6 thg 10, 2009

Đọc cuốn hồi ký của Hà Thúc Ký

Nguyễn Văn Canh

PHẠM VI BÀI VIẾT:

1.Tôi viết bài này không phải với tư cách một đảng viên Đại Việt, lại càng không phải trên cương vị một Tổng Thư Ký Chính Trị Bộ (1), Đại Việt Cách Mạng trước thời kỳ 1975, viết về cuốn Hồi ký của Chủ Tịch Đảng. Bài viết được soạn thảo với danh nghĩa một người đứng ở vị trí làm nghiên cứu để cho được vô tư. Trong một giới hạn nào đó, một số ít những gì có liên hệ với hoạt động của tôi sẽ được nhắc tới ở đây, chỉ với mục đích là để chứng minh những gì đã xảy ra mà tác giả đã kể lại là đúng.

2. Trong một phạm vi có giới hạn, tôi lược duyệt, có khi khai triển thêm những điều mà tác giả trình bày trong cuốn Hồi Ký “Sống Còn Với Dân Tộc” súc tích này, với ý định là để giúp cho người đọc có một cái nhìn đầy đủ hơn, để từ đó hiểu được nội dung của nó.

Qua tóm lược cuốn Hồi Ký này, độc giả đã hình dung ra hình ảnh sự cố gắng đóng góp của các đảng cách mạng quốc gia trong sứ mạng cứu nước trước các nguy biến, nhất là những hi sinh vô bờ bến của các cá nhân đã dấn thân vào con đường hiểm nguy vì mục đích cao cả này. Tất nhiên, những gì mà tác giả cuốn Sống Còn Với Dân Tộc thực hiện là biểu tượng cho một số đóng góp ấy.

3. Hồi Ký chính trị là tài liệu ghi lại các sự kiện như hoạt động của một người trong bối cảnh lịch sử mà tác giả đã trực tiếp hay gián tiếp tham dự. Dĩ nhiên, trong phạm vi này, nó gồm cả những giải thích sự việc trong phạm vi hiểu biết của tác giả. Độc giả thế hệ này hay mai sau nhờ thế, biết được những gì đã xảy ra, chiêm nghiệm để rút ra bài học về một giai đoạn lịch sử, để sử dụng hay ứng dụng khi phải đối phó ngay cả trong trường hợp cá biệt, riêng của mình.

Điều đặc biệt là cuốn Hồi Ký của Hà Thúc Ký không phải là tài liệu biện bạch cho những hoạt động của mình như đã thấy một số hồi ký xuất hiện tại hải ngoại trong vòng mấy chục năm nay.

I. CUỘC ĐỜI

Sau khi tốt nghiệp Kỹ Sư Thủy Lâm tại Đại Học Hà Nội năm 1943, tác giả đã được nhà cầm quyền Pháp bổ nhiệm làm Phó Quận Trưởng Thủy Lâm tại Năm Căn, Cà Mau. Tác giả đã chiếm được địa vị cao và lương bổng ưu đãi trong xã hội thời bấy giờ. Đó là chưa kể đến các lợi lộc mà ngành thủy lâm mang lại cho cá nhân. Dù có điều kiện đi theo con đường hoạn lộ để vinh thân phì gia, vì tác giả đã lọt vào guồng máy hành chính khép kín của chính quyền bảo hộ thời đó, tác giả có thể không cần phải đổ mồ hôi, nước mắt thêm nữa để được thụ hưởng thành quả những cố gắng của mình; nhưng bầu huyết nóng của một thanh niên có lý tưởng phụng sự như tác giả, nên trước tình hình đất nước diễn biến trong thời điểm ấy là những quan tâm “canh cánh bên lòng” của tác giả.

