29 thg 12, 2010

Hoa Kỳ Có Thật Sự Bị Sa Lầy Trên Chiến Trường VN Không ?

Muong Giang

Trong bối cảnh của cuộc chiến trạnh lạnh từ 1947-1973, người Mỹ gần như đã thất bại trong khi đối đầu để ngăn chận ảnh hưởng của Nga Sô Viết, cho dù đã sử dụng rất nhiều chiến lược hoàn cầu, từ chủ thuyết Containment sang Domino, hết phản du kích tới trực diện tham chiến . Rốt cục mọi hy sinh, nổ lực, bạc tiền và mạng lính của Mỹ, Ðồng Minh và VNCH thành vô ích khi Hoa Kỳ tới Paris vào tháng 1-1973, cúi mặt để nhận tờ giấy lộn của cái được gọi là ‘ Hiệp định hòa bình ngưng bắn VN ‘.Tóm lại, trong cuộc chiến VN, chỉ có bọn đại tư bản lái súng Mỹ và các con buôn trung gian liên hệ khắp thế giới, làm giàu mà thôi.
Sự bội tín của người Mỹ tại VN, còn là dây chuyền giúp Nga chiếm ảnh hưởng tại Iraq, Libya, Angola, đưa các đảng xã hội lần lượt nắm quyền tại Tây Âu. Ở Trung Mỹ, dưới sự tiếp tay của Nga và Cu Ba, đảng CS Sandinista chiếm Nicaragua, cùng đe dọa các nước quanh vùng, nhất là El Salvador. Ðó là chưa nói tới dịch khủng bố quốc tế, lợi dụng sự thất thế uy tín của người Mỹ, gieo rắc máu lửa chết chóc khắp nơi cho nhân loại.

Vì vậy đã không có đại chiến thứ ba, mà chỉ có cuộc chiến khu vực. Cũng vì Bắc Cao và Bắc Việt lúc đó là chư hầu của Ðệ tam Cộng Sản quốc tế, đã xung phong nhận lãnh trách nhiệm làm tên lính tiền phong của đế quốc đỏ trong khu vực. Nên Liên Xô-Trung Cộng, đã chọn bán đảo Triều Tiên và Ðông Dương, làm hai CHIẾN TRƯỜNG thí điểm, để hai khối thanh toán, đồng thời cũng là nơi mà các cường quốc, dùng để tiêu thụ số bom đạn thặng dư sau thế chiến và thử nghiệm những loại vũ khí mới vừa chế tạo.

Việt Nam Hoá Chiến Tranh

Chỉ tội nghiệp cho các dân tộc nhược tiểu trong vùng chiến cuộc bổng dưng bị họa lây, gồm Cao Ly, Việt Nam, Lào, Kampuchia.. do hai đảng Cộng Sản Bắc Cao và Bắc Việt, rước voi về dầy mã tổ, tàn phá quê hương và hủy diệt dân tộc mình. Vì nếu không có sự xuất hiện của đảng Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế, chắc chắn các quốc gia trên, trong đó có Việt Nam cũng sẽ như các nước trong vùng như Ấn Ðộ, Pakistan, Tích Lan, Miến Ðiện, Mã Lai, Tân Gia Ba, Nam Dương.. thuộc địa cũ của Anh-Pháp hay Phi Luật Tân thuộc Mỹ, cũng độc lập mà không cần phải gây ra cuộc kháng chiến chín năm (1946-1954), làm tốn biết bao máu xương của đồng bào, lại còn hủy hoại tài nguyên và nhiều công trình kiến tạo của tiền nhân để lại rất vô ích và tội lỗi.

Ðó là thực chất của cái, được thế giới gán cho danh từ hào nhoáng ‘ Chiến Tranh Giải Phóng Việt Nam ‘ . tuy chỉ là một giai đoạn ngắn ngũi nhưng lại bi thãm nhất trong dòng sông lịch sử Hồng-Lạc, với sự yểm trợ của khối Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế và sự tham chiến của Hoa Kỳ, giúp Người Việt hai bên chiến tuyến, chém giết nhau một cách tận tuyệt.

