tại Nghệ An. Về vụ giết sứ giả Đoàn Tự Thủy, Minh thực lục chép như sau:

Ngày 3 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 7 [9/11/1409]

Ngày hôm nay quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ trú binh tại Thanh Hóa. Lúc này tên cầm đầu giặc Trần Quý Khoách xưng càn là cháu Tiền Vương, sai nguỵ quan Đoàn Tự Thủy mang thư đến quan Tổng binh xin phong tước. Phụ nói rằng con cháu nhà Trần trước đây đã bị giặc họ Lê giết hết rồi, đã cho tìm hỏi khắp nhưng không còn ai. Nay chỉ phụng mệnh dẹp giặc, không biết điều gì khác; bèn đem Đoàn Tự Thủy giết, rồi xua binh tiến thẳng…(9)

Nhà Minh cố tình đàn áp, gây việc binh đao. Không kể việc Trương Phụ lần thứ nhất mang đại quân sang đánh nhà Hồ; sau khi guồng máy cai trị được thiết lập, Trương Phụ lại mang quân sang nước ta thêm hai lần nữa. Một lần chủ yếu đánh dẹp quân của Giản Định Đế, lần sau đánh tan lực lượng vua Trùng Quang tại Thuận Hóa [Quảng Trị, Thừa Thiên]. Viên đại tướng lỳ lợm hiếu sát này, từng tuyên bố: “Tôi sống được cũng là vì Hóa Châu [Trị-Thiên], có làm ma cũng là vì Hóa Châu. Hóa Châu mà chưa dẹp được, tôi còn mặt mũi nào trông thấy chúa thượng nữa!” (10)

Một mặt đàn áp, một mặt thì bóc lột, hai chính sách song song. Thuế má nặng nề, đủ mọi loại; như thuế cá phải nạp tiền, khi cần gạo thì bắt đổi tiền nạp gạo. Lại cho lập sở Thương bạc tại Vân Đồn để đánh thuế buôn bán với tàu thuyền nước ngoài. Hai văn bản dưới đây nói về việc thu thuế cá và lập sở Thương bạc:

Ngày 24 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 7 [8/2/1409]

Bộ Hộ tâu rằng Giao Chỉ mới nội phụ, khó có thể tận thu tô thuế, mà sự cung ứng cho quân và ngựa thì cần rất nhiều, nên tạm thời thu thuế cá, cứ 1 quan tiền thì bắt nạp 2 đấu gạo để chi dụng…(11)

Ngày 19 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 6 [15/2/1408]

Thiết lập tại Giao Chỉ, Vân Đồn Thương bạc Đề cử ty. Đặt Đề cử, Phó Đề cử mỗi chức một viên. (12)

Trong bộ máy quân sự đồ sộ đặt tại nước ta, quân lính được chia làm 2 loại: một loại chiến đấu, một loại làm đồn điền. Nhà Minh cướp không núi, chằm, ruộng tốt làm hầm mỏ, đồn điền. Tận dụng trai tráng Việt làm lính đồn điền, chính quyền nhà Minh nhắm vào những điều lợi sau đây:

Thu được số lúa nạp hàng năm, tại vùng châu thổ sông Hồng, Thanh Hóa hàng năm nạp 35 thạch; tại vùng Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên nạp 18 thạch mỗi đầu người.

Gom thanh niên vào lính để khỏi theo phe nổi dậy.

Lính Việt nặng lòng với nước Việt nên còn lưỡng lự hai lòng, không dùng để chiến đấu được, nên dùng làm lính sản xuất.

Sau đây là văn bản về việc lập đồn điền:

Ngày 29 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 19 [28/6/1421]

Quan Tổng binh Giao Chỉ Phong Thành hầu Lý Bân tâu rằng đất nội phụ Giao Chỉ xa xôi, không dễ dàng vận chuyển lương thực; xin cho các ty, vệ, sở chia lính lập đồn điền để cung cấp. Hoạch định một phần căn cứ vào đất đai hiểm hay dễ, tình thế gấp hay hoãn để dùng quân đồn điền hoặc chinh điều nhiều hay ít. Quân lính người bản xứ tuy được liệt vào sổ binh, nhưng lúc đánh nhau còn lưỡng lự hai lòng, thường không liều chết; nay bàn định tỷ số đồn điền phần nhiều là lính bản xứ, quan quân ít.