Tình hình miền Nam vào lúc đó có nhiều biến chuyển dồn dập. Trước hết là Nhật đảo chính, loại Pháp ra khỏi vị trí đô hộ Đông Dương vào ngày 9 tháng 3, 1945. Kế đó, mấy tháng sau, ngày 15 tháng 8, Nhật đầu hàng đồng minh. Tại miền Nam, tháng 9, 1945, quân đội Anh đến Sài gòn để tước khí giới quân đội Nhật theo kế hoạch Postdam của các đại cường thắng trận.
Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội vào ngày 18 tháng 9, 1945. Sau khi vào miền Nam, Quân đội Anh tái võ trang cho 1,400 quân nhân Pháp mà trước đây Nhật bắt làm tù binh. Việt Minh thiết lập Ủy Ban Hành Chánh và Kháng Chiến Nam Bộ. Ngày 22 tháng 9, quân Pháp nổ súng chiếm Sài Gòn.

Chiến tranh chống Pháp bắt đầu tại miền Nam. Trước tình trạng rối rắm này, tác giả trở về Thừa Thiên - Huế. Ưu tư trước sự xâm lăng của thực dân Pháp trở lại đặt ách thống trị trên quê hương, tác giả quyết định không trở về Cà Mau nữa, và cũng như nhiều thanh niên thời đó đã ồ ạt hăng hái tham gia phong trào chống Pháp.

GIA NHẬP GIẢI PHÓNG QUÂN

Tác giả tìm cách gia nhập “Giải Phóng Quân” (lực lượng quân sự Việt Minh), với một tinh thần giống như của bao nhiêu thanh niên cùng thế hệ là “lăn xả vào công cuộc đấu tranh cho dân tộc” và “tin tưởng vào vận hội mới của đất nước.” Như tác giả đã nói “vừa qua thời kỳ bút nghiên, lại quẳng hết sự nghiệp để đầu quân… giải phóng”.

Đó là những hi sinh cao quí của các chàng trai thế hệ xung phong lên đường cứu nước. Ngay khi xin gia nhập “Giải Phóng Quân”, tác giả được bạn bè hướng dẫn vào Ban Đặc Vụ Quân Sự, để làm thủ tục. Lúc này, Ban Đặc Vụ đang cần một chỉ huy trưởng cho đơn vị “Đặc Vụ Quân Sự Lào, đường số 9”. Đơn vị này thuộc lực lượng Việt Minh mà Ủy Ban Hành Chính và Kháng Chiến Trung Bộ cử sang trợ giúp lực lượng “Lào Độc Lập” của hoàng thân Souphanouvong (sau này là lãnh tụ Lào cộng), đối đầu với quân đội Pháp. “Pháp muốn lật lại thế cờ, chuẩn bị mở lại chiến trường Lào…Nếu giữ được quốc lộ 9 là ngăn chặn quân Pháp kéo về chiếm Khe Sanh và Lao Bảo, uy hiếp Đông Hà, Quảng Trị.”

Dù chưa làm giấy tờ gia nhập, tác giả đã nhận nhiệm vụ khó khăn này trong khi chưa có một kiến thức quân sự và tình báo tối thiểu, gồm cả đến cách sử dụng võ khí, cũng như chưa từng bắn một phát súng nào từ trước. Khi đảm nhiệm chức vụ chỉ huy một trung đội Đặc Vụ quân sự, tác giả và đơn vị lập tức lên đường đi Tchepone, Lào.

Tại đây, tác giả và những thành viên trung đội được cố vấn của lực lượng Việt Minh huấn luyện về quân sự. Họ là cựu sĩ quan Nhật không chịu đầu hàng đồng minh, ở lại phục vụ trong hàng ngũ Việt Minh.

Nhiệm vụ của đơn vị này là thu thập và cung cấp tin tức về hoạt động của quân Pháp, còn đóng rải rác dọc quốc lộ 9, cho lực lượng Việt Minh. Tác giả bắt tay vào việc thiết lập mạng lưới thu thập tin tức trong khu vực cho quân giải phóng.