Theo Kenneth E.Sharpe trong ‘ The Post Vietnam Formula under Siege ‘ và Political Science Quarterly ‘, thi giai đoạn 1960 tới cuối năm 1971, được coi như là thời kỳ ‘ Giải Kết ‘ của Mỹ. Chính Tiến sĩ Henry Kissinger đã chủ trương, đưa Trung Cộng về lại với Thế Giới Tự Do bằng sự đánh đổi ‘ Bỏ Rơi Tiền Ðồn Chống Cộng tại Á Châu là VNCH ‘.Hành động giải kết trên, tuy có tạo được cho đương sự một tầm vóc quốc tế nhưng kết quả đã đưa đến sự ‘ bại trận nhục nhã ‘ cho nước Mỹ, bởi vì Kissinger đã lẫn lộn giữa chính trường và khuôn viên trường đại học. Tóm lại chỉ vì ngu muội, Kissinger đã tự mình đưa nước Mỹ vào một thời kỳ suy thoái nhất trong lịch sử Hoa Kỳ (1973-1980) , dưới sự lãnh đạo của đảng Dân Chủ toàn phần.

Tóm lại, sau hơn ba mươi bốn năm VNCH bị sụp đổ nhưng ngày nay vẫn còn nhiều tác giả ngoại quốc nhất là cái gọi đài BBC Luân Ðôn, mỗi khi có dịp nói-viết về cuộc chiến trên,vẫn cứ dựa vào các tài liệu tuyên truyền của cọng sản, nên thường lý luận một chiều, đôi lúc thật hàm hồ bừa bãi. Chính những cuốn sách và cái máy nói này, đã khiến cho ai đọc hay nghe tới, cũng đều có cảm tưởng là những người lãnh đạo nước Mỹ lúc đó, toàn ngu xuẩn hay điên rồ, cho nên mới bị sa lầy và tháo chạy khỏi miền Nam, vào ngày 30-4-1975 một cách nhục nhã .

Với người Mỹ qua thói quen tự cao tự đại, sau khi tháo chạy khỏi chiến trường để bị mang tiếng bội tín với thế giới tự do, vì không giữ được lời hứa, bảo đãm quyền sống tự do của đồng bào Việt-Miên-Lào trên Bán đảo Ðông Dương, nên vẫn cứ phải loay hoay giữa tự ái và lương tâm, khi muốn giải đáp trước công luận quốc tế và trong nước, lý do tại sao một cường quốc bách chiến bách thắng như Mỹ lúc đó và hiện tại, lại có thể bị thua trước một đối phương nhỏ bé, lạc hậu như cọng sản Bắc Việt ? dù chúng đã được toàn khối Cộng Sản viện trợ, hay rất lỳ lợm, dã man, tham tàn, coi mạng sống của đồng bào VN và cán binh thua cỏ rác.

Ngày nay nhờ những khai quật từ các văn khố khắp thế giới, nhất là sự sụp đổ của gần hết khối xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô và các nước Ðông Âu nhưng quan trọng nhất vẫn là những bản tự khai của các chóp bu tại Bắc Bộ Phủ, cho ta nhận rõ phần nào giải đáp trên, về thực chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975). Như Pháp năm 1954, người Mỹ đã thua cọng sản trong mặt trận ý chí tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn và ngay trên đất nước mình, chứ không phải ở chiến trường Ðông Dương. Cũng từ đó, người Mỹ thường nhắc nhớ tới thành ngữ ‘ No more Việt Nam ‘ như một thứ mặc cảm tội lỗi, luôn đè nặng đất nước Hoa Kỳ, cho tới lúc Tổng thống Reagan vào ngày 21-5-1982, khai sinh một nước Mỹ mới, khi tuyên bố chiến lược tấn công, để ngăn chận sự bành trướng của khối cọng sản quốc tế
Tất cả không phải vì QLVNCH không chịu chiến đấu trước kẻ thù, hoặc Miền Nam không có tướng tài và cấp lãnh đạo xứng đáng sau khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại hay Chính Phủ VNCH không có chính nghĩa như Thượng Nghị Sĩ Mỹ là Mc.Cain vừa tuyên bố trên báo chí, mà là NƯỚC MẮT NHƯỢC TIỂU VN, hay nói đúng hơn chúng ta đã bị Thực Dân Mới nhân danh là Liên Hiệp Quốc, bán đứng trong canh bài phân chia ranh giới chính trị, quân sự giữa hai khối tư bản và cọng sản, đã sắp xếp sẳn sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến kết thúc. Nhiều nước Ðông Âu kể cả Ðức cũng chịu chung số phận nhược tiểu như VN và Cao Ly, khi nằm trong thế cờ quốc tế đã định đoạt sẳn. Nhưng may thay Họ đã tự mình tháo gở được gông cùm nô lệ cọng sản vào đầu năm 1990, khi Liên Bang Sô Viết và phần lớn khối cọng sản đệ tam quốc tế tan rã.