Trong 7 vệ gồm Giao Châu tả, hữu, trung, tiền, cùng Trấn Di, Xương Giang, Thanh Hóa; hoạch định quan quân 1 phần đồn điền, 9 phần chinh thủ [quân lo việc phòng thủ và tấn công]; quân lính người bản xứ 7 phần đồn điền, 3 phần chinh thủ. Hậu vệ Giao Châu, vệ Tam Giang, Thiên Hộ sở Thị Cầu; quan quân 2 phần đồn điền, 8 phần chinh thủ; lính bản xứ 8 phần đồn điền, 2 phần chinh thủ. Mỗi người làm đồn điền hàng năm trưng thu 35 thạch lúa.

Ba vệ Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa quan quân đồn điền 3 phần, 7 phần chinh thủ; lính bản xứ 6 phần đồn điền, 4 phần bị chinh điều [quân điều động đi đánh dẹp]. Ba Thiên Hộ sở tại Diễn Châu, Nam Tĩnh, Thanh An; tất cả quan quân không phụ trách đồn điền, quân bản xứ 3 phần đồn điền, 7 phần chinh tiễu [quân lo việc tiễu trừ]. Quân đồn điền hàng năm trưng thu 18 thạch lúa mỗi người. Lời tâu được chấp nhận. (13)

C.

Kẻ tìm vàng phá núi đãi bùn, lặn lội nơi lam chướng,
Người mò ngọc dòng dây quăng biển, làm mồi lũ giao long.
Nhiễu dân đặt cạm bẫy hươu đen,
Hại vật, chăng lưới bắt chim trả.

Nhà Minh rất chú trọng đến việc khai mỏ vàng và ngọc trai. Minh thực lục ghi việc lập cục khai mỏ vàng trong 7 trấn, cục khai mỏ ngọc trai tại tỉnh Quảng Yên:

Ngày 19 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 6 [15/2/1408]

Lập cục khai mỏ vàng tại 7 trấn: Thái Nguyên, Gia Hưng [thuộc Vĩnh Phú], Quảng Oai [thuộc Hà Tây], Thiên Quan [thuộc Ninh Bình], Vọng Giang [thuộc Nghệ An], Lâm An [thuộc Quảng Bình], Tân Ninh [không rõ]. Đặt Đại sứ 2 viên, Phó sứ 4 viên; lại tuyển Tri châu, Tri huyện 21 viên; mỗi trấn 3 viên Đề đốc, Áp biện; lại dùng 2 viên Tổng đốc tại phủ. Sai bộ Lễ đúc ấn ban cấp. (14)

Ngày 3 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [23/8/1419]

Lập cục khai mỏ ngọc trai tại châu Tĩnh An [thuộc Quảng Ninh], đặt một viên Đại sứ. (15)

Lịch sử thường ghi nhận chỗ nào có bóc lột đàn áp; chỗ đó dân chúng vùng lên. Tại Trung Quốc nhóm khởi đầu nổi lên chống lại chế độ nhà Tần là những dân phu xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Tại nước ta, dưới thời nhà Minh đô hộ, dân đãi vàng đã làm hai cuộc khởi nghĩa, cầm đầu bởi Vũ Cống, Hoàng Nhữ Điển tại tỉnh Nghệ An; viên Xã chính coi việc đãi vàng là Trịnh Công Chứng tại tỉnh Hải Dương:

Ngày 1 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 17 [17/11/1419]

