27 thg 7, 2009

Tháng 4 của Saburo Sakai


Trần Vũ

1. Kỷ niệm với Hatsuyo và Saburo

Năm 73 khi hiệp định đình chiến Paris ký kết, trong lúc gia đình mừng vui vì nghĩ chiến tranh chấm dứt, tôi khám phá Saburo Sakai. Anh hiện diện bên cạnh Tameichi Hara, “Những trận thủy chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình dương”.


Thời gian đó, tôi say mê tủ sách chiến tranh của nhà Sông Kiên. Tôi đã biết đến Nagatsuka. Đã biết đến Inoguchi và Nakajima, qua các tập Thần Phong Kamikaze. Nhưng Sakai vượt lên trên tất cả bằng giọng văn thiết tha, sôi động và chân thật. Hồi ký toát ra tinh thần ái quốc gần như một đam mê, một dốc hết sức bảo toàn quốc gia bằng tất cả ruột gan và mạng sống. Samouraï toát ra sức mạnh của dân tộc Nhật dám sống và dám chết.

Ba mươi năm sau tôi gặp lại Sakai trong một chợ sách cũ. Tôi nhận ra thiếu úy Saburo Sakai tức khắc. Vẫn nụ cười tươi, vẫn lá cờ mặt trời mọc sau lưng và cả những dòng chữ sôi sục trong huyết quản của anh, trong các vòng xoáy của các khu trục cơ đang nhào lượn trên không phận Thái Bình dương. Tôi nhận ra cả những hòn đảo Rabaul, Truk, Guadalcanal, căn cứ Lae, căn cứ Salamua, quân cảng Moresby và cả Hatsuyo, người yêu của Sakai. So với bản dịch của Nguyễn Nhược Nghiễm in tại Sài Gòn năm 72, bản Pháp văn của Robert de Marolles dầy hơn nhiều mươi trang. Ngày gặp lại Sakai, mua lại được hồi ký của anh, tôi biết vừa tìm được một mảnh vỡ giữa các miểng chai quá khứ.

Tôi đọc lại những trang sách cũ, lần này bằng tiếng Pháp, dưới nền trời xám lạnh không còn những trận nắng hầm mái tôn như lúc xưa, nhưng cảm giác vẫn nguyên vẹn. Vẫn những trận không chiến ác liệt và mối tình tuyệt đẹp của Sakai với Hatsuyo. Mối tình anh em họ mà Sakai giữ kín trong lòng mà giáo dục nề nếp không cho phép Hatsuyo bày tỏ, chỉ có những lá thư với lời lẽ chừng mực kín đáo. Thời niên thiếu, tôi si mê Hatsuyo, si mê đức tính nhẫn nại của thiếu nữ đã đứng giữa mùa đông buốt giá xin từng mũi thêu cho Sakai. Trong chiến tranh, các phụ nữ Nhật khẩn cầu trời Phật độ trì cho người đàn ông mà họ yêu thương tránh được làn tên mũi đạn. Để chứng lòng thành, Hatsuyo phải xin được một ngàn mũi kim thêu tay của một ngàn phụ nữ qua đường để gửi đến Sakai tấm khăn lụa của tình yêu được chứng giám.

Một lần về phép, Sakai đến thăm chú thím mình, ông bà Hirokawa, với hy vọng trông thấy cô em họ. Buổi tối chỉ còn lại hai người trong phòng khách, Hatsuyo mời Sakai ngồi lại để nghe cô đàn một bản đàn mà qua tiếng dương cầm Hatsuyo hy vọng Sakai sẽ hiểu được lòng mình. Lễ giáo không cho phép cô thổ lộ tình cảm thật, chỉ còn lại tiếng đàn. Trong thâm tâm, Hatsuyo hờn trách Sakai đã không hỏi cưới mình, tuy biết huyết thống quá gần không cho phép hôn nhân. Cả dòng họ không ai hay biết mối tình này. Tiếng đàn của Hatsuyo cất lên, trầm bổng, đôi khi mãnh liệt như Hatsuyo muốn giải bày tình yêu mãnh liệt của lòng mình và muốn phá vỡ sự câm nín của Sakai. “Hãy nói yêu em” là những thanh âm phát lên từ những cung bậc của đàn dương cầm. Và Sakai vụt hiểu.

