Trọng Đạt
Sau trận tổng công kích Tết Mậu Thân Tổng thống Johnson quá mệt mọi vì cuộc chiến tranh Việt Nam và nhất là vì cuộc chiến tại đất nhà, war at home ngày một lan rộng vì sự thổi phồng của truyền hình báo chí. Ngày 31-3-68, ông tuyên bố không tái tranh cử và tạm thời cho ngưng oanh tạc một phần lớn lãnh thổ Bắc Việt từ vĩ tuyến thứ 20 trở lên, ông kêu gọi Hà Nội hãy tỏ thiện chí hoà đàm nếu không sẽ cho nếm mùi sức mạnh. Một tháng sau Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) nhận lời đàm phán.
Hội nghị được tổ chức tại khách sạn Majestic, thủ đô Ba Lê nước Pháp khai mạc ngày 10-5-1968 (có tài liệu nói ngày 13-5), ông W. Averell Harriman đại diện phía Mỹ, Xuân Thủy phía Hà Nội. Đây là một hội nghị được quốc tế chú ý nhất từ trước tới nay có hơn 3,000 phóng viên các nước tới theo dõi lấy tin. Phía Xuân Thủy đề nghị BV nói chuyện với Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam . Phía VNCH cực lực phản đối cho đó là thái độ hỗn xược, hai phía mất 9 tuần để thảo luận về cái bàn hội nghị cuối cùng họ thoả thuận cái bàn hình tròn. BV lợi dụng bàn hội nghị để tuyên truyền chống Mỹ, rêu rao tội ác chiến tranh của Mỹ gây ra cho nhân dân miền Bắc, họ một mực đòi Mỹ phải ngưng oanh tạc toàn diện miền Bắc .
Ngày 31-10-1968 Johnson nhượng bộ cho ngưng dội bom trên toàn miền Bắc. Đúng năm sau, kỷ niệm ngày khai mạc 1969 các ký giả quốc tế kỷ niệm Hoà đàm và đặt tên là “cuộc nói chuyện giữa những người điếc” vì hai bên lập trường đối chọi nhau hoàn toàn, suốt một năm dài không có kết quả nào đáng kể, BV vừa đánh vừa đàm. Mấy năm trôi qua, theo cựu Đại Tướng Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối VNCH) vào tháng 6, 7, 8 -1971 tất cả các đề nghị của Hoa Kỳ đều bị từ chối dù Hoa Kỳ cố gắng thay đối theo ý muốn của BV.
“Đến lần nói chuyện vào tháng 9 thì Hoa Kỳ mới mới hiểu ý định thật sự của cộng sản: Họ muốn Hoa Kỳ trao miền Nam cho họ trước khi Hoa Kỳ rút quân. Phải cần đến ba năm dài thương lượng Hoa Kỳ mới thấy được ý đồ của Cộng Sản!”
Cuối tháng 3-1972, BV đem đại binh tấn công qui mô trên toàn lãnh thổ VNCH, tổng cộng 10 sư đoàn chính qui có xe tăng, đại bác phòng không yểm trợ đánh ba tỉnh lớn Bình Long, Kontum, Quảng Trị… cho tới giữa tháng 9-1972 VNCH tái chiếm cổ thành Quảng Trị và cuộc chiến được gọi Mùa hè đỏ lửa chấm dứt. BV bi thiệt hại nặng khoảng từ 70 cho tới 100 ngàn cán binh, phía VNCH vào khoảng 30 ngàn người, không quân và Hải quân Mỹ yểm trợ tối đa, người Mỹ muốn VNCH phải thắng để lấy ưu thế tại bàn hội nghị. Người Mỹ đã mở lai các cuộc oanh kích miền Bắc để trả đũa BV, họ gọi là Operation Linebacker bombing, chiến dịch oanh tạc Linebacker bắt đầu từ 10-5 đến 23-10-1972.
Cuối năm 1972 Hoa Kỳ mở chiến dịch Linebacker II (Linebacker thứ hai) đây là chiến dịch oanh tạc của không quân nhằm vào BV trong giai đoạn chót của Mỹ trong chiến tranh VN từ 18-12 tới 29-12-1972, cũng được gọi vui là Christmas bombing, cuộc oanh tạc vào dịp Giáng sinh. Đây là cuộc oanh tạc lớn nhất của không quân Mỹ từ sau Thế chiến thứ hai, nó là sự tiếp tục của Chiến dịch Linebacker kể trên , điều khác biệt là Linebacker II oanh tạc bằng B-52 chứ không bằng máy bay chiến thuật như Linebacker.
Ngày 8-10-1972 Kissinger và Lê đức Thọ gặp nhau ở Ba Lê để thảo luận về những đề nghị mới của hai phía tìm kiếm hoà bình. Lê Đức Thọ đề nghị kế hoạch mới của BV: Ngưng bắn tại chỗ, Mỹ rút quân, trao đổi tù binh, BV, VNCH, Chính phủ lâm thời của Mặt trận giải phóng, giữ nguyên, BV không đòi Thiệu từ chức , Mỹ vẫn tiếp tục viện trợ cho VNCH, cả Hà Nội và Mỹ đều được tiếp tục viện trợ cho đồng mninh trên căn bản đồng đều nhau, BV sẽ không xâm nhập, Mỹ sẽ tái thiết BV . Thành lập Hội đồng quốc gia hoà giải dân tộc, thực hiện bầu cử tại miền Nam VN, sẽ có ba quyền lực: Chính phủ Sài Gòn, Mặt Trận giải phóng , Thành phần thứ ba gồm đại diện cả hai bên. Cả ba phải có sự nhất trí, mọi hành động của hội đồng mới phải có sự đồng ý của TT Thiệu.
Ngày 11-10-1972 toà đại sứ Pháp tại Hà Nội bị thiệt hại trong cuộc ném bom của Mỹ, Đại sứ Pháp Pierre Susini bị thương nặng Lê Đức Thọ phản đối với Kissinger, Hoa kỳ ngưng oanh tạc 23-10. Ngày 16-10 Kissinger trở lại Paris họp với Xuân Thuỷ trong khi Lê Đức Thọ đang về Hà Nội Hai bên lại họp ngày 17-10-1972 , họ bất đồng ý kiến hai điểm: Việc thay thế định kỳ vũ khí của miền nam VN, thả tù binh CS do VNCH giam giữ. BV muốn ký hiệp định trước tháng 11-1972, họ tin rằng Nixon sẽ nhượng bộ trước kỳ bầu cử Tổng thống sắp tới hơn là sau. Kissinger đồng ý những điều khoản mới, ông cho Nixon biết và được Nixon chấp thuận.
Sơ thảo Hiệp định sẽ được ký tại Hà Nội ngày 31-10-1972. Kissinger bay đến Sài Gòn ngày 18-10 để gặp TT Thiệu, VNCH không đồng ý với bản hiệp định mới và không hài lòng với Kissinger cho là đã phản bội, ông Thiệu đòi sửa 129 điều khoản trong đó đòi khu phi quân sự phải coi như biên giới quốc gia, không còn là ranh giới tạm thời, VNCH phải được coi như một quốc gia biệt lập. Sử gia Stanley Karnow chua chát nói:
“Mỹ chiến đấu bảo vệ nền độc lập của miền nam VN bây giờ lại phủ nhận tính hợp pháp của nó.”
Ngày 26-10 ông Thiệu tiến thêm một bước, công bố bản dự thảo đã được sửa khi ấy giới lãnh đạo miền Bắc cho rằng Kissinger đã đánh lừa họ, họ bèn công bố một số phần của thoả ước cho người ta cảm tưởng rằng thoả ước phù hợp mục đích của Hoa Kỳ và chính phủ VNCH. Kissinger muốn tạo niềm tin cho cả hai miền, ông quả quyết với BV rằng mình thật tình và với Sài Gòn rằng Mỹ đã gây hiểu lầm. Kissinger họp báo tại toà Bạch ốc tuyên bố ta có thể tin hoà bình đang ở trong tầm tay (We believe that peace is at hand).