Ty Đô Chỉ huy Giao Chỉ tâu rằng tại huyện Kệ Giang [thuộc huyện Thanh Chương], phủ Nghệ An có tên thổ quan Bách Thiên Trần Trực Thành, cùng em là Trực Nguỵ tự xưng Kim Ngô Tướng quân; cùng bọn Lãm Bàn giặc Áo Đỏ cướp phá xã Dương Biến giết Tuần kiểm Trương Tú. Vũ Cống người trong hộ đãi vàng liên kết với kỳ lão Hoàng Nhữ Điển tụ tập dân chúng đốt phá huyện Phù Lưu [Quỳnh Lưu, Nghệ An]. Các nhóm nổi dậy tại huyện Khâu Ôn [thuộc Lạng Sơn] có Nông Văn Lịch, châu Vũ Ninh [thuộc Bắc Ninh] có Trần Đại Quả, châu Khoái [thuộc Hưng Yên] có Nguyễn Đặc, huyện Thiện Thệ có Ngô Cự Lai tiếp tục trước sau làm loạn, giết hại quan binh. Tại huyện Đồng Lợi, châu Hạ Hồng [thuộc Hải Dương], phủ Tân An, viên Xã chính coi việc đãi vàng là Trịnh Công Chứng tụ tập đám đông hơn 1.000 người đốt phá bắt giết quan lại tại các ty Tuần kiểm thuộc các huyện Đa Dực [Thái Bình], Đồng Lợi, châu Hạ Hồng và cửa biển sông Đản. Đô đốc Phương Chính mang quân đánh bại giặc tại Đồng Lợi. Thám thính cho biết trước đó bọn chúng đến châu Nam Sách, bèn truy kích kịp thời đánh dẹp tại ty Tuần kiểm A Côi [Thái Bình] chém hơn 400 thủ cấp, số giặc chết trôi tính không hết; Công Chứng bèn chạy trốn. Sắc dụ quan Tổng binh Phong Thành hầu Lý Bân mang quân đánh bắt. (16)

Nhà Minh độc quyền việc khai thác muối, lập ty Đề cử tại các tỉnh ven biển để trông coi:

Ngày 7 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 9 [29/5/1411]

Thiết lập ty Đề cử lo về thuế muối, cùng trông coi kho muối. Lập ty Tuần kiểm tại quan ải nhỏ thuộc huyện Cổ Lũng, phủ Lạng Giang [Lạng Sơn]. (17)

Như tại Nghệ Tĩnh, lập các công trường muối tại cửa Hội, Nam Giới, Chân Phúc, Thiên Đông; cùng thiết lập 5 kho muối:

Ngày 13 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 15 [24/8/1417]


Thiết lập tại phủ Nghệ An, Giao Chỉ kho Quảng Tích. Tại cửa biển Đan Thai [cửa Hội], huyện Nha Nghi [Nghi Xuân, Hà Tĩnh] lập ty Tuần kiểm; ty Đề cử muối, gồm 5 kho muối: Bác Tế, Quảng Tế, Viễn Tế, An Tế, Diễn Tế; cùng 3 công trường muối: Nam Giới, Chân Phúc, Thiên Đông. (18)

Bấy giờ giá muối rất đắt, thương gia phải dùng vàng, bạc để đổi muối, rồi bán cho kẻ tiêu thụ với giá cắt cổ. Người dân phải bóp bụng, bớt thực phẩm khác để lấy tiền mua muối. Thảm thay, dân một nước có cả hàng ngàn cây số bờ biển, mà không có đủ muối để ăn!

Ngày 23 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [31/5/1415]


Ty Bố chính Giao Chỉ tâu rằng đã triệu tập thương gia đến, hứa cho dùng vàng, bạc, tiền đồng để đổi muối. Rồi Bộ Hộ quy định một lượng vàng cấp 30 dẫn (19) muối, 1 lượng bạc, hoặc 2.500 đồng tiền cấp 3 dẫn. Nay chấp nhận. (20)

Rừng biển là nơi hầm mỏ được khai thác, cũng là nơi dân bị lùa đến để săn bắt cầm thú, hải sản. Các văn bản đề cập đến việc triều cống, tiết lộ cống một lượt 2.000 thúy vũ;(21) ngoài ra còn cống các thú vật quý hiếm khác như tê giác v.v…

Ngày 18 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 16 [25/3/1418]


Đô Chỉ huy Trần Tuấn tại Giao Chỉ sai người đến cống các vật như ngựa, vàng, tê giác, ngà voi. (22)

D.

Đến cỏ cây sâu bọ cũng chẳng được trọn đời,
Người góa bụa khốn cùng không một ai yên ổn.
Hút máu mủ sinh dân, quân gian ác miệng răng nhờn béo,
Dựng công trình thổ mộc, nhà công tư dinh thự nguy nga.
Chốn châu huyện bao tầng sưu dịch,
Nơi xóm làng lặng lẽ cửi canh.