Nhưng Nhật Bản rơi vào biển lửa của hàng vạn pháo đài bay liên tục trải thảm mà các chiến đấu cơ Mitsubishi A6M Zéro không còn đủ sức nghênh cản khi các đoàn oanh tạc cơ này được hàng đoàn khu trục Grumman F6F Hellcat tối tân, bay nhanh hơn, đông đảo hộ tống. Nhật Bản không còn chọn lựa nào khác ngoài tử chiến đến cùng.

Đảo Lưu huỳnh đi vào lịch sử thế chiến với tên gọi tàn khốc “Địa ngục của địa ngục”. Task Force 58 của đô đốc Mitscher tập trung oanh kích Không đoàn Yokosuka của Sakai trên đảo Iwo Jima. Đến mức hải quân đại tá Mioura quyết định khiển dụng tất cả máy bay còn lại cho trận tấn công quyết tử trước khi Iwo Jima thành bình địa. Mệnh lệnh rõ rệt: Không trở về. Lao xuống các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Bằng mọi giá chặn kẻ thù vào biển Nhật. Chưa phải một đơn vị Thần Phong nhưng Không đoàn lừng danh Yokosuka không còn chọn lựa chiến thuật nào khác. Thiếu úy Saburo Sakai cất cánh tức khắc, với hình ảnh duy nhất: gương mặt của Hatsuyo trên nền biển Thái Bình.


Trận không chiến diễn ra ác liệt, trên tổng số máy bay Nhật, chỉ có mỗi máy bay của Sakai và hai máy bay bên cánh trở về. Khác các Kamikaze, Sakai là một phi công khu trục đã từng bắn hạ nhiều máy bay Mỹ, nên dù mang sứ mệnh tự sát, Sakai vẫn phản xạ bằng phản ứng của một phi công kinh nghiệm. Suốt chuyến bay khi gặp nghênh cản, rồi chiến đấu thoát vòng vây, Sakai bị dằn vặt bởi ý nghĩ phản bội, không hoàn thành nhiệm vụ, vì muốn sống để quay trở về với Hatsuyo, nhưng bay về nửa đường Sakai quyết định quay lại hạm đội Mỹ để đâm xuống lần nữa, rồi tới gần hạm đội này, anh lại quyết định quay về Iwo Jima tìm đường sống, tìm lại Hatsuyo. Sakai bị giằng co như vậy nhiều lần, cho đến lúc màn đêm buông xuống và anh không còn trông thấy gì nữa, đành trở về. Những ngày sau trung tá Nakajima cho Sakai hay Bộ Tư lệnh Tiền phương quyết định cho các phi công kinh nghiệm trở về Nhật Bản làm công tác huấn luyện. Sakai rời Iwo Jima ngay trước ngày đổ bộ của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ, với ý nghĩ anh đã phản bội đồng đội.

Ngày phó đô đốc Onishi chính thức thành lập phi đoàn Thần Phong tự sát và Hiroshi Nishizawa, người bạn thiết cuối cùng tử trận, dưới đáy cùng của tuyệt vọng Sakai viết thư cho Hatsuyo để nói anh yêu cô, trước khi quá muộn. Mười hai ngày sau, tại Không đoàn Matsuyama, Sakai được tin có thân nhân đến thăm. Bước ra phòng tiếp tân, Sakai ngỡ ngàng trông thấy thím anh và Hatsuyo. Anh sợ hãi vì bức thư bộc bạch lộ liễu tình yêu của mình đã xúc phạm gia đình chú thím. Nhưng Hatsuyo đã tiến lại và nói: Em đến đây để làm vợ anh, dù ngày mai anh phải chết, em được giáo dục để chết theo một samouraï. Dòng họ chúng ta là một dòng họ samouraï, thì không vì lý do gì mà em không được chết theo anh. Saburo, em đến đây để làm vợ anh.