Lực lượng Việt Minh quyết định tấn công quân Pháp ở NaKoi. Quân số của Việt Minh có chừng một tiểu đoàn hành quân trong khu vực này, trong khi đó lực lượng của Pháp là một trung đoàn đóng rải rác trong khu vực. Việt Minh tấn công trước. Vì quân Pháp rất mạnh, nên cuối cùng, Việt Minh yếu thế, phải rút lui, chạy về Mường Phin. Bất ngờ quân Pháp truy kích và bao vây căn cứ. Bộ đội Việt Minh chỉ chống đỡ cầm chừng, rồi tìm cách chạy trốn, rồi phân tán trú ẩn trong các nhà của dân chúng địa phương.

Vào tháng 12 năm 1945, Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến Trung Bộ cử viên chính ủy đến Khe Sanh để họp với các chỉ huy lực lượng Việt Minh từ Lào về. Kết thúc buổi họp, tác giả đưa ra một nhận xét trái ý viên chính ủy ấy, và ngay sau đó được chỉ huy trưởng lực lượng Việt Minh cảnh giác rằng tác giả sẽ bị rắc rối về sau và cùng với lời khuyên của viên cố vấn quân sự người Nhật rằng tác giả nên rời khỏi Lào “càng sớm càng tốt, và nên vào Nam hay ra Bắc, chứ đừng về Huế, vì nơi đó nằm trong vòng kiềm tỏa của viên chính ủy và tay chân bộ hạ của anh ta”. Đồng thời, tác giả nhận được điện tín bằng mật mã của người bạn, làm trong Ban Đặc Vụ ở Huế khuyên tác giả phải rởi khỏi Lào gấp, vì “viên chính ủy đã
vu cáo tác giả là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng”. Đó là một “thành phần phản động, vô cùng nguy hiểm”. Như vậy, tính mạng tác giả đã thực sự bị đe dọa trước mắt.
Tác giả rời Lào vào tháng 1 năm 1946, rồi trở lại Hà Nội.

II. DẤN THÂN VÀO HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG

Trở ra Hà Nội lần này, tác giả ghi danh vào trường Dược để tránh dòm ngó và sự theo dõi của Việt Minh Cộng Sản. Với ngụy trang đó, được sống tại Đông Dương Đại Học Xá như khoảng 5 hay 6 năm về trước, tác giả đã lăn xả vào họat động tiếp tục.

Từ tháng 2 năm 1946, tác giả tuyên thệ gia nhập Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Hà Nội.
Công tác đầu tiên được giao làm Trưởng Ban Báo Chí Nội Thành. Nhiệm vụ là thu góp, biên soạn, sản xuất và phân phối các tài liệu huấn luyện cho đảng viên, và tuyên truyền ra ngoài quần chúng. Ngoài ra, tác giả còn được giao công tác đặc biệt mà Đảng Trưởng ra lệnh.

Vào thời đểm này, Việt Cộng hoạt động mạnh và có ưu thế tại Hà Nội kể từ khi chúng cướp được chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945. Lực lượng tình báo của chúng rải ra khắp nơi để ám sát, bắt cóc, và đem thủ tiêu những người mà chúng cho là kẻ thù hoặc chống lại chúng. Tại Đông Dương Đại Học Xá, có một chi bộ Cộng Sản chuyên lo công tác này, dưới danh nghĩa Sinh Viên Cứu Quốc. Một số bị sa bẫy và bị thủ tiêu. Đó là trường hợp Phan Thanh Hòa, sinh viên Nha Khoa, bị Sinh Viên Cứu Quốc dụ lên Phú Thọ và thủ tiêu tại đó. Phan Thanh Hòa là anh ruột chị Phan Thanh Bình, về sau là chị Nguyễn Tôn Hoàn. Ngoài khuôn viên đại học, biết bao nhiêu trí thức yêu nước, không chịu hợp tác với Cộng Sản, hay thuộc Đại Việt hoặc Việt Nam Quốc Dân Đảng cũng bị Hồ Chí Minh áp dụng các biện pháp tương tự. Đảng Trưởng Đại Việt là Trương Tử Anh có tin cho biết là bị mất tích tại Hà Đông và bị thủ tiêu vào thời gian tháng 12 năm đó (1946). Lãnh tụ Lý Đông A của Đại Việt Duy Dân cũng ở trong tình trạng như thế. Đặng Vũ Trứ, con trai BS Đặng Vũ Lạc cũng bị mất tích v.v...