Tại VN trước năm 1975, dù không bị sa lầy Hoa Kỳ vẫn tháo chạy vì mục đích nối kết với Trung Cộng, phá vở thế liên hoàn Nga-Hoa, đã hoàn thành từ 1972. Tại Iraq dù bị sa lầy thực sự, Hoa Kỳ vẫn không bao giờ bỏ chạy, khi chưa làm chủ được mỏ dầu Iraq và kho dầu cũng như con đường vận chuyển dầu, từ Caspi-Trung Á, A Phú Hản ra Ấn Ðộ Dương. Ðây chính là những khác biệt cụ thể của Hoa Kỳ khi tham chiến tại VN, trước đó và Iraq, A Phú Hản ngày nay, càng lúc càng thấy rõ ràng hơn dù ai có làm tổng thống, thì quốc sách của Mỹ cũng không thay đổi.

HOA KỲ THAM CHIẾN TẠI VN

Theo luật pháp hiện hành, thì Tổng Thống Mỹ là Tổng Tư Lệnh quân đội, cố vấn bởi Hội Ðồng An Ninh Quốc Gia, để ban hành các quyết định quân sự, được thi hành bởi Bộ Trưởng Quốc Phòng, xuống tới các Bộ Tham Mưu Liên Quân và các Bộ Tư Lệnh Hải Ngoại, trong số này có BTL Thái Bình Dương chỉ huy trực tiếp các BTL Không Quân, Lục Quân, Hạm Ðội 7 và Cơ Quan Viện trợ Quân Sự Mỹ tại VN (MACV).

Từ năm 1965 khi Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân ào ạt vào VNCH. Ðể đáp ứng nhu cầu chiến lược, Mỹ lập Lực Lượng Lục Quân Hoa Kỳ tại VN (US Army VN ố USARV), bao gồm tất cả các đơn vị bộ binh Mỹ đang tham chiến ở đây, trực thuộc cả hai BTL Lục quân và cơ quan MACV Thái Bình Dương. Theo hệ thống tổ chức trên, lực lượng tham chiến của Mỹ tại VN còn có Hải quân + Quân đoàn III Thủy bộ TQLC và Quân đoàn 7 Không quân.

Sự hiện diện của người Mỹ tại VNCH sau Hiệp định Geneve 1954, đầu tiên là Phái bộ Cố vấn Viện trợ Quân sự Ðông Dương (MAAG ố Indochina) rồi đổi thành Phái Bộ CVVTQS ốVN (MAAG ố VN) với nhiệm vụ cố vấn và huấn luyện QLVNCH và chấm dứt ngày 8-2-1962 bằng Cơ quan MACV, duới quyền chỉ huy của các tướng lãnh :

- Trung tướng S.William, Tư lệnh MAAG từ 11/1955 ố 9/1960.
- Trung tướng LMcGarr , TL MAAG từ 9/1960 ố 2/1962.
- Ðại tướng P.Harkins , TL MACV từ 2/1962 ố 6/1964.
- Ðại tướng W.Westmoreland, TL MACV, từ 6/1964 ố 7/1968.
- Ðại tướng C Abram, TL MACV từ 7/1968 ố 6/1972.
- Ðại tướng F. Weyand, TL MACV từ 6/1972 ố 3/1973.
- Thiếu tướng J Murray , TL DAO, từ 3/1973 ố 8/1974
- Thiếu tướng H Smith, TL DAO, từ 8/1974 ố 4/1975.

