19 thg 10, 2009

Tôi đi học

Đoàn Dự

Chút chuyện về nhà văn Thanh Tịnh và "Tôi Đi Học"
Thưa quý bạn, những vị bằng cỡ tuổi tôi, tức từ khoảng 60 trở lên, hầu hết đều thuộc ít nhất là đoạn mở đầu trong bài văn "Tôi Đi Học" rất đẹp của nhà văn Thanh Tịnh (1917-1988):

"Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm bâng khuâng của buổi tựu trường.

...Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học".

Cũng như Hồ Dzếnh (1916-1991), Thanh Tịnh còn vừa viết văn vừa làm thơ, và thơ của ông rất hay, rất nổi tiếng nên nhiều người còn gọi ông là nhà thơ: nhà thơ Thanh Tịnh.
Vậy Thanh Tịnh là ai, hình dạng ông ra sao, cuộc sống của ông như thế nào mà gần gũi với chúng ta đến thế? Sau đây chúng ta thử tìm hiểu về cuộc đời của con người vừa là nhà văn vừa là nhà thơ, mà cả văn lẫn thơ đều rất nhẹ nhàng, êm ái đó. Đặc biệt, theo hồi ký của nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971), một người bạn sống cùng thời với ông, việc gia đình của Thanh Tịnh có điểm khúc mắc mà chính Nguyễn Vỹ cũng chỉ "nghe nói" thôi chứ không biết rõ, và ngay Thanh Tịnh lúc còn sống - đi kháng chiến về - lại càng không biết rõ hơn. Mời quý bạn xem xét:

Tiểu sử và các tác phẩm của Thanh Tịnh
Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh (sau đổi thành Trần Thanh Tịnh), sinh 1917 tại Huế. Mất ngày 17 tháng 07 năm 1988 tại Hà Nội, hiện phần mộ đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế. Học chữ Nho đến 11 tuổi, rồi học tiếp bậc tiểu học và trung học ở Huế. Có bằng Thành chung. Năm 1933, đi làm ở sở tư - nghề hướng dẫn viên du lịch - sau đó làm nghề dạy học ở Huế. Sau 1945, ông làm Tổng thư ký Hội văn hóa Trung bộ rồi tham gia bộ đội năm 1946. Từ 1954, Chủ nhiệm Tạp chí Văn nghệ Quân đội CS, hội viên sáng lập Hội Nhà văn tại Hà Nội (1957).
Ngoài thơ, ông còn viết ca dao, viết kịch, viết báo; được coi là người sáng tạo ra thể "tấu hài", đi đầu trong lối viết "những đoạn văn ngắn" và là nhà văn có nhiều giai thoại văn học về tính tình điềm đạm, thích khôi hài nhẹ nhàng, không muốn làm mất lòng ai. Ông về hưu với cấp bậc đại tá quân đội CS.

Tác phẩm
Thanh Tịnh là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trước năm 1945, thơ và văn của ông thường đăng trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Tinh Hoa, Hà Nội Báo, Tiểu thuyết Thứ năm..., sau đó mới in thành sách, gồm:
1) Ngậm ngải tìm trầm (Tập truyện ngắn, 1943).
2) Quê mẹ (Tập truyện ngắn, 1941).
3) Chị và em (Tập truyện ngắn, 1942).
4) Xuân và Sinh (Tập truyện ngắn, 1944).
5) Hận chiến trường (Tập thơ, 1937).
6) Sức mồ hôi (Tập ca dao, 1954).
7) Thi ca Thanh Tịnh (Tập thơ, 1973).
8) Đi giữa mùa sen (Truyện thơ, 1980).

Gia đình
Trong cuộc đảo chánh năm 1945, Thanh Tịnh tham gia cướp chính quyền ở Huế. Cuối năm 1946, ông bỏ gia đình, vợ con, vào chiến khu Bình Trị Thiên gia nhập bộ đội CS.
Sau Hiệp định Genève 1954, từ chiến khu Bình Trị Thiên, ông ra thẳng ngoài Bắc tập kết với ý nghĩ sẽ có ngày trở về. Không ngờ, cuộc "tập kết" đó kéo dài 20 năm (1955-1975). Hai mươi năm ông vẫn sống độc thân, chờ ngày tái ngộ với gia đình. Tính ông đơn giản, đạm bạc, không lấy ai trong khi nhiều người cùng hoàn cảnh như ông đã "đi thêm bước nữa".