Ngày 20-11 những điều khoản tu sửa của VNCH và 44 điều khoản thay đổi do Nixon yêu cầu đã được Kissinger trao cho phái đoàn CSVN. Những khoản yêu cầu gồm: Khu phi quân sự được coi như ranh giới quốc tế giữa hai nước, quân đội CSBV rút về Bắc, BV bảo đảm ngưng bắn lâu dài tại Đông Dương , một lực lượng quốc tế giữ gìn hoà bình sẽ được thành lập để quan sát ngưng bắn. Khi đọc xong, phía BV rút những nhượng bộ và mặc cả thêm khiến Kissinger bèn nói dậm chân tại chỗ rồi. Cuộc nói chuyện dự trù 10 ngày chấm dứt ngày 13-12 với thoả thuận của hai bên bắt đầu thương thảo, chuyên viên hai phía bàn về thảo ước ngày 14-12, trong khi BV đưa ra một bản tiếng Việt liên quan đến tù binh gồm vài thay đỏi lớn mà Hà Nội đã không đạt được trong những phiên họp chính . Trong một phiên họp của các chuyên gia ngày 16-12, BV gây trở ngại từ đấu chí cuối, cuộc đối thoại tan vỡ hôm ấy, phái đoàn Hà Nội từ chối không chịu tiếp tục đàm phán..
Nixon đang định kỳ hạn cho ngày ký Hiệp Định tháng 1-1973, lời tuyên bố của Kissinger khiến dân Mỹ tin tưởng, kỳ vọng ở thoả hiệp. TT Nixon lo phiên họp Quốc hội thứ 93 sẽ bắt đầu ngày 3-1-1973, ông sợ các nhà lập pháp Dân chủ sẽ ban hành luật chấm dứt chiến tranh trước khi ông thực hiện cam kết hoà bình trong danh dự của ông . Phía BV đánh hơi thấy phiên Quốc hội trong tháng 1-1973 có thể ban hành luật chấm dứt chiến tranh Đông Dương đến lúc ấy thì bất chiến tự nhiên thành. Đó là một lỗi lầm tai hại của họ đưa tới trận đòn te tua nhất trong toàn bộ cuộc chiến tranh VN.
Tổng thống Nixon quan tâm trước hết chi phí chiến dịch Linebacker, máy bay, nhân lực gửi tới Đông Nam Á đè nặng lên ngân sách Ngũ giác đài, tổng cộng 4 tỷ vào giữa mùa thu và Bộ trưởng quốc phòng Melvin Lair đã khẩn khoản đề nghị Nixon xin Quốc hội một ngân khoản để trang trả. Kissinger và Nixon được biết lập pháp sẽ có thể nắm cơ hội để đưa nước Mỹ ra khỏi cuộc chiến.
Kissinger từ Paris về ngày 14-12 ông bàn với Nixon sau đó gửi tối hậu thư cho Hà Nội đe doạ nếu BV không trở lại bàn hội nghị trong 72 giờ đồng hồ (3 ngày) sẽ đưa tới hậu quả nghiêm trọng. Cũng trong ngày Nixon ra lệnh phong toả cảng Hải Phòng bằng máy bay thả mìn và lệnh cho Bộ tư lệnh không quân nghiên cứu kế hoạch oanh tạc trong giới hạn 72 giờ. Thời hạn tối hậu thư đã qua, hai hôm sau ngày 16-12 đã qua, Mỹ ném bom Hà Nội. Các sử gia nghiên cứu về cuộc chiến Đông Nam Á đồng ý với quan điểm của Nixon cho rằng BV ngoan cố không chịu trở lại phòng họp. Hai bên đã muốn thương thảo nhưng BV lại từ chối trở lại, họ chờ phiên họp sắp tới của Quốc Hội. Mục đích của TTNixon không phải để thuyết phục BV mà để thuyết phục ông Thiệu, Nixon cho biết dù điều khoản của hiệp định ngưng bắn như thế nào, VNCH có thể tin vào lời hứa của ông sẵn sàng yểm trợ cho miền Nam khi BV vi phạm hiệp định.
Sau chiến dịch Linebacker, Hoa Kỳ có 207 B-52 dành cho chiến trường Đông Nam Á, gồm 54 chiếc (mẫu B-52-D) đóng tại phi trường U-Tapao Thai Land và 153 chiếc khác tại căn cứ Andersen, đảo Guam (gồm 55 chiếc B-52 D và 98 B-52G).
Chiến dịch coi như xử dụng một nửa số máy bay B-52 của Không đoàn oanh tạc cơ Mỹ, các vị chỉ huy của của Bộ chỉ huy chiến thuật không quân miễn cưỡng chấp nhận sự xử dụng những máy bay đắt giá và những phi hành đoàn huấn luyện tốn kém. Sự huy động một lực lượng máy bay B-52 lớn chưa từng thấy trong cuộc chiến và dự án tấn công đại qui mô quanh Hà Nội 20 km cho thấy thể hiện sự thay đổi lớn trong viêïc huy động lực lượng không quân.
“Không Lực Hoa Kỳ, qua chỉ thị thẳng từ Nixon , phải dùng B-52 đánh thẳng vào Hà Nội và Hải Phòng … “để lần này đối phương không còn giỡn mặt”
Nguyễn Kỳ Phong, Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang299.
Nhiều vị trong Bộ chỉ huy cũng đồng ý với chiến dịch bay vào màng lưới phòng không dầy đặc của BV hy vọng chứng tỏ các oanh tạc cơ có khả năng vượt qua hệ thống hoả tiễn tinh khôn địa không SAM (surface- to- air missiles ) do Nga chế tạo cũng như súng phòng không và máy may nghênh chiến MIG. Lý do chính phải dùng B-52 cho chiến dịch thay vì phi cơ chiến thuật vì tháng 12 thuộc mùa mưa tại miền Bắc VN, thời tiết xấu gây khó khăn cho các phi cơ chiến thuật vì các máy bay này cần quan sát bằng mắt, B-52 có khả năng tham chiến dù thời tiết xấu cũng như tốt nên đã được chọn giữ vai trò then chốt cho chiến dịch này. B-52 đã được trang bị hệ thống bom vận hành theo radar và các máy bay yểm trợ. Các pháo đài bay này có thể tấn công mục tiêu hoặc với những bom có tia laser hướng dẫn khi thời tiết tốt hoặc dùng hệ thống oanh tạc do radar hướng dẫn.
Chiến dịch này lấy tên Linebacker II được phác hoạ tại Bộ chỉ huy không quân tại Omaha, Nebraska, vì giới hạn thời gian chỉ có ba ngày và qua kinh nghiệm của chiến dịch trước (Linebacker) theo đó máy bay MIG nghênh chiến sẽ là mối đe dọa cho oanh tạc cơ Mỹ. Các vị chỉ huy lên kế hoạch cho máy bay tới Hà Nội làm ba đợt vào ban đêm, mỗi đợi cùng đi một đường , cùng cao độ, các oanh tạc cơ bay theo đội hình ba chiếc ( gọi là cells) để tăng hiệu quả .
Mỗi khi ném bom xong các máy bay sẽ quay về về phía tây mà Bộ tham mưu gọi là chuyển hướng sau mục tiêu (post-target turns, gọi tắt PTT), sự chuyển hướng này sẽ có hai hiệu quả không thuận lợi cho các oanh tạc cơ B-52 có thể hướng vào cơn gió mạnh ngược chiều, nó sẽ làm giảm tôc độ còn 185 km/giờ và sẽ kéo dài thêm thời gian ở tại mục tiêu có thể làm giảm hiệu quả đội hình cũng như trở thành bia cho radar của hoả tiễn SAM dưới đất.