Sakai hãy còn quá bất ngờ thì thím anh đã lên tiếng: Các con hoàn toàn xứng đáng, huyết thống không còn là một ngăn trở. Ngày 11 tháng 2-1945, Sakai làm lễ thành hôn với Hatsuyo. Thay vì nhẫn cưới, Hatsuyo nhất quyết bắt anh phải tặng cho cô con dao thật bén của võ sĩ đạo để khi hay tin anh chết, cô sẽ tự vẫn. Ðám cưới diễn ra không ban nhạc, trong tiếng còi hụ báo động và trận bom làm rung chuyển tầng hầm. Sakai sẽ là phi công Nhật cất cánh bắn hạ pháo đài bay B-29 cuối cùng rơi trên đất Nhật và sống sót trở về. Khi Thiên hoàng đọc lệnh đầu hàng, Sakai lang thang suốt đêm, đầu óc cùng quẫn vì quẫn trí rồi chạy như điên trong thành phố về nhà vì chợt nhớ Hatsuyo đang đợi anh, nếu nghi anh tự vẫn cô sẽ tự tử chết cùng. Khi Sakai ập vào nhà, Hatsuyo xanh tái ôm chầm lấy chồng: “Khi nghe lệnh đầu hàng, em đã khóc như một đứa trẻ. Có thật chấm dứt rồi không? Chiến tranh, những trận bom, tất cả không còn nữa?” Sakai chỉ biết lập lại: Nhật Bản đã bại trận. Hatsuyo rút lưỡi dao giắt ở đai lưng áo kimono, ném xuống đất: “Nhật Bản đã bại trận nhưng anh đã chiến thắng tất cả những trận đánh của anh. Kể từ bây giờ em không còn cần con dao này nữa.” Lưỡi lam sáng lóa, biếc ngời, lăn trên sàn cho đến khi bất động.

Đó là câu chuyện của Saburo Sakai và Hatsuyo Hirokawa. Câu chuyện có rất nhiều thần chết. Saburo Sakai được xem phi công kỳ tài đã bắn rơi 64 phi cơ Đồng Minh. Hiếm có hồi ký chiến trường nào tường thuật tỉ mỉ chi tiết không chiến với nhiều sôi động tâm tính con người như trong hồi ký của Sakai. Bên cạnh, Bay đêm hay Phi công thời chiến của Saint Exupéry là một vũ trụ im lặng. Bên cạnh, Chuyến săn của Heinz Knoke là một cỗ máy vô tình. Ngay cả hồi ký Phi công đâm bổ Stuka của Hans Rudel cũng không sánh bằng ở mức độ dữ dội, đặc biệt trong chương với một mảnh đạn đại liên ghim vào đầu và một mảnh đạn trong mắt, Sakai mù lòa cố gắng vượt 700 cây số từ Guadalcanal bay về Rabaul, bay trong thiếp ngủ, bay trong khát khao trầm xuống biển xanh để chấm dứt đau đớn thể xác. Những trang sách đậm đặc sống chết, đậm đặc bản năng con người.

Tôi đánh mất Saburo Sakai và Hatsuyo Hirokawa vào một buổi trưa tháng 5-1975 khi gia đình bán đi tủ sách, vì lệnh giao nộp văn hóa phẩm đồi trụy ban hành. Những ngày sau tôi lang thang khắp Chợ Cũ lùng kiếm Sakai, với hy vọng tìm lại anh và Hatsuyo. Rồi tôi cũng tìm được Sakai, Hatsuyo và các bạn anh: hạ sĩ Ota, trung sĩ Takatsuka và trung úy Nishizawa ở một ấn bản ố vàng. Nhưng tôi chỉ giữ được anh thêm ba năm. Ngày vượt biên tôi đem theo Sakai và Hatsuyo vì họ chưa rời tôi ngày nào. Định mệnh đã sắp đặt cách khác.

Chuyến tàu MT-603 khởi đi từ Mỹ Tho chìm ở Biển Đông. Giấc 3 giờ sáng. Sakai và Hatsuyo rớt xuống biển lúc đó. Đến khi trời hừng sáng, mặt nước tím thẫm sáng dần, bãi san hô trồi lên thành một bãi đá ngút ngàn. Tôi chưa biết mình vừa đặt chân lên bãi ngầm của Trường Sa. Tôi chưa biết lòng bàn chân mình đang túa máu xuống Trường Sa từ vết thương đá cắt buốt rát. Bãi san hô ẩn chìm trải dài xa tít mịt mùng mà phía xa là đảo Palawan. 13 ngày ngâm trong nước, với nhiều xác người chết chìm chương phình; khi rời mặt nước, đặt chân lên quân vận hạm Phi Luật Tân quay nhìn lòng đại dương sâu hút, tôi biết, tôi đã trả Sakai về lại biển Thái Bình nơi các đồng đội anh yên nghỉ. Còn thỏi sắt của Hatsuyo, lưỡi dao bén mà Hatsuyo vẫn giắt bên mình, vẫn ở lại nơi cô đã ném vất.