Sau 1975, từ Hà Nội ông trở về Huế tìm vợ con nhưng không gặp. Bà và các con đã bị cuộc chiến cuốn đi, không còn ở Huế nữa, phiêu bạt đến nơi nào không ai biết rõ.
Trong khi nhiều người gặp lại người thân thì Thanh Tịnh thất vọng, lại trở lại Hà Nội sống trong căn hộ nhỏ xíu do Tạp chí Văn nghệ Quân đội (CS) phân phối. Lại chiếc giường cá nhân, lại cơm niêu nước lọ, lại mòn mỏi đợi chờ...
Cho đến ngày 17 tháng 07 năm 1988, ông từ trần và vẫn không gặp được vợ con.
Mấy năm sau, người con trai biết tin cha mình, bèn đi tìm, nhưng đã quá muộn. Anh chỉ còn cách duy nhất mang xương cốt cha về an táng ở Huế - mảnh đất mà ông đã từng sinh ra và lớn lên ở đấy.

Trích hai đoạn thơ tiêu biểu của Thanh Tịnh

NHỚ HUẾ QUÊ TÔI
Sông núi vươn dài tiếp núi sông
Cò bay thẳng cánh nối đồng không
Có người bảo Huế xa, xa lắm!
Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng

Mười một năm trời mang Huế theo
Đèo cao, nắng tắt, bóng cheo leo
Giọng hò mái đẩy vờn mây núi
Man mác sông Hương lướt đỉnh đèo

Câu chuyện trong hồi ký của nhà thơ Nguyễn Vỹ tại Sài Gòn
Một buổi sáng mùa Hè, năm 1936. Thi sĩ Thanh Tịnh - lúc ấy là nhân viên sở du lịch Huế - và một người bạn của anh là con trai ông Lê Thanh Cảnh, có nhã ý lấy chiếc xe Citroen của sở đưa tôi đi thăm các lăng tẩm Huế. Tôi ở Hà Nội mới vào.
Trong lúc đi bách bộ trên con đường phía sau lăng Tự Đức, Thanh Tịnh đứng lại, bảo tôi:
- Chính trên con đường này, trước đây hai năm, tôi đưa hai du khách Tây phương - hai vợ chồng trẻ - đi xem phong cảnh. Sau khi đi xem lăng, chỗ chúng mình đang đứng đây, tôi phải dừng bước và đề nghị với cặp vợ chồng vị du khách quay trở lại. Vì ngẫu nhiên và may mắn, tôi trông thấy một con trăn lớn đang quấn mình vào một cành cây cổ thụ bên vệ đường ở phía đằng trước kia, cách chỗ này vài chục bước. Con trăn đang thòng đầu xuống, có lẽ chờ chúng tôi vô ý đến gần, nó sẽ tuột xuống quấn lấy chúng tôi. Nó đã thè ra hai cái lưỡi móc nhọn. Ông Tây bà đầm không trông thấy nó. Nếu tôi chỉ cho họ thấy, tôi sợ rằng bà đầm sẽ té xỉu tại chỗ vì khiếp sợ. Tôi biết tính các phụ nữ Tây phương hay nhạy cảm. Tôi phớt tỉnh, giả vờ nói chuyện về lịch sử vua Tự Đức cho họ nghe trong lúc quay trở về lăng.
Trưa hôm đó, về Huế, vợ chồng ông Tây có nhã ý mời tôi dùng rượu với họ. Bà đầm trẻ đẹp, độ chừng 24 tuổi, rất vui vẻ được đi xem các lăng tẩm cố đô mà bà cho rằng tôn nghiêm, tráng lệ. Thấy hai ông bà đang trầm trồ khen ngợi các thắng cảnh, tôi mới chậm rãi bảo:
- Chắc ông bà còn nhớ lúc chúng ta đang đi trên con đường sau lăng vua Tự Đức, đang xem phong cảnh tuyệt đẹp, bỗng nhiên tôi đề nghị với ông bà quay gót trở về. Ông bà có hiểu tại sao không?
Ông Tây bảo:
- Ồ, tôi cũng thắc mắc về điều đó, chúng tôi không dám hỏi ông.
Bà đầm hỏi:
- Tại sao thế, hở ông?
Tôi thấy lúc này có thể nói hết sự thật cho họ rõ:
- Vì lúc đó may mắn quá, thưa bà, tôi trông thấy trên một cành cây cổ thụ bên lề đường, chỉ cách chỗ bà đứng không đầy 20 mét, một con trăn to lớn dễ sợ, quấn trên cành cây và đang thò đầu xuống, sắp nuốt một trong ba chúng ta.
Bà đầm hoảng hốt hỏi lại:
- Ông nói sao, con trăn? Một con trăn lớn?
- Vâng.
- Chúa ơi!
Bà hét lên một tiếng như thế rồi té xỉu xuống đất, nằm chết giấc luôn. Chúng tôi vội vàng vực bà vào phòng khách sạn, và tôi gọi điện thoại mời gấp bác sĩ đến. Gần hai giờ sau, người phụ nữ trẻ đẹp Tây phương mới dần dần tỉnh lại.
Tôi không ngờ câu chuyện con trăn kể lại ba giờ sau khi tai nạn đã tránh được, bây giờ trên hiên khách sạn ở giữa thành phố nhộn nhịp, chỉ nghe tôi thuật lại mà bà còn bị xúc động đến nỗi từ ghế té xỉu xuống đất. Giả sử tôi không hiểu tâm lý phụ nữ Tây phương, và không bình tĩnh, chỉ ngay con trăn cho bà trông thấy lúc ở lăng Tự Đức, có lẽ bà ta quá khủng khiếp mà chết luôn cũng nên.