Tại VN, Hoa Kỳ thành lập Quân Ðoàn 1 (1 Field Force US) ngày 15-3-1966, có BTL đóng tại Nha Trang, chỉ huy tất cả các đơn vị Hoa Kỳ tham chiến tại Vùng 2 Chiến thuật của VNCH tới ngày giải tán về nước 30-4-1971, gồm có SD4BB, Lử đoàn3/SD25BB, Lữ đoàn1/SD101 Dù, Lữ đoàn 173 Nhảy dù, Liên đoàn 41 và 52 Pháo Binh .

Cùng lúc Quân Ðoàn II (II Field Force US) cũng được thành lập, có BTL đóng tại Biên Hoà, chỉ huy các đơn vị Mỹ tham chiến tại Vùng 3 Chiến Thuật của Nam VN tới ngày giải tán 2-5-1971, gồm SD1BB, SD1Ky Binh Không Vận, SÐ9BB, SD25BB, SD101Dù, Lữ đoàn 173 Dù, Trung đoàn 11 Kỵ binh, Liên đoàn 23 và 54 Pháo binh.

Tại Vùng 1 Chiến thuật của VNCH, Hoa Kỳ thành lập Quân đoàn III Thủy Bộ TQLC (III Marinne Amphibious Force), có BTL đóng tại Ðà Nẳng, chỉ huy SD1 và 3 TQLC, 2 Trung đoàn đổ bộ, Không đoàn 1 TQLC cùng Quân đoàn XXIV.

Về quân số tham chiến của Hoa Kỳ, khởi đầu 760 (1959), 900 (1960), 3205 (1961), 11.300 (1962), 16300(1963), 23300 (1964), 184.300 (1965), 383.300 (1966), 485.600 (1967), 536.100 (1968), 475.200 (1969), 334.600 (1970). 156.800 (1971), 24.200 (1972) và 50 (1973). Như vậy từ sau Hiệp Ðịnh Ba Lê ra đời, QLVNCH một mình ngăn chận và chống trả với toàn Khối Xã Hội Chủ Nghĩa, cho tới ngày Miền Nam mất theo lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, vào trưa ngày 30-4-1975.

HOA KỲ CÓ BỊ SA LẦY TẠI CHIẾN TRƯỜNG VN (1955-1975) ?

Sau khi rời khỏi chính trường năm 1977, Ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, nhân vật mang tiếng đã manh tâm bán đứng VNCH cho khối cộng sản đệ tam quốc tế, đã lần lượt xuất bản nhiều tập hồi ký chính trị như : Những năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) và Bí Lục Kissinger.. hé mở nhiều bí ẩn lịch sử cận đại về các thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Mỹ-Liên Xô-Trung Cộng, Chiến tranh VN và cuộc thăm viếng Trung Cộng của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, trước khi Hà Nội mở cuộc tấn công mùa hè vào các tỉnh Quảng Trị, Bình Long, Kon Tum và Bình Ðịnh của VNCH.