Hoạt động báo chí kể cả phân phối tài liệu học tập trong hoàn cảnh này rất khó khăn, phải được ngụy trang cẩn thận tránh sự phát hiện của tình báo Cộng Sản. Ngay khi di chuyển trên đường phố, cũng phải canh chừng bọn chúng theo dõi. Sinh sống hàng ngày, nhất là ở khu tập thể như Đại Học Xá, cũng phải tính toán như thế nào để Sinh Viên Cứu Quốc, không nghi ngờ, dù chúng thường xuyên rình mò.

Nhân dịp này, tôi thấy cần nhấn mạnh đến phương thức liên lạc để hiểu biết các khó khăn, gian khổ của các nhà cách mạng Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này. Mọi liên lạc để báo cáo lên hay nhận chỉ thị từ cấp trên xuống đều được bố trí nghiêm ngặt để sống còn. Và chỉ có một đường dây duy nhất với một người được chỉ định để tránh tiết lộ và đề phòng cả trường hợp phản bội.

Trường hợp của tác giả, thì chỉ nhận lệnh của Đảng Trưởng Trương Tử Anh qua phái viên duy nhất phụ trách liên lạc, Nguyễn Tất Ứng (về sau là Bộ Trưởng Xây Dựng Nông Thôn của Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, bị tử nạn máy bay sau ít tuần lễ nhậm chức). Chỉ thị là lên đường về Huế làm phụ tá Xứ Ủy cho Bác Sĩ Bửu Hiệp. BS Hiệp đã được cử vào Trung phục vụ với cương vị Xứ Ủy trước đó. Cùng một phương thức liên lạc qui định trước, Bác Sĩ Nguyễn Tôn Hoàn cũng nhận được lệnh mật như vậy để trốn tránh VC vì “đang bị theo dõi để ám sát”. Một hôm đang khám bệnh tại bệnh viện Phủ Doãn nằm trên đường Quán Sứ, Hà Nội, BS Hoàn được lệnh của chính Đảng Trưởng Trương Tử Anh qua phái viên phụ trách liên lạc là phải rời bỏ công việc tức khắc và được người hướng dẫn đưa đến một ngôi nhà ở đường Quan Thánh, vì Việt Cộng đang theo dõi khắt khe. Nằm trên căn gác của ngôi nhà ấy vài ngày, BS Hoàn được bí mật đưa đến Hải Phòng và từ nơi đây, người đồng chí tên Minh đưa BS Hoàn xuống một chiếc thuyền đi Hồng Kông, và sau đó BS Hoàn được đưa đến Nam Ninh, Trung Hoa.

Cũng như trước đó không bao lâu, vào cuối năm 1945, Đảng Trưởng Trương Tử Anh bí mật cử 2 đồng chí đầu tiên là Nhân và Tín vào Nam Kỳ để lập cơ sở và phát triển Đảng. Nhân là bí danh của GS Phạm Đăng Cảnh, có một thời gian làm Giám Đốc Nha Tư Thục Bộ Quốc Gia Giáo Dục của Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. GS Cảnh hiện ở Rennes, Pháp. Tín là bí danh của GS Nguyễn Tấn Thành, thuộc trường Đại Học Luật Khoa, Sài Gòn. GS Thành đã qua đời tại Niles, Pháp, hơn 10 năm trước đây. Một người thứ 3 được cử vào Nam là Lễ. Lễ hay Mười Lễ là bí danh của Nguyễn Văn Hướng, về sau, năm 1967, làm Tổng Thư Ký Phủ Tổng Thống cho TT Thiệu, trong những ngày đầu của chế độ nền đệ II Cộng Hòa. Có một người khác được đưa vào sau là Nghĩa, được nói là bí danh của Nguyễn Văn Kiểu, anh ruột của TT Thiệu, làm Đại Sứ tại Đài Loan cho đến khi Việt Cộng chiếm miền Nam Việt Nam.