Giai đoạn sơ khởi. Trong ba nhiệm vụ của chiến dịch như Bộ chỉ huy chiến dịch đã đề ra trong ba đêm liên tiếp bắt đầu từ 18-12, đêm đầu tiên 129 máy bay được tung vào chiến dịch, trong đó 87 chiếc từ Guam, 39 chiếc yểm trợ thuộc Bộ tư lệnh không lực 7 (The seven air force), Lực lượng đặc nhiệm 77 Hải quân, và Thủy quân lục chiến yểm trợ các oanh tạc cơ B-52 qua sự cung cấp các máy bay F-4 hộ tống, F-105 Wild Weasel để tiêu diệt hoả tiễn SAM của BV, máy bay EB-66 thuộc không quân và EA-6 thuộc hải quân, máy bay chaff plane, loại máy bay thả những miếng kim loại dát mỏng (chaff) để gây rối loạn radar đối phương, (chaff= tiny strips of metal foil that are dropped to confused radar), KC-135 tiếp tế nhiên liệu trên không, và các máy bay giải cứu phi hành đoàn .
Mục tiêu của đợt thứ nhất là phi trường Kép, Phúc Yên và Hoà Lạc, một nhà kho tại Yên Viên trong khi đợt thứ hai và thứ ba tấn công các mục tiêu quanh Hà Nội. Ba máy bay bị rớt do khoảng 220 hoả tiễn SAM của BV , trong số này hai chiếc B-52G từ Guam và một B-52-D từ U-Tapao Thái lan, ngoài ra hai B-52 D từ Guam bị thương nặng cố lết về U-Tapao sửa chữa, chỉ có một phi hành đoàn của ba máy bay bị hạ được giải cứu, cũng tối hôm ấy một F-111 của không quân bị bắn hạ trong khi ném bom đài phát thanh Hà Nội.
Khác với chiến dịch Linebacker đã được thực hiện từ tháng 5 tới tháng 10-1972 để trả đũa BV trong trận tấn công Mùa hè đỏ lửa 1972, Tổng thống Nixon không lên tiếng với nhân dân trên đài truyền hình để giải thích lý do leo thang. Nhưng trong khi ấy theo chỉ thị Nixon, Kissinger họp báo lên án Lê Đức Thọ đã kéo lùi lại một số khoản đã thoả thuận từ tháng 10-1972.
Đêm thứ hai (19-12) có 97 phi vụ do oanh tạc cơ B-52 tham dự , mục tiêu gồm sở Hoả xa Kinh No và kho hàng lân cận, nhà máy nhiệt điện Thái Nguyên cũng như nhà ga Yên Viên. Mặc dù có khoảng 185 hoả tiễn SAM do BV phóng lên và một số oanh tạc cơ bị hư hại vì trúng đạn nhưng không cái nào bị rớt. Bộ chỉ huy hy vọng đêm thứ ba, tức đêm cuối của chiến dịch cũng sẽ tốt đẹp như lần trước .
Mục tiêu thứ ba ngày 20-12 do 99 oanh tạc cơ thực hiện gồm ga xe lửa Yên Viên, nhà kho Yên Mô, nhà máy điện Thái Nguyên, địa điểm bốc rỡ hàng tại Bắc Giang, nhà ga Kinh Nơ, kho nhiên liệu săng dầu tại cũng như gần Hà Nội .
Vì thấy đợt hai bị thiệt hại nhẹ, đợt ba được tiến hành y như trước, đó là một lỗi lầm tai hại, phía Mỹ ra chiều tự mãn với phương thức trước. Trong đêm thứ ba BV cũng học được kinh nghiệm qua phương thức ấy, pháo đài bay B-52 khi tiến vào Hà Nội thấy MIG ở xa xa nhưng chúng không nghênh chiến mà chỉ để báo cáo cho dưới đất biết cao độ và tốc độ của máy bay Mỹ. Thế là hoả tiễn địa không và đại bác phòng không BV bắn xả láng lên các máy bay Mỹ, lộ trình tái diễn, ngựa quen đường cũ đã đưa tới thảm bại cho Mỹ , 6 B-52 bị bắn rơi trong đêm thứ ba (gồm hai B-52D và bốn B-52G), sự thiệt hại nặng của những B-52 trị giá 8 triệu khiến Quốc Hội và người dân phẫn nộ, họ yêu cầu chấm dứt oanh tạc. BV muốn ngừng đàm phán đợi tới kỳ họp Quốc hội tháng 1-1973 hy vọng Quốc hội ban hành luật chấm dứt chiến tranh VN là khoẻ re khỏi phải đàm phán.
Vì đợt ba tái diễn như hai lần trước khiến phòng không BV đã có kinh nghiệm và phóng 300 quả lên mục tiêu sáu B-52G và ba B-52D bị thiệt hại trong đợt tấn công thứ nhất và thứ ba, một B-52D quay về Thái Lan bị rớt ở Lào. Chỉ có hai trong số tám người của phi hành đoàn được cứu thoát. Chiến dịch gây phản ứng dữ dội, Bộ chỉ huy không quân bị áp lực nhiều phía: “Chấm dứt cuộc tắm máu này!”, nhiều sĩ quan cao cấp trong Bộ chỉ huy không quân cho rằng ta có thể mất nhiều oanh tạc cơ và thuyết ưu thế của không quân có thể vô nghĩa.
Vấn đề chính ở chỗ chiến thuật của Bộ chỉ huy không ghi nhận sự đe doạ của máy bay MIG trong ba đợt của chiến dịch . Chiến thuật không thay đổi vể đường bay, cao độ, đội hình, thời gian. Các vị chỉ huy giải thích sự không thay đổi ấy sẽ thuận lợi cho các phi hành đoàn B-52 không có kinh nghiệm bay vào một trận địa nguy hiểm. Nhà sử gia về không quân Earl Tilford lại có ý kiến khác:
“Sau nhiền năm oanh tạc những khu rừng không phòng ngự và thói quen phác họa kế hoạch chiến tranh nguyên tử đã nuôi dưỡng một định kiến trong tư tưởng các vị chỉ huy suýt đưa tới tai họa … chiến thuật nghèo nàn kết hợp với tính tự tin quá cao đã khiến cho mấy đợt bay tấn công đầu tiên của chiến dịch thành cơn ác mộng cho các phi hành đoàn B-52”
Operation Linerbacker II
Tổng thống Nixon cho lệnh tiếp tục sau ba ngày kể trên. Thay đổi thứ nhất ta thấy được do các vị chỉ huy tại Mỹ phân biệt sự khác biệt giữa các cơ phận radar của các mẫu B-52 (B-52G, B-52D), thiết bị trên mẫu G được xử dụng để ứng phó với các dàn phòng không tinh khôn, tối tân do Nga chế tạo, nó không phải để ứng phó với các hoả tiễn SAM-2 xưa cũ và hệ thống radar của BV. Các vị chỉ huy không quân tại Omaha nhấn mạnh chỉ có máy bay tại U-Tapao được trang bị các bộ phận tinh khôn mới được đưa vào trận địa tại BV. Do đó các đợt tấn công bị cắt giảm về tầm vóc (số lượng máy bay) mặc dù chiến thuật không thay đổi.
Tối thứ tư 21-12 của chiến dịch, 30 chiếc oanh tạc cơ từ U-Tapao đến thả bom kho kho hàng thuộc địa phận Hà Nội, Văn Điển, phi trương Quảng Tề. Hai oanh tạc cơ bị hoả tiễn SAM bắn rớt. Đêm hôm sau 22-12 mục tiêu được chuyển từ Hà Nội xuống Hải Phòng nhắm vào kho săng dầu nhiên liệu. Lần này cũng 30 máy bay tham dự trận đánh, không bị thiệt hại về B-52 nhưng một F-111 bị bắn rớt xuống nhà ga Kinh Nơ.