Đó là câu chuyện con trăn mà nhà thơ Thanh Tịnh kể cho tôi nghe bằng một giọng điềm tĩnh. Nó cũng cho thấy tâm tính của thi sĩ, con người rất trầm mặc, thơ rất điềm đạm, thật thích hợp với chính cái tên "Thanh Tịnh" của anh.
Tôi chỉ gặp Thanh Tịnh ở Huế, trong thời gian vài ba ngày đó thôi. Và tôi cũng không biết gì nhiều về anh nữa mặc dầu sau đó chúng tôi có thư tín trao đổi vài ba lần.
Hai mươi năm sau, khoảng năm 1958 hay 1959 gì đó, một hôm nữ sĩ Trinh Tiên ở Nha Trang, vợ nhà văn Bửu Đáo và là thân mẫu của nữ sĩ Công Huyền Tôn Nữ Thanh Nhung, vào Sài Gòn, ghé thăm tôi ở tòa soạn. Sẵn điện thoại, bà gọi cho bà tỉnh trưởng Long An. Xong, Trinh Tiên mỉm cười hỏi tôi:
- Anh có biết bà tỉnh trưởng Long An này là ai không?
- Tôi không quen.
- Vợ của anh Thanh Tịnh đấy.
- Ủa, thi sĩ Thanh Tịnh bây giờ làm tỉnh trưởng Long An sao?
- Không, Thanh Tịnh đã chết lâu rồi (1).
- Thế à!

(Chỗ này hơi sai vì đến năm 1988, tức 29 hay 30 năm sau, nhà thơ Thanh Tịnh mới mất. Ngoài ra, nhà thơ Nguyễn Vỹ cũng có ghi một chú thích ở dưới cuối trang trong tập hồi ký của ông như sau: (1) Chị ta mới tái giá mấy năm nay với cái ông mà bây giờ làm tỉnh trưởng Long An đó.- ĐD)

* * *

Sau đó ít lâu, không hiểu vì vụ gì, ông tỉnh trưởng Long An bị cách chức (thời ông Diệm). Người vợ cũ của thi sĩ Thanh Tịnh đến thăm tôi, kể câu chuyện của ông chồng tỉnh trưởng để nhờ tôi viết bài bênh vực trên báo Dân Ta, bày tỏ sự thật ông bị oan ức, hay bị xuyên tạc sao đó. Tôi yêu cầu bà cho xem đầy đủ hồ sơ và hứa sẽ can thiệp sau.