Cũng nhờ những tiết lộ này, mà ngày nay ta mới biết được bộ mặt thật của cặp Nixon-Kissinger, chỉ vì lợi lộc của riêng mình, đã bán đứng đồng minh bạn bè cho kẻ thù. Vì muốn kéo Trung Cộng vào phe cánh, Hoa Kỳ qua Nixon-Kissinger đã chủ động đề nghị viện trợ tối đa cho Tàu, tất cả những quân dụng vũ khí chiến lược, kể cả cung cấp vệ tinh để Tàu thu lượm tin tức tình báo từ Liên Xô. Theo Bill Burr, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề ngoại giao của Mỹ, thuộc Ðại Học Washington, cũng là chủ biên hồi ký Bí lục Kissinger, cho biết cuộc đi đêm bí mật của Kissinger tai Bắc Kinh , khởi đầu từ năm 1971 qua đề nghị Hoa Kỳ sẽ thiết lập một chương trình vệ tinh tình báo, để tặng Trung Cộng. Sau đó tại trụ sở LHQ ở New York vào tháng 12-1971, Kissinger đã cho Ngoại trưởng Hoàng Hoa nhiều tin tức liên quan tới quân sự của Liên Xô, để chuyển về Tàu. Tuy vậy để che mắt Liên Xô và thế giới, Hoa Kỳ cũng như Trung Cộng luôn đóng kịch kình chống nhau tại bàn hội nghị.

Tóm lại, giống như trường hợp VN, trước khi Tổng thống Nixon chính thức thăm Trung Cộng và sau này, Kissinger đã bí mật tới Bắc Kinh rất nhiều lân, để gặp cả Mao-Chu và Trung Cộng cũng đã đáp ứng cho Mỹ thiết lập một trạm tình báo-quân sự, dọc theo biên giới Nga-Hoa, để thu lượm tin tức, theo dõi tình hình chuyển động của Liên Xô. Tháng 7-1973, một điệp viên CIA tên James Lilley được cữ giữ chức trưởng trạm tình báo này, cũng là người trực tiếp phụ trách đường dây liên lạc Trung-Mỹ. Tháng 4-1975, theo yêu cầu của Ðặng Tiểu Bình, Tổng thống G.Ford đã viện trợ cho Trung Cộng rất nhiều quân trang dụng chiến lược, trong đó có nhiều thiết bị điện tử dùng để chế tạo vũ khí bom đạn hiện đại. Kissinger còn tiết lộ nội dung cuộc họp thượng đỉnh giữa Nga-Mỹ cho Trung Cộng. Tất cả cho thấy mức độ khả tín của người Mỹ, trong lúc cùng hợp tác đồng mình, để từ đó chúng ta mới nhận diện rõ ràng về ý nghĩa của sự sa lầy tại VN, mà các sử gia trong và ngoài nước thường hay gán ghép cho Hoa Kỳ.

Người Việt tị nạn CS đã sống ở Hoa Kỳ hơn ba mươi lăm năm qua, nên đâu còn lạ gì bản chất ngoại giao môi miếng của họ, hoàn toàn khác biệt với hành động thực tế. Tại A Phú Hãn và Iraq, nguời Mỹ lấy ‘ nhân quyền ‘ cùng cớ ‘ Saddam Hussein có Weapons of Mass Destruction và tiêu diệt khủng bố ‘ làm bình phong để che đậy hành động quân sự và dành thị trường cho tư bản Mỹ-Anh tiêu thụ hàng hóa, cùng dịch vụ khai thác dầu khí trên lãnh thổ của hai quốc gia Hồi Giáo này.

Ðọc lịch sử nước Mỹ, ta thấy dù dân chủ hay cộng hòa, thì quyêản lợi của tư bản Mỹ vẫn là ưu tiên số một .Tóm lại, dù Mỹ vơi tổng thống hèn kém như Carter hoặc cứng rắn cở Reagan, thì mục tiêu hành động của chính phủ, cũng vẫn là làm sao cho dân chúng Hoa Kỳ được hưởng thụ nhiều hơn trước. Còn tất cả chỉ là phương tiện , để đảng nọ đảng kia mới còn cơ hội tái đắc cử cầm quyền tiếp. Hiểu thêm điều này nửa, mới cảm thấy bớt uất nghẹn khi biết Tổng thống Johnson đã đưa vào VN tới 550.000 quân + 80.000 người của các nước Ðồng Minh và 150 tỷ đô la chiến phí. Rồi đang lúc VNCH sắp đạt được chiến thắng cuối cùng, qua các trận đại chiến vào Tết Mậu Thân 1968, các cuộc hành quân Toàn Thắng vượt biên giới sang Kampuchia 1970 và nhất là trận Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972.. thì Tổng Thống Mỹ là Nixon, kế thừa chiến lược của TT.Johnson lại ký Hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, tháo chạy khỏi VN, bỏ mặc cho Miền Nam bị toàn khối cọng sản đệ tam quốc tế cưởng đoạt vào trưa ngày 30-4-1975.