Ngày 22-12 một cánh của bệnh viện Bạch Mai ngoại ô Hà Nội bị một chuỗi bom lạc đánh trúng. Sự thiệt hại đã khiến BV và các nhà phản chiến Mỹ làm ầm lên, bệnh viện này cách đường bay của phi trường Bạch mai 100 m và một kho quân sự chỉ cách đó chưa tới 200 m, bệnh nhân đã được di tản nhưng không may 28 bác sĩ, y tá, dược sĩ bị thiệt mạng.
Hai ngày trước Giáng Sinh , các vị chỉ huy không quân đưa các căn cứ SAM và các phi trường vào danh sách mục tiêu, máy bay F-111 của Không quân được đưa tới trước khi oanh tạc cơ đến để giảm mối nguy của máy bay địch lên nghênh chiến. F-111 đã rất thành công trong chiến dịch tiêu diệt các dàn hoả tiễn địa không của BV.
Đêm thứ sáu 23-12 các oanh tạc cơ cũng tránh Hà Nội và tấn công các vị trí hoả tiễn địa không tại phía bắc thành phố và ga xe lửa Lạng Đăng. Không bị thiệt hại máy bay nào, đêm hôm sau cuộc hành trình may mắn (cũng tránh Hà Nội) tiếp tục. 30 oanh tạc cơ B-52 được 69 phi cơ chiến thuật yểm trợ tấn công nhà ga Thái Nguyên và Kép, không có máy bay nào của Mỹ bị mất trong chiến dịch này.
Mặc dù B-52 đảm nhiệm vai trò chính nhưng các phi cơ chiến thuật cũng rất tích cực trong việc yểm trợ. Trong khi các pháo đài bay và phi cơ F-111 thực hiện các phi vụ trong ban đêm, trung bình 69 máy bay chiến thuật của Không quân, Hải quân Thủy quân lục chiến tấn công ban ngày, trung bình gần 100 phi xuất một ngày. Sự thiệt hại của những phi cơ này rất nhẹ, chỉ hơn mười chiếc trong toàn bộ chiến dịch, lý do cũng không có gì khó hiểu vì phòng không BV chỉ đợi ban đêm mới chống trả dữ dội các mục tiệu xuất hiện
Sau trận oanh kích ngày 24 -12 , chiến dịch ngưng 36 giờ để mừng Giáng Sinh 1972, trong khi đó các nhà kế hoạch gia không quân làm việc, họ duyệt lại chiến thuật cho giai đoạn kế tiếp tức giai đoạn chót. Vì bị thiệt hại ở giai đoạn đầu nên họ dự trù một cuộc tấn công dữ dội vào các phi trường BV khi bắt đầu tấn công trở lại. Giai đoạn này cũng cần thiết, từ Giáng Sinh hầu hết các mục tiêu chiến thuật của BV đã bị phá tan nát hết. Sau đó các vị chỉ huy đã giao kế hoạch chiến thuật cho thuộc cấp tại Không Lực tám (Eighth Air Force) đóng tại Guam, tại đây người ta nhanh chóng duyệt lại chiến thuật đã có nhiều thiệt hại trước đây.
Nay thay vì tấn công nhiều đợt, các oanh tạc cơ có thể đánh và rút tại mục tiêu trong vòng 20 phút, các pháo đài bay này có thể đến từ nhiều hướng và nhiều cao độ khác nhau. Các oanh tạc cơ có thể tùy nghi muốn rút theo đường nào thì rút, kế họach rút về hướng tây (Post-target turns) trước đây bị loại bỏ. Các pháo đài bay đến từ bẩy địa điểm khác nhau sẽ tấn công mười mục tiêu trong phạm vi Hà Nội, Hải Phòng, trong đó có bốn địa điểm từ vịnh BV.
Ngày 26 -12, 120 oanh tạc cơ cất cánh ném bom ga xe lửa Thái Nguyên, Kinh Nơ, đường xe lửa Đức Nội, Hà Nội, Hải Phòng và khu nhà ga Vân Điển , 78 oanh tạc cơ xuất phát từ Anderson (Guam), đó là trận oanh tạc trong một lần lớn nhất trong lịch sử của Bộ chỉ huy chiến dịch, 42 chiếc khác từ Thái Lan . Các oanh tạc cơ được 113 máy bay chiến thuật yểm trợ như: thả những miếng là kim loại dát mỏng phá rối radar BV, hộ tống, phá huỷ các dàn hoả tiễn địa không …
Hệ thống phòng không của BV mặc dù còn hữu hiệu nhưng bị tràn ngập bởi số lượng máy bay lớn cũng như rất khó tìm ra máy bay trong khoảng thời gian ngắn và bị màn dầy đặc của các miếng kim loại dát mỏng do máy bay chiến thuật thả xuống. Trước đây BV đã bắn lên khoảng 950 hoả tiễn, kho nay đã gần cạn, họ chỉ bắn lên được 68 SAM trong chiến dịch này. Một B-52 bị hạ gần Hà Nội, một cái khác bị hư hại nặng quay đầu về U-Tapao bị hủy hoại, chỉ có hai người trong phi hành đoàn sống sót. Tối sau 27-12 , 60 oanh tạc cơ tiến hành chiến dịch, một số tấn công các vị trí hoả tiễn địa không, số còn lại đánh phá đường xe lửa Lạng Đăng, Đức Nội, Trùng Quang và Văn Điển. Một B-52 bị thương nặng khiến phi hành đoàn nhẩy dù xuống Lào được cứu thoát, một chiếc khác không may khi oanh tạc ga xe lửa Trùng Quang bị trúng đạn. Trong chiến dịch ban đêm hai F-4 và một máy bay trực thăng cấp cứu HH-53 bị bắn rơi.
Ngày thứ 10 (28-12) tổng cộng có 60 B-52 trong đó 15 chiếc loại G và 15 loại D từ Anderson, Guam, và 30 chiếc loại D từ U-Tapao, các máy bay tấn công năm mục tiêu làm sáu đợt, trong đó bốn đợt đánh vào các mục tiêu thuộc địa phận Hà Nội (gồm cơ sở cung cấp hoả tiễn địa không), trong khi đó đợt năm đánh ga xe lửa Lạng Đăng ở Tây Nam Lạng Sơn, một số lớn các tuyến đường vận tải từ Trung Cộng. Không có máy bay nào bị rớt trong chiến dịch này.
Ngày thứ 11 (29-12) là trận oanh tạc chót cùng, chỉ còn mộ ít mục tiêu chiến lược còn lại tại BV đáng lưu ý, tuy nhiên còn hai kho hoả tiễn SAM tại Phúc Yên và ga xe lửa Lạng Đăng có thể oanh tạc được. Tổng cộng 60 chiếc máy bay lại tiến về Bắc nhưng thay đổi việc chọn lựa loại, mẫu. U-Tapao lại cung cấp 30 mẫu D, lực lượng từ Anderson thay đổi, đưa 12 mẫu G và 18 mẫu D trên không phận BV, cuối cùng 30 B-52D làm nhiệm vụ oanh tạc trên vùng cán chảo BV và Nam VN, lần này cũng không có máy bay nào bị phòng không, máy bay MIG của BV hay hoả tiễn bắn hạ
Ngày 22-12 Hoa Kỳ kêu gọi Hà Nội trở lại bàn hội nghị đển bàn thảo những khoản đã đề ra từ tháng 10. Ngày 26-12, Hà Nội báo cho Hoa Thịnh Đốn họ muốn nhấn n mạnh cho Nixon biết oanh tạc không phải là lý do để quyết định , Bộ chính trị BV cho biết ngưng oanh tạc không phải là điều kiện tiên quyết cho cuộc đàm phán. Nixon trả lời ông muốn các cuộc đàm phán về kỹ thuật, thủ tục bắt đầu ngày 2-1-1973 và ông sẽ ngưng oanh tạc nếu BV đồng y. Họ đồng ý và Nixon ngưng chiến dịch dội bom trên vĩ tuyến 20 từ ngày 29-12. Kế đó ông báo cho Kissinger chấp nhận những điều khoản từ tháng 10 để ký Hiệp Định. Thượng nghị sĩ Henry Jackson (Dân chủ, Washington) khuyên Tổng thống Nixon nói chuyện trên truyền hình cho nhân dân biết chúng ta oanh tạc BV để buộc họ trở lại bàn hội nghị.