2. Tháng 4 của Saburo Sakai

Năm 73, khi đọc Samouraï, tôi không chú ý lắm đến lời mào đầu, ba mươi năm sau cảm thấy số phận của những người lính Nhật với những người lính Nam-Việt tương đồng kỳ lạ. Vào đầu tập hồi ký, trong lá thư thay lời tựa, Sakai viết:

“Hải quân Hoàng gia Nhật dạy cho tôi một nghề nghiệp duy nhất: Phi công khu trục. Hủy diệt những kẻ thù của tổ quốc, bay và bắn. Tôi đã sống như vậy suốt 5 năm, trên những vùng trời Trung Hoa và Thái Bình dương. Tôi không biết đến đời sống nào khác ngoài đời sống của người lính.

Cuộc đầu hàng thảm khốc ném tôi ra khỏi Hải quân. Mang đầy thương tích của những năm chiến tranh nhưng tôi không thể xin bất kỳ một trợ cấp nào. Chúng tôi đã bại trận. Tôi hiểu ra, tiền cấp dưỡng tàn phế dành cho những thương phế binh, cho dù thâm niên quân ngũ, chỉ dành cho binh sĩ của đạo quân chiến thắng.

Chính sách chiếm đóng ngăn cấm tôi làm hoa tiêu, bất kỳ loại phi cơ nào. Trong suốt 7 năm dài, từ 1945 đến 1952, lý lịch phi công khiến tôi bị loại trừ ra khỏi những công việc thuộc phạm vi công chức.

Đối với tôi, hoà bình đồng nghĩa khởi đầu một cuộc chiến mới, dài hơn và tàn bạo hơn nữa. Tôi phải chiến đấu với những kẻ thù mới, tàn khốc bội phần, sự nghèo túng, đói kém, cùng vô số tước đoạt. Thường xuyên, chính quyền chiếm đóng dựng lên trước mặt tôi, một rào cản ngăn cấm tất cả. Lối thoát duy nhất còn lại là lao động tay chân và sinh sống trong ổ chuột.

Cú đấm chót là cái chết của Hatsuyo. Vợ tôi đã sống sót dưới những trận mưa bom và sống sót qua tất cả những hiểm nguy của chiến tranh nhưng cô không thể kháng cự kẻ thù mới, thứ bệnh trầm trọng của đốn mạt vì suy dinh dưỡng.

Sau cùng, sau những năm bị tước đoạt, tôi cũng dành dụm đủ tiền để mở một xưởng in nhỏ. Làm việc từ sáng đến tối, tôi đủ trang trải phí tổn, rồi kiếm thêm chút đỉnh. Không bao lâu sau, tôi tìm ra quả phụ đô đốc Takijiro Onishi qua nhiều tháng lùng kiếm. Phó đô đốc Onishi đã mổ bụng tự sát, ngay ngày đầu hàng đã chọn cái chết thay vì chọn sống; khi các thuộc cấp của ông nhận tử lệnh không bao giờ trở lại, vì chính đô đốc đã xây dựng các Phi đoàn Thần Phong cảm tử lừng danh - đâm bổ tự sát.

Bà Onishi, đối với tôi, hơn một quả phụ đô đốc; bà còn là dì của hải quân trung úy Sasai, một người bạn thiết. Sasai tử vong trên không phận New Guinea trong lúc tôi bị thương nằm bệnh viện. Trong nhiều năm, quả phụ Onishi đã sống khổ cực lây lất, kiếm sống bằng gánh hàng rong. Trông thấy bà quần áo rách rưới kéo lê quang thúng làm dậy lên trong lòng tôi một cơn giận dữ, nhưng lúc đó tôi không có một phương tiện nào để giúp đỡ bà.

Bây giờ, làm chủ một nhà in khiêm tốn, tôi thuyết phục bà làm phụ tá. Không lâu, nhà in phát triển, tôi lại tìm kiếm và thâu nhận thêm nhiều bà goá và thân thuộc của những đồng đội đã hy sinh.

May mắn, thời thế thay đổi. 10 năm đã trôi qua từ khi chấm dứt chiến tranh. Xưởng in chạy việc giúp tất cả chúng tôi tìm lại được một đời sống đầy đủ. Riêng với cá nhân tôi, những năm gần đây đã diễn ra một cách kỳ lạ. Tôi trở thành khách mời danh dự của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ và nhiều chiến hạm khác. Tôi vô cùng kinh ngạc trước tiến bộ kỹ thuật của những chiến đấu cơ phản lực. Tôi được mời gặp những phi công Đồng Minh. Ngồi cạnh họ, tôi trao đổi tự do và kết bạn. Chính đây mới thật sự là điều ấn tượng: Cũng chính những phi công Hoa Kỳ này mà tôi nhắm bắn, cách đây 10 năm, đã dành cho tôi tình bạn tự nhiên của họ.