Năm 1963, một thiếu nữ đến tòa báo xin làm thư ký. Cô cho tôi biết:
- Cháu tên là M. L, con gái của thi sĩ Thanh Tịnh, bạn của bác. Cháu đang thất nghiệp.
Vì chỗ quen biết Thanh Tịnh trong tình bạn văn nghệ, tôi nhận cô M.L. con gái của anh vào giúp việc trong tòa soạn. Mấy anh ký giả cho tôi biết rằng M.L. có chồng là một giáo sư, đã bị tù về tội quỵt tiền của học trò sao đó... Các báo đã đăng rõ ràng tin ấy.
Báo Dân Ta lại bị đóng cửa lần thứ hai. Người vợ cũ của thi sĩ Thanh Tịnh, sau vụ không may của ông chồng tỉnh trưởng, nhờ có chút ít vốn liếng dành dụm được, mở một tiệm cơm Huế ở Sài Gòn, M.L. ở nhà giúp mẹ trông nom cửa tiệm.
Sau vụ tấn công Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân, nhà của tôi ở khu Nguyễn Tri Phương bị hư hết, sách báo bị cháy rụi, tôi phải thuê một gác trọ ở Sài Gòn để ở tạm. Chị chủ nhà trọ biết tôi, một hôm chị kể cho tôi nghe về người chồng trước của chị, làm giáo sư, hiện bị tù về tội quỵt tiền. Tôi sực nhớ một chuyện cũ, liền hỏi chị:
- Chị có biết cô M.L. không?
Chị chủ nhà trả lời:
- Dạ, biết cô ấy lắm chứ. Chính vì ông giáo sư chồng cũ của tôi mê cô M.L. nên tôi mới bỏ ảnh, rồi mới gặp chồng tôi bây giờ đây.
Tôi nằm võng, gác tay lên trán, nghĩ buồn cười cho câu chuyện lẩn quẩn của vợ con anh thi sĩ Thanh Tịnh. Đối với hai người đàn bà này, Thanh Tịnh cũng chỉ là một chiếc bóng thoáng qua.