Nay vấn đề trở ngại là sự đồng ý của TT Thiệu, Nixon cố gắng trấn an ông bằng lá thư ngày 5-1-1973 rằng: “ Xin cam kết với ông chúng tôi sẽ tiếp tục yểm trợ trong thời gian sau khi ký kết và sẽ trả đũa hết mình nếu BV vi phạm thoả hiệp” (“You have my assurance of continued assistance in the post-settlement period and that we will respond with full force should the settlement be violated by North Vietnam” - Operation Linebacker II)
Tuy nhiên lúc này đang bị Quốc hội chống đối, địa vị Nixon không cho phép ông hứa như vậy, thí dụ nếu đưa yêu cầu này ra Quốc hội ông sẽ chẳng hy vọng gì được chấp thuận. Tuy nhiên ông Thiệu vẫn không chịu, ngày 14-1-1973, TT Nixon phải hăm dọa: “Tôi đã nhất quyết tiến hành ký Hiệp Định vào ngày 23-1-1973.. nếu cần tôi sẽ đơn phương ký với họ (I have therefore irrevocably decided to proceed to initial the agreement on January 23, 1973…I will do so, if necessary, alone). Ngoài ra ông còn hăm doạ cắt hết viện trợ, một ngày trước thời hạn, TT Thiệu đành phải chấp thuận thoả ước, không làm gì hơn được.
Ngày 9-1-1973 Kissinger và Lê Đức Thọ trở lại Paris, thoả thuận giữa Mỹ và BV về cơ bản chính là cái hai bên đã đạt được từ ba tháng trước (tức từ tháng 10-1972). Những yêu cầu do Mỹ thêm vào từ tháng 12-1972 đã bị loại bỏ, nói khác đi bất lợi cho Mỹ. John Negroponte, một trong những phụ tá của Kissinger đã gay gắt nói trong khi hai bên thương lượng như sau: “Chúng ta oanh tạc BV để họ phải chấp nhận sự nhượng bộ của chúng ta” (We bombed the North Vietnamese into accepting our concessions – Operation Linebacker II)
Khu phi quân sự do Hiệp định Genève ấn định từ 1954 không được coi là biên giới giữa hai nước. Việc yêu cầu quân đội BV rút khỏi miền Nam VN về Bắc không thấy ghi một tí nào trong Hiệp định, tuy nhiên Lê Đức Thọ có hứa miệng với Kissinger sẽ rút 30,000 quân CS về Bắc.
Yêu cầu ngưng bắn cho toàn cõi Đông dương không được ghi trong Hiệp Định, một lần nữa Kissinger lại hài lòng với lời “thoả thuận miệng” (verbal understanding) rằng ngưng bắn tại Lào sẽ được thực hiện cùng lúc hoặc sau VNCH một chút. Thỏa thuận về Cam bốt không được đặt ra vì tại nơi đây BV không có tí ảnh hưởng nào đối với Khmer đỏ.
Hiệp Định Paris được ký tại khách sạn Majestic tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.
Trong chiến dịch Linebacker II tổng cộng có 741 phi xuất B-52 để oanh tạc Hà Nội và 729 phi vụ đã thực hiện xong. Có 15,237 tấn bom đạn đã được ném xuống 18 mục tiêu về kỹ nghệ và 14 mục tiêu quân sự kể cả tám căn cứ hoả tiễn địa không (SAM), trong khi đó các máy bay chiến thuật cũng đã ném xuống 5,000 tấn bom đạn. Cùng thời gian này có 212 phi vụ B-52 được thêm vào tại Nam VN để yểm trợ cho các chiến dịch dưới đất, 10 B-52 đã bị bắn rớt ngoài Bắc và năm chiếc khác bị thương rớt ở Lào hoặc Thái lan, 33 quân nhân thuộc các phi hành đoàn B-52 đã bị thiệt mạng hoặc mất tích trong khi thi hành nhiệm vụ, 33 người khác bị bắt làm tù binh và 26 ngươi khác đã được cứu vớt. Bắc Việt cho biết họ đã bắn hạ 34 chiếc B-52, 4 chiếc F-111 trong suốt chiến dịch.
769 phi vụ phụ thêm do Không Lực và 505 phi vụ do Hải Quân và Thủy quân lục chiến để yểm trợ cho các pháo đài bay B-52 , có 12 máy bay bị thiệt hại trong chiến dịch gồm : Hai F-111, ba F-4, hai A-7, hai A-6, một EB-66, một trực thăng cấp cứu HH-53, một thám thính RA-5C, trong chiến dịch này mười phi công bị thiệt mạng, tám bị bắt, mười một được cứu thoát.
Toàn thể thiệt hại của chiến dịch là 27 chiếc gồm 15 B-52 và 12 máy bay chiến thuật: Không quân mất 15 B-52, hai F-4, hai F-111, một EB-66 và một trực thăng cứu nạn HH-53. Hải quân mất hai A-7, hai A-6, một RA-5, và một F-4. Trong số tất cả máy bay bị bắn rơi có mười bẩy chiếc bị bắn rớt vì hoả tiễn SA-2, ba chiếc bị máy bay MIG của BV bắn rơi ban ngày, ba chiếc do đại bác phòng không, bốn chiếc không rõ nguyên do. Tổng cộng có tám máy bay MIG bị bắn rớt trong đó hai chiếc do đại liên phòng không ở đuôi B-52 hạ.
Thiệt hại về vật chất hạ tầng cơ sở của BV rất nặng nề: Không quân ước lượng 500 đường xe lửa bị đình chỉ hoạt động, 372 toa xe lửa và ba triệu gallons săng dầu bị phá hủy, 80% điện năng của BV bị phá hủy. Nhập lượng tiếp liệu vào BV được tình báo Mỹ đánh giá là 160,000 tấn hàng tháng khi mới tiến hành chiến dịch. Đến tháng 1-1973, nhập lượng này đã tụt xuống còn 30,000 tấn, vào khoảng năm lần. Mặc dầu Hà Nội la làng “Mỹ đã trải thảm bom lên nhà thương, trường học, các khu dân cư, phạm vào những tội ác man rợ đối với nhân dân ta”, nhưng chính họ đã cho biết chỉ có 1,624 ngườøi thường dân bị thiệt mạng.
Với khoảng 20,000 tấn bom được thả xuống Hà Nội, Hải Phòng, sự thiệt hại dân sự tương đối nhẹ, chỉ có 1,318 người tại Hà Nội và 306 người tại Hải Phòng thiệt mạng, nếu so sánh với chín ngày oanh tạc thành phố Hamburg, nước Đức năm 1944 , chỉ có vào khoảng chưa tới 10,000 tấn bom được ném xuống mà có tới 30,000 người bị giết.