Qua các bằng chứng đã nêu, người đàn ông lúc bấy giờ bị bắt lính, phục dịch nặng nề. Phụ nữ ngoài việc thay chồng nuôi con, phải bỏ khung cửi tại nhà, đến các công xưởng dệt quyên, (23) lụa, làm các đồ tiểu công nghệ để cống tiến thiên triều:

Ngày 29 tháng Chạp năm Vĩnh Lạc thứ 17 [14/1/1420]


Giao Chỉ dâng 1.320 tấm quyên, 5.000 cân tô mộc, 2.000 thúy vũ, 10.000 chiếc quạt. (24)

Của cải tước bóc nhiều, dĩ nhiên con đường bộ qua ải Pha Lũy không tiện cho việc vận chuyển số lượng lớn. Theo lời xin của Trương Phụ, mở phương tiện vận chuyển bằng đường thủy. Thủy trình này nếu tính từ nước ta tại thành Đông Quan [Hà Nội]; thì bắt đầu từ sông Phú Lương [Hồng Hà], qua sông Thiên Đức [sông Đuống], đến sông Lục Đầu, qua sông Kinh Môn, Kinh Thầy ra biển; rồi theo bờ biển vịnh Hạ Long đến châu Khâm (Trung Quốc). Các trạm dịch đường thủy và sở vận chuyển được mô tả như sau:

Ngày 19 tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 14 [14/6/1416]


Quan Tổng binh Giao Chỉ Anh quốc công Trương Phụ tâu rằng từ trạm dịch Thiên Nhai thuộc châu Khâm, tỉnh Quảng Đông, qua cảng Miêu Vĩ đến Thông Luân, Phí Đào theo ngả huyện Vạn Ninh đến Giao Chỉ phần lớn do đường thủy, đường bộ chỉ có 291 dặm.(25) Đường cũ bắc Khâu Ôn gần Thất Dịch, nên lập cả trạm đường thủy và trạm ngựa để tiện việc đi lại. [Thiên tử] chấp thuận. Rồi cho lập 2 trạm đường thủy tại Phòng Thành và Phật Đào tại châu Khâm tỉnh Quảng Đông; lập 3 sở chuyển vận tại Ninh Việt, Dõng, Luân; lập ty Tuần kiểm tại Phật Đào; lập 2 trạm mã dịch tại Long Môn, An Viễn huyện Linh Sơn, lập 2 sở chuyển vận tại An Hà, Cách Mộc.

Tại huyện Đồng An, châu Tĩnh An, Giao Chỉ lập trạm dịch đường thủy cùng sở chuyển vận tại Đồng An; lập trạm dịch đường thủy cùng sở chuyển vận tại Vạn Ninh, huyện Vạn Ninh; lập 3 trạm dịch đường thủy tại Tân An thuộc huyện Tân An, An Hoà thuộc huyện An Hoà và Đông Triều thuộc châu Đông Triều; lập trạm dịch đường thủy cùng sở vận chuyển tại Bình Than, huyện Chí Linh; lập trạm dịch đường thủy tại Từ Sơn, thuộc huyện Từ Sơn. Các trạm ngựa tại Thiên Nhai thuộc châu Khâm, Quảng Đông; Gia Lâm thuộc huyện Gia Lâm, sông Lô phủ Giao Châu đều lập trạm đường thủy. Trạm đường thủy Châu Môn, Hoành Châu lệ thuộc vào phủ Nam Ninh, Quảng Tây. Cho thiết lập Thiên Hộ sở thủ ngự tại Tân An, Giao Chỉ. (26)

*

Văn Nguyễn Trãi ý tứ sâu xa phong phú như có phép màu. Qua bốn câu cuối kể tội giặc trong Bình Ngô đại cáo, người viết ngộ ra rằng dù có bỏ thêm mươi năm nghiên cứu cũng không trình bày được hết ý; vậy xin kính cẩn chép lại nguyên văn để làm phần kết thúc bài:

Nguyên văn:

决 東 海 之 水 不 足 以 濯 其 汚,
罄 南 山 之 竹 不 足 以 書 其 惡.
神 人 之 所 共 憤,
天 地 之 所 不 容.

Phiên âm:

Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần nhân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.

Dịch nghĩa:

Tát cạn nước Đông Hải không đủ rửa tanh nhơ,
Chặt hết trúc Nam Sơn không đủ ghi tội ác.
Thần nhân đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha.

Hồ Bạch Thảo
(New Jersey, Hoa Kỳ)
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 3-2009

12 THÁNG ANH ĐI