Ngày nay nhờ Quốc Hội Mỹ đã thông qua đạo luật ‘ Quyền tự do tư liệu và thông tin’, nên Thư Viện Quốc Gia Mỹ đã giải cấm những văn kiện tuyệt mật, có liên hệ tới cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1945-1975), qua nhiều đời Tổng Thống Mỹ liên hệ, từ Truman cho tới Carter.. Nhờ vậy người ngoài mới biết được những bi hài kịch đã diễn ra suốt thời gian Mỹ tham chiến tại VN, ngay trong hậu trường của những chóp bu tại Tòa Bạch Ốc, mà những nhân vật quyết định vận mệnh của VN , phần lớn là Dân Sự hay Chuyên Viên Hành Chánh, trong đó hầu hết chưa một ngày ở trong quân ngủ hay trốn quân dịch, như trường hợp của Tổng Thống Bill Clinton sau này. Ðó là việc quân lực Mỹ chưa bao giờ được phép xữ dụng hết khả năng chiến đấu, nhất là hai quân chủng Không và Hải quân Hoa Kỳ, chủ nhân ông của bất cứ chiến trường nào, rất được thế giới nể sợ.

Còn một bí mật khác cũng không kém phần bi thảm, đó là khi Mỹ đưa quân đội mình tới chiến đấu ở VN, thì cũng đồng lúc tư bản Mỹ tha hồ xuất cảng quân trạng dụng sang Nga, các nước Ðông Âu lẫn Tàu. Sau đó các nước này thay nhản đổi hiệu, rồi lại chuyển tiếp tới Hà Nội, để Bắc Việt chuyển vận vào Miền Nam cho bộ đội Cộng Sản có phương tiện dồi dào , bắn giết chẳng những QLVNCH mà cả quân Mỹ và các nước đồng minh đang chiến đấu tại chiến trường. Nói chung dù có thái độ cứng rắn như Tổng thống Truman, trước chủ nghĩa banh trướng sắt máu của Trùm Ðỏ Staline vào năm 1947 hay to miệng nhảy múa chống cộng cùng mình như Tổng thống Nixon, thì cuối cùng cũng vẫn là cùng thỏa thuận với nhau để chia chiến lợi phẩm trên xác chết của con mồi.

Riêng về câu hỏi, tại sao siêu cường Mỹ với một bộ máy chiến tranh ghê gớm , lại để cho 55.000 quân sĩ thiệt mạng và mấy trăm ngàn người khác bị thương ? cuối cùng tháo chạy, sau khi chỉ lấy được về nước, một số tù binh bị Bắc Việt cầm tù. Ðô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, đã giải thích ‘ cuộc chiến thất bại không phải vì chống không lại địch quân, mà vì chính sách của Hoa Thịnh Ðốn đã đẻ ra quá nhiều chiến lược, nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẽo đột nhiên dội bom, sau đó tự ý ngưng và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng.

Cuối cùng tự mình trói tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm vào tuyệt lộ.. ’ ’ Ðây cũng là kết quả như lời cảnh giác của Tướng Maxwell Taylor, nguyên cố vấn quân sự của Tổng Thống J.Kennedy, từ năm 1961 ‘ Nếu Hoa Kỳ tới VN với mục đích tối hậu, là giúp cho nước này chống lại sự xâm lăng của cọng sản, thì cuộc chiến sẽ không có giới hạn, nên chúng ta không thể không đánh thẳng ra Hà Nội, để tiêu diệt sào huyệt của chúng ‘.Nhưng tiếc thay đất Bắc , nơi phái sinh ra cuộc chiến VN, lại là vùng đất bão đãm an toàn nhất, mà các tổng thống Mỹ dành cho Cộng Sản Bắc Việt..