LÀM XỨ ỦY TRUNG KỲ.

Ngày 19 tháng 11 năm 1950, Việt Minh ám sát BS Bửu Hiệp. Đóng vai là một bệnh nhân, cán bộ ám sát Việt Minh xin vào khám bệnh mà phòng mạch đặt tại nhà ở Huế. Tên sát nhân bắn nạn nhân vào đầu trong lúc đang ăn cơm, và BS Hiệp gục chết tại chỗ. Tên sát nhân về sau đã đền mạng. Tác giả được lệnh thay thế BS Hiệp, để phát triển Xứ Ủy Trung Kỳ từ đó.

Cho đến 1950, Đại Việt đã phát triển rất mạnh ở Huế. Nhiều người theo Việt Minh đã nhận ra được âm mưu của họ Hồ. Nhiều thanh niên, trí thức biết rõ Việt Minh, nên đã bỏ hàng ngũ Việt Minh và gia nhập Đại Việt. Đó là nguyên do VC ám sát BS Bửu Hiệp. Đây là biện pháp khủng bố “làm nhụt nhuệ khí của Đảng Đại Việt.”

Xứ Ủy Trung Kỳ “nhắm vào giới trẻ là thành phần tràn đầy năng lực để lôi cuốn giới sinh viên, đồng thời tìm cách đưa người vào các cơ quan chính phủ, nhất là chú trọng vào vấn đề an ninh tình báo để đối đầu với Cộng Sản nằm vùng”. Chính vì thế mà chương trình bình định tại tỉnh Quảng Trị do cán bộ Đại Việt hỗ trợ dưới thời hai Tỉnh Trưởng Trần Điền (bị VC bắt và giết vào dịp Tết Mậu Thân ở Huế) và GS Nguyễn Văn Mân (hiện ở Texas, Hoa Kỳ) là hai tỉnh trưởng được ca ngợi rất thành công. Quảng Trị là tỉnh địa đầu của miền Nam, và dĩ nhiên là mục tiêu ưu tiên của Cộng Sản Bắc Việt nhắm vào, đặt hạ tầng cơ sở, để từ đó dùng Quảng Trị làm đầu cầu thôn tính miền Nam.

Đảng ủy Huế -Thừa Thiên được phát triển mạnh để làm bàn đạp cho Đại Việt phát triển ở miền Trung.

III. VỤ BIẾN ĐỘNG VÀ CHIẾN KHU BA LÒNG

NGUYÊN NHÂN: tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ gia đình họ Ngô.
Hiệp định Genève được ký vào 21 tháng 7 năm 1954. Việt Nam bị chia làm hai. Hiệp định qui định Việt Minh Cộng Sản phải rút về bên kia vĩ tuyến 17, và ranh giới phân chia hai miền là cầu Hiền Lương, nằm trên sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Để thi hành hiệp định, CS phải rút quân đội ra khỏi căn cứ của chúng, tập trung lại để di chuyển ra Bắc (tập kết ra Bắc). Cũng nên để ý đến một sự kiện là tại một số nơi như ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam v.v… quân Việt Cộng đã chống trả quân đội quốc gia đến tiếp thu. “Máu đã đổ để thu hồi đất đai cho tổ quốc “.