Nhiều giới chức trong Không quân (theo Linebacker II bombing Raid) cho rằng nếu năm 1965 mà cũng đánh cho BV te tua như Giáng Sinh năm 1972 thì đã thắng rồi, họ sai lầm ở chỗ năm 1972 chiến tranh đến thời kỳ kết thúc và trận oanh tạc này chỉ là cú đấm cuối cùng. Ngoài ra bang giao cũa Mỹ với Nga, Trung Cộng đã thay đổi nhiều trong những năm có hoà đàm với BV, oanh tạc mạnh năm 1965 có thể lôi kéo CS quốc tế vào cuộc chiến và cũng có thể leo thang đi tới chiến tranh nguyên tử, nay kỳ hạn hoà bình đã thay đổi và Hoa Kỳ không còn muốn chiến thắng nữa, họ chuyễn sang rút bỏ.
Như vậy trận mưa bom Giáng sinh long trời lở đất năm 1972 có mục đích chính là để đưa BV trở lại bàn hội nghị. Sau ngày 30-4-1975 nhiều người ở miền Bắc vào Nam cho biết nếu Mỹ ném bom thêm một tuần nữa thì BV sẽ phải đầu hàng vì chịu không nổi. Gần đây có nguồn tin một cựu nhân viên FBI tên Ted Gunderson tiết lộ rằng một sĩ quan lãnh sự Mỹ lãnh sự tại VN đã nghe vào đầu xuân năm 1973 từ phòng truyền tin tại Sài Gòn lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện của Bắc Việt trong trận oanh tạc của Mỹ đầu xuân 1973 (tức trận oanh tạc Giáng sinh 1972), thế nhưng CIA đã thay thế toàn bộ nhân viên của phòng truyền tin và ém nhẹm đi tin này để cho sự điều đình giữa Tổng thống Nixon và Mao được xúc tiến và dâng miền Nam cho CS qua Hoà đàm Paris.
Tin đồn do những người ngoài Bắc đem vào Nam và tin của Ted Gunderson hoàn toàn sai lạc vô căn cứ, trước hết TT Nixon cho oanh tạc BV là để đưa họ trở lại bàn hội nghị như đã nói ở trên, họ chỉ muốn ký hiệp định rồi rút quân về nước sống chết mặc bay (The terms of peace had also changed as the United States went from wanting victory to settling for an easy exit – Linebacker II bombing raid).
Ông Nguyễn kỳ Phong đã nhận xét.
“Nhưng ý định của Hoa Kỳ trong cuộc dội bom phủ đầu năm 1972 không còn ý nghĩa quân sự nữa mà cuộc dội bom chỉ là một thái độ chính trị: Hoa Kỳ chỉ muốn CSVN trở lại hội nghị, kết thúc cuộc chiến trên giấy tờ, để Hoa Kỳ có thể rút khỏi Việt Nam – dù hiệp ước đó có bất lợi cho Hoa Kỳ và VNCH đến đâu. Và Hoa Kỳ đã đạt được ý định sau 11 ngày dội bom”
Vũng Lầy Của Bạch Ốc , trang 300.
Ngoài ra đối với BV, Mỹ không có tư cách để buộc họ phải đầu hàng như đã buộc Nhật đầu hàng năm 1945. Đối với VN, Mỹ tham chiến chỉ là để trợ giúp VNCH tự vệ chống CS, giữ toàn vẹn lãnh thổ miền Nam chứ không phải để chiếm miền Bắc. Chúng ta cũng cần lưu ý mặc dù bị các pháo đài bay B-52 cho ăn đòn nhừ tử thừa sống thiếu chết, các hạ tầng cơ sở BV bị đánh phá tan tành xú oách gần như sập tiệm thế mà họ vẫn đòi được Mỹ phải nhượng bộ tại bàn hội nghị như đã nói ở trên .Hiệp định ký kết vẫn chỉ là những thoả thuận cũ từ tháng 10-1972. BV lỳ lợm như thế thì thử hỏi đến bao giờ họ mới chịu hàng, cho dù cuộc oanh tạc có tiêu diệt hàng trăm nghìn người thường dân vô tội hoặc hơn thế họ cũng chẳng quan tâm, trong thời gian chiến tranh Lê Duẫn đã từng nói sắn sàng nướng thêm một hai triệu người nữa để tiếp tục chiến đấu.
Năm 1989 tác giả bài viết này có dịp nói chuyện với một trung tá CSBV đã giải ngũ về cuộc oanh tạc Giáng sinh 1972, ông ta nói: Bây giờ hết coi là bí mật thì tôi mới dám nói, ngay hôm máy bay Mỹ ném bom dữ dội, các đường dây diện thoại bị đứt hết, trung ương mất liên lạc với địa phương, sau mười ngày oanh tạc, hai bên cùng đuối và rồi Mỹ phải ngưng cuộc tấn công. Trong phim VietNam a Television History (Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình) do các ký giả, sử gia Mỹ, Anh, Pháp thực hiện đã được chiếu ở VN giữa thập niên 80, về đoạn nói về Mỹ ngưng ném bom như sau: Cuối tháng 12-1972 Hoa Kỳ ngưng ném bom BV, không phải vì bị thế giới lên án, cũng không phải vì người dân Mỹ biểu tình chống đối mà vì sự thiệt hại nặng của không quân trong chiến dịch này.
Cả ý kiến của cựu trung tá CS và nhận định của cuốn phim trên đều không đúng sự thật, sự thiệt hại 15 máy bay B-52 và 12 máy bay chiến thuật không có gì là lớn lao so với thiệt hại về hạ tầng cơ sở của BV. Như đã nói ở trên phòng không của BV cuối tháng 12 đã “hết xú oách” rồi, họ đã kiệt quệ về hoả tiễn địa không nên phải xin chịu ngồi vào bàn hội nghị, họ thấy “Chiến thuật Lì” không còn hiệu lực nên đành phải trở lại Hoà đàm. Vả lại Mỹ ngưng oanh tạc cũng vì các mục tiêu để đánh phá cũng không còn, hạ tầng cơ sở BV đã bị oanh tạc tanh bành té bẹ, không còn gì để triệt hạ nữa.(The final two days of Linebacker II encountered only one problem: a lack of suitable targets – Linebacker II bombing raid).
Có giả thuyết cho rằng nếu Nixon còn làm Tổng thống thì miền Nam chưa chắc đã bị mất về tay CS, giả thuyết này dựa trên tinh thần yểm trợ nhiệt tình của TT Nixon cho VNCH trước ngày ký hiệp định Paris. Sự thực cho dù Nixon còn làm Tổng thống thì VNCH cũng chỉ có một chút hy vọng mong manh, chưa chắc ông đã làm gì hơn được vì như đã nói ở trên khi TT Nixon hứa với ông Thiệu sẽ thẳng tay trả đũa BV nếu họ vi phạm Hiệp định, ông chỉ hứa miệng qua một bức thư riêng mà không dám hứa công khai vì sợ Quốc Hội chống đối, họ sẽ không cho phép ông hứa như vậy, người ta đã quá chán cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngay cả thời gian chưa ký Hiệp định mà tình hình còn bi đát như thế huống hồ hai năm sau. Vả lại chính Nixon cũng không còn tinh thần để tiếp tục cuộc chiến với một kẻ thù lì lợm.
Theo ông Nguyễn Kỳ Phong ngày 1- 5-1972 Quảng trị thất thủ vào tay BV, hôm sau Lê Đức Thọ và Kissinger gặp nhau ở Paris tiếp tục đàm phán , khi ấy ba sư đoàn BV đang tiến về Huế, tại Kontum, Bình Long quân đội VNCH bị bao vây nguy khốn, Lê Đức Thọ tỏ ra đắc thắng vì họ đang có ưu thế ở chiến trường
“Nhưng hơn một tháng sau, tình thế mặt trận chuyển hướng theo sự cuồng nộ của Nixon “Nam Việt Nam có thể thua, nhưng Hoa Kỳ không thể thua, nghĩa là, dù chuyện gì xảy ra ở Việt Nam, chúng ta sẽ hủy diệt bắc Việt Nam”. Nixon tuyên bố với những phụ tá thân cận”
Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 504.