Ðã vậy TT Johnson còn cấm quân Mỹ không được tấn công hay truy sát quân Bắc Việt, tại lãnh thổ Lào và Kampuchia giáp ranh với VN. Trong khi đó ai cũng biết trên phần đất này, Hà Nội đang mở đường mòn HCM, lập các khu hậu cần, mật khu, tích trử lương thực quân dụng và tập trung quân để tấn công vào lãnh thổ VNCH.. Chính cựự Tổng thống Eisenhower cũng lên tiếng thắc mắc là tại sao TT. Johnson lại không dám tấn công thẳng vào đầu nảo của quân Bắc Việt tai Hà Nội, trong lúc đó hầu hết tướng lãnh Mỹ thì phẩn nộ, vì nhận được lệnh đánh nhau với VC phải đạt chiến thắng nhưng hai tay họ thì bị trói chặt bởi các luật lệ không biết đâu mà mò.

Tóm lại như Nixon đã nhận biết từ năm 1954, cọng sản dùng chiêu bài ‘ chiến tranh giải phóng ‘, để mà xâm nhập và khuynh đảo chính trị tại Nam VN, chứ không bao giờ công khai vượt tuyến như tại Triều Tiên năm 1950. Thêm một điểm đặc biệt khác, là lúc đầu những người trí thức và khoa bảng Mỹ gần như thờ ơ không ngó tới việc Hoa Kỳ tham chiến tại VN. Nhưng từ giai đoạn 1967 về sau, nhất là sự kiện cọng sản bị thảm bại trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, thì giới trên nhập cuộc qua phong trào phản chiến trên đất Mỹ, chống đối và đánh phá chính phủ dữ dội, còn hơn VC thứ thiệt ở VN.cũng chưa thấy hoạt động công khai dữ dằn như phong trào phản chiến tại Mỹ. Ðây là một nghịch lý nổi bật và mai mĩa nhất của Mỹ, trong cuộc chiến VN.

Ðó là sự kiện công dân Mỹ (như đào hát Jane Fonda chẳng hạn), hay sĩ quan John Kerry đã công khai đứng hẳn về phía Hà Nội, cổ vỏ cho giặc chống lại quân đội và chính phủ mình, qua các cuộc biểu tình phản chiến, cầm cờ máu đốt cờ Mỹ, phủ nhận huy chương, lên đài phát thanh truyền hình chửi bới hay tới tận Hà Nội để hoan hô Hồ tặc.

Khi than rằng ‘ Chúng ta đã đánh bại chính ta ‘, đó là nhận xét của Tổng Thống Johnson về nước Mỹ và ngay cả bản thân mình, trong suốt thời gian cầm quyền với một sức mạnh quân sự vô địch, nhưng đầu óc lại chỉ nghĩ tới chiến thắng VC bằng chính trị, một chiến lược giá rẽ, mà không một nhà lãnh đạo nào của thế giới nghĩ tới sự kỳ quặc này, nhất là khi phải đối mặt với những kẻ sát nhân khủng bố thâm độc như cọng sản quốc tế.

Năm 1967 Nixon nhậm chức tổng thống, khiến ai cũng nghỉ tới nước Mỹ sẽ leo thang chiến tranh, vì ông ta là một nhân vật diều hâu có môn bài. Về lý thuyết, Nixon cũng giống như TT Kennedy và Johnson, có chung mục tiêu là cả ba đều cương quyết không muốn VNCH phải sụp đổ vì Bắc Việt xâm lăng. Nhưng cả ba đã lầm lẫn chiến lược lúc nhập cuộc. Với TT Kennedy và Johnson, cả hai cùng chủ trương tham chiến trong giới hạn, để không gây xáo trộn tại chính quốc, nên nói ngăn chận nhưng vẫn không cản nổi sự xâm nhập của bộ đội từ miền Bắc xâm nhập vào Nam và sự khuynh đảo chính trị tại VNCH. Khi Nixon lên cầm quyền, cũng là lúc nước Mỹ qua vai trò của Kissinger, đang đi đêm để nhun nhén sự nới kết Mỹ-Hoa, phá thế liên hoàn Nga-Trung, trong thế cờ thời chiến tranh lạnh giữa ba nước Hoa Kỳ-Liên Xô và Trung Cộng. Bởi vậy Nixon không bao giờ dám leo thang chiến tranh tại VN, vì sợ phản lại lời hứa ‘ rút quân ‘ khi ứng cử, lại vừa làm mất sự thân thiện với Trung Cộng lẫn Nga đang cổ võ và ủng hộ VC cưởng chiếm miền Nam. Ðó là lý do Nixon trao lại cuộc chiến đang tiếp diễn ác liệt tại chiến trường Nam VN, cho VNCH tự lo liệu, qua danh từ hào nhoáng ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘.