TÔI ĐI HỌC

Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm bâng khuâng của buổi tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng. Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi lên giấy, vì hồi ấy tôi chưa biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi lại tưng bừng rộn rã.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tôi tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.
Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quí và không đi ra đồng nô đùa như thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải đen dài, tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn. Dọc đường thấy mấy cậu nhỏ trạc bằng tuổi tôi, áo quần tươm tất, nhí nhảnh gọi tên nhau, hay trao sách vở cho nhau xem mà tôi thèm. Hai quyển vở mới đang ở trên tay tôi đã bắt đầu thấy nặng. Tôi bặm tay ghì thật chặt nhưng một quyển vở cũng xệch ra và chênh đầu chúi xuống đất. Tôi xốc lên và nắm lại cẩn thận. Mấy cậu đi trước ôm sách vở nhiều lại kèm cả bút thước nữa. Nhưng mấy cậu không để lộ vẻ khó khăn gì hết.
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ cầm cũng được.
Tôi có ngay cái ý nghĩ vừa non nớt vừa ngây thơ: chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước. Ý nghĩ ấy thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt qua trên ngọn núi.
Trước sân trường Mỹ Lý dày đặc cả người. Người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt vui tươi và sáng sủa. Trước đó mấy hôm, lúc đi qua làng Hòa An bẫy chim quyên với thằng Minh, tôi có ghé lại trường một lần. Lần ấy trường đối với tôi là một nơi xa lạ. Tôi đi chung quanh các lớp để nhìn qua cửa kính thấy mấy bản đồ treo trên tường. Tôi không có cảm tưởng nào khác là nhà trường cao ráo sạch sẽ hơn các nhà trong làng.
Nhưng lần này lại khác. Trước mặt tôi trường Mỹ Lý trông vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa An. Sân nó rộng, mình nó cao hơn những buổi trưa hè đầy vắng lặng. Lòng tôi đâm ra lo sợ vẩn vơ. Cũng như tôi, mấy cậu học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim non đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những người học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ.
Sau một hồi trống thúc dội cả lòng tôi, mấy người học trò cũ đến sắp hàng dưới hiên rồi đi vào lớp. Cảm thấy mình trơ vơ là lúc này. Vì chung quanh là những cậu bé vụng về lúng túng như tôi cả. Các cậu không đi. Các cậu chỉ theo sức mạnh kéo dìu các cậu tới trước. Nói các cậu không đứng lại càng đúng hơn nữa. Vì hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại ruỗi mạnh như đá một quả banh tưởng tượng. Chính lúc này toàn thân các cậu cũng đang run run theo nhịp bước rộn ràng trong các lớp.
Ông đốc trường Mỹ Lý cho gọi mấy cậu học trò mới đến đứng trước lớp ba. Trường làng nhỏ nên không có phòng riêng của ông đốc. Trong lúc ông ta đọc tên từng người, tôi cảm thấy như quả tim tôi ngừng đập. Tôi quên cả mẹ tôi đứng sau tôi. Nghe gọi đến tên, tôi tự nhiên giật mình và lúng túng. Sau khi đọc xong mấy mươi tên đã viết sẵn trên mảnh giấy lớn, ông đốc nhìn chúng tôi nói:
- Thế là các em được vào lớp năm. Các em phải gắng học để thầy mẹ được vui lòng, và để thầy dạy các em được sung sướng. Các em đã nghe chưa?
Các em đều nghe, nhưng không em nào dám trả lời. Cũng may đã có một tiếng dạ ran của phụ huynh đáp lại.
Ông đốc nhìn chúng tôi với cặp mắt hiền từ và cảm động. Mấy cậu học trò trong lớp ba cũng đua nhau quay đầu nhìn ra. Và ngoài đường cũng có mấy người đứng dừng lại để nhìn vào. Trong những phút này chúng tôi được người ta ngắm nhìn nhiều hơn hết. Vì vậy đã lúng túng chúng tôi còn lúng túng hơn.
Ông đốc lấy cặp kính trắng xuống rồi nói:
- Thôi, các em lên đứng đây sắp hàng để vào lớp học.
Tôi cảm thấy sau lưng tôi có một bàn tay dịu dàng đẩy tôi tới trước. Nhưng người tôi lúc ấy thấy nặng nề một cách lạ lùng. Không giữ được chéo áo hay cánh tay của người thân, vài ba cậu đã từ từ bước lên đứng dưới hiên lớp. Các cậu lưng lẻo nhìn ra sân, nơi mà những người thân đang nhìn các cậu với cặp mắt lưu luyến. Một cậu đứng đầu ôm mặt khóc. Tôi bất giác quay lưng lại rồi giúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo.
Tôi nghe sau lưng tôi, trong đám học trò mới, vài tiếng thút thít đang ngập ngừng trong cổ.
Một bàn tay quen nhẹ vuốt mái tóc tôi. Ông đốc tươi cười nhẫn nại chờ chúng tôi:
- Các em đừng khóc. Trưa nay các em được về nhà cơ mà. Và ngày mai lại được nghỉ cả ngày nữa.
Sau khi thấy hai mươi tám cậu học trò sắp hàng đều đặn dưới hiên trường, ông đốc liền ra dấu cho chúng tôi đi vào lớp năm. Một thầy trẻ tuổi, gương mặt tươi cười, đang đón chúng tôi trước cửa lớp. Trong thời thơ ấu tôi chưa lần nào thấy xa mẹ tôi như lần này. Tôi cũng lấy làm lạ. Vì có những hôm đi chơi suốt cả ngày với chúng bạn ở đồng làng Lệ Xá, lòng tôi vẫn không cảm thấy xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết. Một mùi hương lạ xông lên trong lớp. Trông hình gì treo trên tường tôi cũng thấy lạ và hay hay. Tôi nhìn bàn ghế chỗ tôi ngồi rất cẩn thận rồi tự nhiên lạm nhận là vật riêng của mình. Tôi nhìn người bạn tí hon ngồi bên tôi chưa hề quen biết, nhưng lòng tôi vẫn không cảm thấy xa lạ chút nào. Sự quyến luyến ấy tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin có thật.
Một con chim con liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao. Tôi đưa mắt thèm thuồng rồi nhìn theo cánh chim. Một kỷ niệm cũ đi bẫy chim giữa cánh đồng lúa hay bên bờ sông Viêm sống lại đầy dẫy trong trí tôi.
Nhưng tiếng phấn của thầy tôi gạch mạnh trên bảng đen đã đưa tôi về cảnh thật.
Tôi vòng tay lên bàn chăm chỉ nhìn thầy viết và lẩm bẩm đánh vần đọc:
Bài viết tập: TÔI ĐI HỌC.

12 THÁNG ANH ĐI