Nhiều lần, Tân Không lực Hoàng gia Nhật Bản đề nghị tôi tái ngũ với cấp bậc sĩ quan tại chức. Tôi đều từ chối. Tôi không muốn quay trở lại quân ngũ với quá nhiều quá khứ.

Nhưng lái máy bay cũng giống bơi lội: không thể quên dễ dàng. Tôi đã không rời mặt đất từ 10 năm nay, nhưng chỉ cần tôi nhắm mắt, cần lái của chiến đấu cơ lại nằm trong lòng bàn tay phải, cần ga trong tay trái, và bàn đạp dưới chân. Tôi tìm lại tức khắc cảm giác của sự tự do thuần khiết, của hấp lực mời gọi của vũ trụ đầy mây mà tất cả phi công đều biết đến.

Không, tôi đã chưa bao giờ quên những động tác phi hành. Nếu nước Nhật còn cần đến tôi, nếu một ngày nào đó tổ quốc này bị cộng sản đe dọa, thì tôi sẽ đáp lại lời động viên. Nhưng với tất cả thành tâm, tôi cầu khẩn Trời cho phép tôi cất cánh vì một lý do nào khác.” [1]

Saburo Sakai, Tokyo, 1956

Bản dịch Anh ngữ của Martin Caidin, New York, 1956

Bản dịch Pháp ngữ của Robert de Marolles, Nxb Presses de la Cité, 1957

Những dòng chữ của Sakai giống những dòng chữ bi phẫn đầy cay đắng của các sĩ quan miền Nam sau 75. Giống nhau đến đập vào mắt. Vì cùng một kết cục bi thảm, tuy ngày 15 tháng 8-1945 của Nhật Bản phải tuyệt vọng hơn ngày 30 tháng 4 của miền Nam. Vì Nhật Bản chưa bao giờ bại trận, vì Nhật Bản vừa hứng chịu bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki. Vì dân Nhật chờ đợi sự chiếm đóng tàn khốc của Hoa Kỳ, một chiếm đóng của ngoại bang.

Ngược lại, miền Nam không thật sự tuyệt vọng vì muốn tin: một nửa dân tộc không thể hà khắc với một nừa dân tộc còn lại. Có thể chính sách cai quản sẽ nhiều cứng rắn nhưng vẫn là anh em một nhà. Hy vọng này, đã hiện diện ở phút giây đầu hàng. Trong suốt bao nhiêu năm, dân chúng đã trông đợi, khát khao, rồi mừng tủi vì chiến tranh đã thực sự chấm dứt. Nỗi mừng vui trông chờ đằng đẵng một nền hòa bình không bao giờ xảy đến vụt thành hiện thực. Nước mắt lăn dài vì từ đây chồng, cha, anh, em và các con sẽ không chết trận. Hòa bình lấn át nỗi lo sợ trả thù mà trong sâu kín tất cả cùng ý thức rất rõ: vị trí thua thiệt phải trả giá vì thất trận. Tất cả những gì xảy đến sau đó, trong những ngày sau, sẽ khá giống với những gì xảy đến cho gia đình thiếu úy Saburo Sakai, cùng một chính sách lý lịch, cùng một cách phân biệt đối xử, cùng những lầm than nghiệt ngã. Nhưng sau mốc 7 năm 1945-1952 mà Sakai kể lại, không còn gì chung để so sánh. Các phi công Nhật, không phải cải tạo, trở thành khách mời danh dự của các hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ, hồi ký của họ được xuất bản chính thức, quay thành phim như trường hợp cuốn Samouraï. Các cựu sĩ quan Nhật tìm lại vị trí trong xã hội và khá đông được mời tham gia Tân Quân đội Nhật Bản. Trường hợp miền Nam khác hẳn: Phía bại trận bị xóa tên, tù đày, không có lối thoát nào khác ngoài lìa bỏ tổ quốc.