Sau này qua các hồi ký chính trị của những nhân vật thân cận cao cấp của Chính Phủ VNCH như Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Phú Ðức, Nguyễn Tiến Hưng, Hoàng Ðức Nhã.. ta mới biết được gánh nặng của các nhà lãnh đạo VNCH suốt 20 năm tồn tại, từ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương.. tất cả đều bị Hoa Kỳ dùng viện trợ và sinh mệnh, để áp lực, khống chế, ép bắt hăm dọa VNCH phải thi hành theo đường hướng của Mỹ, nhất là sự ký kết hiệp ước ngưng bắn ngày 27-1-1973, ngày nay bị đánh giá như tờ giấy lộn không hơn không kém, đối với sự giải quyết hòa bình tại VN lúc đó.

Ngoài ra những bức thơ viết tay của Tổng Thống Nixon và Ford, gửi mật cho TT .Nguyễn Văn Thiệu, với sự trang trọng cam kết, đã nói lên cái gọi là ‘ thực chất của sự mưu tìm hòa bình trong danh dự ‘ và trên hết đã phần nào lột trần hai nhân vật ‘ Nixon-Kissinger’, trong vai trò chủ động tháo chạy khỏi Miền Nam, để khỏi bị sa lầy.

Không được đáp ứng theo nhu cầu đòi hỏi, TT J.Kennedy đạo diễn tấn tuồng binh biến ngày 1-11-1963 hạ sát Tổng Thống hợp pháp của VNCH là Ngô Ðình Diệm, để gây xáo trộn chính trị suốt ba năm, rồi kết luận miền Nam thiếu lãnh đạo

TT Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả hành động đê tiện là đe doạ ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu, để hoàn thành cho được bản hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, mới có cớ hợp thức cho phép bộ đội miền Bắc có mặt tại miền Nam, tiếp tục xâm lăng thôn tính Miền Nam, như Kissinger đã hứa với Mao-Chu tại Bắc Kinh năm 1972, mà mới đây trong hồi ký có nhắc tới.

Nói là ‘ Việt Nam Hóa Chiến Tranh ‘ nhưng lại cắt viện trợ, ngưng cung cấp quân trang dụng như lời hứa, khiến cho QLVNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ, phải bỏ nhiều phần lãnh thổ vì không có phương tiện để phòng thủ. Rồi trong lúc Bắc Việt xua hết lực lượng, tấn công cưởng chiếm VNCH, thì người Mỹ tháo chạy trong danh dự, suốt đêm trên nóc nhà bằng trực thăng, qua sự đùm bọc bảo vệ an ninh của QLVNCH lúc đó . Cuối cùng từ ấy đến nay, vẫn không ngớt đổ tội cho QLVNCH là không chịu chiến đấu, nên quân đội Mỹ phải sa lầy và Miền Nam mới bị sụp đổ., khi kẽ thù đang hấp hối chờ đầu hàng vào cuối năm 1972, qua những trận mưa bom tàn khốc trên đất Bắc.

Thực chất của người Mỹ khi tham chiến tại VN là thế đó !

Viết từ Xóm Cồn Ha Uy Di

MƯỜNG GIANG

12 THÁNG ANH ĐI