Như thế nếu đại quân của CSBV chiếm được miền Nam bằng vũ lực trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972 thì Nixon sẽ oanh tạc san bằng hủy diệt BV, thể hiện thái độ “không được ăn thì đạp đổ”, với tình hình năm 1972 ông có thể làm như vậy, nhưng gió đã soay chiều, những năm sau 1973, 1974, 1975 ông không thể làm gì hơn vì Quốc hội đã thực sự trói tay hành pháp.
Nửa năm sau ngày ký Hiệp định Paris, tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Đông Dương , ngày 1-7 -1973, TT Nixon miễn cưỡng phải ký thành đạo luật áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm mọi hoạt động quân sự Mỹ trên toàn cõi Đông Dương. Tháng 10-1973 Quốc Hội ra đạo luật hạn chế quyền Tổng thống về chiến tranh (War Power Act), Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Như thế đối với tình hình Đông Dương lúc ấy hành pháp Hoa Kỳ đã bị trói tay gần như hoàn toàn, không cựa quậy vào đâu được.
Trên thực tế Nixon cũng quá chán nản để có thể tiếp tục trừng phạt BV bằng oanh tạc trả đũa. Từ đầu thập niên 70, phong trào phản chiến đã tạo sức mạnh của họ bằng lá phiếu và đã thành công, Quốc Hội nằm trong tay phản chiến, trong tay đảng Dân chủ sẵn sàng thực hiện nguyện vọng của họ để cắt quân vịên bỏ Đông Dương. Vả lại chúng ta cũng không nên quên một yếu tố quan trọng là thuyết Domino đã lỗi thời khi bước sang thập niên 70, vào những năm 1965, 66, 67 còn có thể coi là có giá trị. Vị trí Đông Dương nay không còn quan trọng đối với Mỹ.
Hoa Kỳ ký Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, rút quân và đem về nước 587 tù binh, ông Nguyễn Đức Phương đã nhận xét:
“Người Mỹ ký hiệp định Ba Lê với mục đích rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời trao đổi tù binh Mỹ. Quyền lợi chính của miền Nam không được chú trọng đến. Một chuyên viên về du kích chiến, Sir R. Thompson, khi thảo luận về việc ký kết hiệp định Ba Lê đã viết “ Sự sống còn của miền Nam VN bị đe doạ chỉ vì để tránh cho nước Mỹ khỏi phải cấu xé nhau tan nát. Một điều trái ngược ở đây là miền Bắc VN bị bắt buộc phải ngồi vào bàn hội nghị tại Ba Lê không phải để tự cứu họ mà là để cứu nước Mỹ”. Vì lý do vừa kể nên mặc dù có quá nhiều khuyết điểm, hiệp định Ba Lê vẫn phải được phê chuẩn với bất cứ giá nào”
Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 811.
Người mình thường kết án Kissinger hoặc chỉ trích TT Nixon ký Hiệp Định Paris bán đứng VNCH cho CS, họ lý luận Hiệp định là một bản án tử hình. Sự thực không phải như vậy, việc Nixon phải nỗ lực để ký thoả ước đem quân về nước là chuyện ắt phải làm ở cương vị ông, không thể làm gì hơn được vì như chúng ta đã biết, phong trào phản chiến và Quốc Hội đã luôn gây sức ép dữ dội đối với hành pháp buộc phải rút quân về nước bằng mọi giá. Không phải hành pháp Hoa Kỳ, tổng thống Nixon hay Kissinger bỏ VN mà Quốc Hội đã cắt giảm quân viện đến xương tuỷ khiến VNCH không còn đủ hoả lực để tự vệ, theo GS Nguyễn Tiến Hưng
“-Sau khi Mỹ rút, viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng Hoà:
-Tài khoá 1973 : hai tỷ mốt (2,1 tỷ)
-Tài khoá 1974 : một tỷ tư (1,4 tỷ)
-Tài khoá 1975 : bẩy trăm triệu (0,7 tỷ).”
(Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 223)
Tháng 2-1974 đạn tồn kho chỉ còn đủ xài cho một tháng, tháng 4 năm 1975 đạn chỉ còn đủ đánh hai tuần (Cao Văn Viên, Những Ngày Cuối VNCH trang 92)
Nay chính người Mỹ cũng phải công nhận Quốc Hội Hoa Kỳ đã bức tử miền nam VN, cắt viện trợ đạn dược , tiếp liệu trong khi BV vẫn được CS quốc tế viện trợ dồi dào
(The United Stated did not lose the war in Viet Nam, the South Viet Namese did after the U.S Congress cut off funding. The South Vietnamese ran out of fuel, ammunition and other supplies because of a lack of support from Congress while the North Vietnamese were very well supplied by China and the Soviet union -History.com, Statistics about the Vietnam war).
Sự thực không phải Hiệp định Paris hay Nion, Kissinger đã bức tử miền Nam VN. Mặc dù BV không rút hết quân về Bắc nhưng nếu Quốc hội tiếp tục viện trợ quân sự cho VNCH trong các tài khoá 1973-74 và 1974-75 bằng hoặc hơn mức viện tài khoá 1972-73 (tức 2 tỷ 100 triệu) thì VNCH vẫn đủ sức tự vệ chống lại BV mặc dù các nước đồng minh đã rút đi. Nay vấn đề đã quá rõ ràng, lập pháp đã bức tử VNCH chứ không phải hành pháp.
Trong trận oanh tạc khủng khiếp long trời lở đất mùa Giáng Sinh năm 1972, Nixon đã một công đôi chuyện, vừa bắt BV trở lại bàn hội nghị và vừa đánh phá tan tành xú oách các hạ tầng cơ sở miền Bắc như đã nói ở trên: phi trường, nhà ga, kho hàng , tiếp liệu bị hủy hoại. Nixon đã đánh cho BV sập tiệm để sau khi Mỹ rút đi họ sẽ không có khả năng xâm lược miền Nam, như thế ông ta cũng đã làm hết sức mình để cứu vãn sự sụp đổ củaVNCH.
Theo ông Nguyễn Kỳ Phong tháng 6-1973 dưới áp lực của Quốc Hội Nixon phải chấp thuận luật không cho phép chính phủ xử dụng bất cứ ngân khoản nào cho các hoạt động quân sự tại Đông Dương. Tháng 10-1973 Quốc hội biểu quyết chấp thuận luật mới giới hạn quyền Tổng thống trong chiến tranh (The War Power Act). Nixon lập tức dùng quyền tổng thống phủ quyết, nhưng một tháng sau Quốc hội biểu quyết lại với đa số phiếu và hiệu lực hoá bộ luật theo Hiến pháp.
“Không còn ngân khoản để yểm trợ trực tiếp hay gián tiếp cho Việt Nam, không còn quyền hạn để tuyên chiến lâu dài trong trường hợp phải đối phó với sự gây hấn của CSBV, giá trị của bản hiệp định đình chiến và giá trị của những hứa hẹn cá nhân của Nixon đối với VNCH bây giờ hoàn toàn nằm trong tay người khác : Trong tay của CSBV và Quốc hội Hoa Kỳ”
Vũng Lầy Của Bạch Ốc, trang 518
Tổng thống Nixon đã hết lòng với sự tồn tại của Đông Dương chứ không phải ông ta phản bội và bức tử đồng minh như nhiều người nghĩ.
Trong trận oanh tạc Giáng Sinh 1972 kể trên BV đã đủ sức chống trả và gây thiệt hại đáng kể cho không lực của một siêu cường thì ta mới thấy CS quốc tế đã viện trợ cho BV dồi dào như thế nào, có người cho rằng Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hôi chủ nghĩa anh em đã viện trợ quân sự cho BV để đánh nhau với Mỹ chứ không phải để đánh nhau với VNCH.