Chính sách chiếm đóng của ngoại bang như thế, không quá khắc nghiệt đối với giai cấp quân phiệt Nhật. Đối với các sĩ quan Đức Quốc xã cũng tương tự: Cựu thống chế Erich von Manstein trở thành cố vấn tối cao của Tân Quân đội Liên bang Tây Đức Bundeswehr. Hans Speidel, tham mưu trưởng của Guderian rồi Rommel trở thành tư lệnh quân Đức trong khối Minh ước Bắc Đại Tây dương. Erich Hartmann chỉ huy phi đoàn phản lực hậu chiến đầu tiên, Günther Rall trở thành tổng tham mưu trưởng Tân Không lực Liên bang Bundesluftwaffe… Vị trí công dân bình đẳng của các cựu binh nhìn thấy rõ rệt nhất trên mặt báo chí: Vô vàn các hồi ký của các binh sĩ, sĩ quan Đức Quốc xã xuất bản công khai, chính danh, ở Tây Đức. Thậm chí các cựu binh của binh chủng Waffen-SS vẫn được lập hội[2], gia nhập đảng Tân Quốc xã và xuất bản hồi ký. Chỉ cần vào những trang Amazon hay Priceminister là có thể tìm thấy hằng hà sa số các hồi ký của Kurt Meyer[3] tư lệnh Sư đoàn 12 SS Hitlerjugend Tuổi trẻ Adolf Hitler, của Paul Hausser[4] tư lệnh Sư đoàn 2 SS Das Reich Đại Đức, hay của Felix Steiner, nguyên tư lệnh Sư đoàn 5 SS Panzer Wiking[5]… Thái độ của phía Tây Âu có thể xem gương mẫu: Thống chế Pháp Alphonse Juin viết lời tựa cho bút ký Bão Thép của Ernst Jünger trong lần tái bản. Trung tá Hoa Kỳ Martin Caidin tường thuật cuộc đời Saburo Sakai. Chuẩn tướng Anh Desmond Yound[6] viết nguyên một tập sách về sau trở thành best seller ca ngợi công trạng của thống chế Erwin Rommel và Xa đoàn Châu Phi (bản dịch Rommel, Con cáo già sa mạc của Nxb Sông Kiên Sài Gòn trước 75), thiếu tá Bỉ Bernard Dupérier và thiếu tướng Pháp Jacques Andrieux viết lời thiệu cho hồi ký của tư lệnh khu trục Đức Adolf Galland[7], v.v..

Gần 35 năm sau kết thúc nội chiến Nam-Bắc, đã có cuốn hồi ký nào của binh sĩ miền Nam được chính thức xuất bản và giới thiệu trang trọng trên đất nước Việt Nam mà không bị biên tập cắt xén hay vận dụng cho mục đích tuyên truyền như cuốn Hồi ký Tướng lưu vong của Đỗ Mậu? Nhìn trên quầy sách, chỉ tìm thấy những cuốn sách kiểu Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu[8] của Trần Trọng Trung… Hội Nhà văn Chiến thắng cũng không hề có nhu cầu tìm hiểu tâm tình của người miền Nam, thân phận của người Nam không hiện diện trong tác phẩm của Hội Nhà văn. Đây cũng là một trong những lý do vì sao độc giả miền Nam tẩy chay Văn học Thống nhất trong suốt một thời kỳ dài sau 30 tháng 4-1975.

So với Phan Nhật Nam, mà tôi duyên may phỏng vấn anh khi Gặp lại trên quốc lộ 1, Sakai may mắn hơn vì tháng 4 của Sakai đã ngắn hơn rất nhiều. Sakai phải chịu 7 năm lý lịch, còn Phan Nhật Nam mang trong mình vết tích của 14 năm tù đày. Đã 35 năm sau chiến tranh nhưng người lính miền Nam vẫn chưa tìm lại được phẩm giá cùng vị trí của mình trong lòng xã hội.

Điều mà Hội Nhà văn Chiến thắng không muốn nhắc đến: Là khối lượng máu đã đổ ra đều là máu của người Việt. Điều mà Ủy ban Quân quản Vĩnh hằng không lường trước là Đại thắng Mùa Xuân đang dần thành Đại thắng của Trung Quốc. Với bối cảnh Tây Nguyên hiện nay, kỷ niệm làm gì nữa Giải phóng Ban Mê Thuột?

_____________

Về Saburo Sakai có thể tham khảo một chương XV trong hồi ký Saburo Sakai - Samurai! Những trận không chiến dữ dội nhất lịch sử Thái Bình dương trên talawas và các trang web:

http://www.acesofww2.com/japan/Aces/Saburo_Sakai.htm

http://www.cieldegloire.com/010_Sakai _s.php

Gặp lại Phan Nhật Nam trên quốc lộ 1:

http://www.hopluu.net/default.aspx?LangID=38&tabId=466&ArticleID=481

24 tháng 7-2009

12 THÁNG ANH ĐI