Theo bản tin BBCvietmamese.com ngày 10-5-2006: Trong buổi hội thảo của Viện Lịch Sử Quân Sự CSVN tổ chức tại Sài Gòn ngày 14 và 15-4-2006, hai “đồng chí” Lê Quang Lạng và Trần Tiến Hoạt đã công bố nguồn viện trợ quân sự của các nước XHCN anh em cho CSVN trong cuộc chiến tranh 1964-1975. Họ cho biết về Tên Lửa Liên xô đã viện trợ 10,169 quả, về máy bay chiến đấu Liên Xô viện trợ 316 chiếc, Trung Quốc anh em 142 chiếc. Trong giai đoạn 1969-72, BV đã nhận được 684,666 tấn hàng viện trợ vũ khí và trang bị kỹ thuật, giai đoạn 1973-1975 BV nhận được 649,246 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật như thế CS quốc tế vẫn viện trợ cho BV dồi dào từ đầu tới cuối cuộc chiến.
Mặc dù bị Nixon cho ném bom đánh phá tan nát hạ tầng cơ sở tại miền bắc, nhưng CS quốc tế đã yểm trợ tái thiết cho BV nhanh chóng. Sau khi ký Hiệp Định Paris, Hà Nội cho khởi công xây tuyến đường xa lộ Đông Trường Sơn hay Hành làng 613 song song với đường mòn Hồ chí Minh nhưng nằm trong lãnh thổ VNCH, BV đã xử dụng hằng nghìn xe máy ủi, hàng vạn bộ đội, dân công, thanh niên xung phong…ngày đêm, phá núi san đèo , xây cống, làm đường, dựng cầu…. Tới 1975 thì hoàn tất công trình, tuyến đường rộng 8 m, dài 1200 km, đường dẫn dầu từ Quảng Trị tới Lộc Ninh, chiều dài toàn bộ 5 hệ thống trục dài 5,500 km, 21 trục ngang 1,020 km, hệ thống dẫn dầu dài 5,000km. Nhờ hệ thống xa lộ Đông Trường Sơn mà BV đã vận chuyển vào Nam một khối lượng rất lớn súng đạn.
Khi thấy Mỹ quẳng miếng xương Đông Dương đi sau khi ký Hiệp định Paris vào đầu năm 1973, CS quốc tế cũng như Hà Nội vội nhanh tay ra chụp lấy.
Người Mỹ thực sự nhập cuộc và leo thang chiến tranh VN từ 1965 cho tới 1972, có thể chia làm hai giai đoạn 1965-1968 thời Johnson – McNamara và 1969-1972 thời Nixon – Kissinger.
Chính phủ Johnson được nhiều thuận lợi, mặc dù có biểu tình phản chiến nhưng số người ủng hộ chính phủ ở tỷ lệ tương đối cao 60%, 50% vào những năm 1965, 66. Qua năm 1967 số người ủng hộ chính phủ giảm còn 45%, 46%...trong khi số phản chiến tăng lên 50, 51%... Năm 1968 sau trận Tổng công kích Tết Mậu Thân tỷ lệ người ủng hộ giảm dần xuống còn 38%, tỷ lệ phản chiến vượt lên trên 50%. TT Johnson được Quốc hội ủng hộ cho tăng quân đều đều hàng năm từ 184,300 người năm 1965 lên 385,000 năm 1966, lên 485,600 năm 1967 và 536,100 năm 1968.
Mặc dù được nhiều may mắn Thiên thời, địa lợi, nhân hoà nhưng Johnson đã không thắng được CS, chẳng làm lên cơm cháo gì trong suốt bốn năm 1965-1968, ông đã khiến cho số lính Mỹ tử thương ngày một nhiều : 1,863 người năm 1965; 6,143 người năm 1966; 11,153 người năm 1967 và 16,592 ngưới năm 1968. Sai lầm lớn lao nhất của TT Johnson là đã giao toàn bộ kế hoạch quân sự cho McNamara, một người dân sự không có tí kinh nghiệm nào về quân sự, bị các tướng lãnh, giới chức quân sự coi thường. McNamara bất tài, thiếu tư cách, nắm toàn quyền chiến thuật, chiến lược đã là nguyên nhân chính cho sự sụp đổ Đông Dương sau này. Chính sách đánh cầm chừng “vừa đánh vừa run” của cặp Johnson – McNamara đã đẩy phong trào phản chiến lên cao thượng đỉnh đưa cuộc chiến Đông Dương dần dần tới chỗ sụp đổ tan tành.
TT Nixon thừa hưởng một gia tài đổ nát của Johnson – McNamara, chính phủ trước đã để lại cho ông một căn nhà dột nát, ông phải chống chọi, che đỡ ba bề bốn bên , mặc dù được coi là vị Tổng thống đã có một sự nghiệp chính trị ngoại hạng nhưng ông cũng không tài nào cứu vãn nổi tình thế. Khi Nixon lên nhậm chức thì phong trào phản chiến do cặp Johnson – McNamara để lại đã lên quá cao, từng bước một phong trào từ từ nắm vững quốc hội trong tay bằng lá phiếu, và rồi gió đã đổi chiều….
Nixon từ chức ngày 8-8-1974 vì vụ Watergate, ông đã đem theo tất cả những lời hứa hẹn với người bạn đồng minh xuống dưới tuyền đài.
Viết trong mùa Giáng Sinh năm 2009
Trọng Đạt
Tài Liệu Tham Khảo
Wikipedia: Operation Linebacker II
The Hauenstein Center for Presidential: Nixon and the Christmas bombing.
AirSpacemag.com, Military Aviation:The Christmas bombing .
Commondreams.org: The Christmas bombings, by James Carrell.
Namvets.com:Vietnamese remember Christmas from hell.
U.S Centenial of flight commission: Linebacker II bombing raid.
History.com, History made every day: Nixon announces start of Christmas bombing of North Vietnam.
History.com: Statistic about the Vietnam war.
Digital History: Nixon and Viet Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.
Nguyễn Kỳ Phong:Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Kỳ Phong : Tử điển chiến tranh Việt Nam, TựÏ Lực 2009
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh, 2005.
Viện trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến tranh: BBCvietnamese.com, 10-5-2006
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
Google: Research at the National Archives, Statistical information about casualties of the Vietnam war.
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman - General Editor, A Bison-book 1985.
Stanley Karnow: Vietnam, A History, A Penguin Books 1991.
Marilyn B. Yuong, John J. Fitzgerald, A. Tom Grunfeld: The Vietnam War, A history in documents, Oxford University Press 2002.
Thomas W. Lippman: McNamara, Architect of Vietnam War, Dies at 93, Washington Post, July 6-2009.
Lam Quang Thi: Autopsy The Death Of South Viet Nam, 1986, Sphinx Publishing
Cộng Hoà Thua Trận Vì Bị Mỹ Cằt Viện Trơ..Motgoctroi.com
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, HàNội 2005.
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005.
TRỌNG ĐẠT
-
Bùi Bảo Trúc Bạn ta, Hôm đi mua sách cũ với người bạn mấy tuần trước, tôi mua được bức poster The Old Guitarist của Picasso đóng khung rất đ...
-
Tích ngã vị sinh thì. Minh minh vô sở tri. Thiên công hốt sinh ngã. Sinh ngã phục hà vi. Vô y sử ngã hàn. Vô phàn sử ngã ky. Hoàn nhĩ công s...
-
Bill Hayton (Đinh Từ Thức dịch) Lời người dịch: Bill Hayton là ký giả thường trú của BBC tại Việt Nam vào năm 2006-7. Trong khoảng thời gia...