Thời gian này, Trần Điền là Tỉnh Trưởng Quảng Trị. Cán bộ Đại Việt ở địa phương “xung phong” hợp tác với tỉnh trưởng để tiếp thu các căn cứ địa ấy. “Chủ trương này được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm (lúc đó mới lên cầm quyền) chấp thuận, khi ông đi kinh lý miền Trung hồi đầu năm 1955”. Tuy nhiên lại bị ngấm ngầm chống đối bởi một số người tại địa phương. Hồi Ký nhấn mạnh rằng họ là “chân tay của Cố Vấn Chỉ Đạo miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn”…Mâu thuẫn này là nguyên nhân chính đưa dẫn tới sự đụng độ về mặt quân sự giữa hai bên, về sau này được gọi là “Biến Động Ba Lòng”. Vì tại địa phương, “cấp trên của Tỉnh Trưởng Trần Điền” là Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần có những tính toán khác và bất thần quyết định hủy bỏ kế hoạch tiếp thu Ba Lòng, dù đã bắt đầu thực hiện.

Ba Lòng là một chiến khu quan trọng của Việt Minh Cộng Sản thuộc tỉnh Quảng Trị, nằm sát biên giới Lào. Kế hoạch tiếp thu ấy đã được chấp thuận, và đã được các sĩ quan gốc Đại Việt thi hành một phần. Hai đại đội Cảnh Bị do sĩ quan gốc Đại Việt chỉ huy đã vào chiếm giữ chiến khu. Còn hai đại đội khác chờ ngày xuất quân là lên đường. Đúng sáng ngày xuất quân, trong một buổi lễ trọng thể trước Tòa Hành Chánh Tỉnh đang cử hành, Tòa Đại Biểu Trung Phần gủi cho Tỉnh Trưởng Quảng Trị một công điện hủy bỏ kế hoạch tiếp thu Ba Lòng.

Vì quyết định quá đột ngột này làm cho những sĩ quan gốc Đại Việt phụ trách đi tiếp thu Ba Lòng “ngỡ ngàng và đẩy họ vào hoàn cảnh không biết phải hành động thế nào cho phải. Rồi họ phản ứng theo cảm tính và chống trả ...”

Hồi ký có nói rằng “Đại Việt khi chống trả lại nhà cầm quyền địa phương và tuyên bố ly khai quả thật là sai trái”. Hà thúc Ký viết: “Một số chi tiết không được giải thích, tại sao chính quyền địa phương lại đi ngược lại hẳn với chính quyền trung ương?. Họ không được giải thích?. Rồi đến khi (quân đội) tấn công, họ không được một cơ hội biện bạch !”

Kế hoạch tiếp thu các căn cứ của VC gồm cả chiến khu Ba Lòng như thế nào?

“Tỉnh Trưởng đề nghị lên Trung Ương qua Tòa Đại Biểu Chính Phủ Trung Phần kế hoạch phối trí lực lượng và đã được chấp thuận như sau: Tỉnh có 10 đại đội Cảnh Bị (sau này gọi là Bảo An, rồi sau cùng là Địa Phương Quân) được sử dụng để tiếp thu căn cứ của VC. Mỗi đại đội gồm 150 người. Riêng tại căn cứ Cùa và Ba Lòng, lực lượng tiếp thu là 4 đại đội. Sau khi tiếp thu, Ba Lòng sẽ trở thành một quận hành chánh kiểu mẫu. Đại Úy Nguyễn Ngọc Cứ được Tỉnh Trưởng cử làm Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng. Sau Tết Nguyên Đán (1955), trong khi chờ đợi sự vụ lệnh chính thức làm Quận Trưởng, Đại Úy Cứ được lệnh Tỉnh Trưởng đem hai đại đội lên Ba Lòng trước để chuẩn bị tiếp thu và gây dựng cơ sở. Đại Úy Cứ chia lực lượng ra làm hai cánh: một đại đội đi đường thủy, ngược sông Thạch Hãn và một đại đội đi đường bộ lên Cam Lộ, vào Ba Lòng qua ngả Kho Muối. Hai đại đội này đã chiếm giữ một phần chiến khu.

Hai đại đội còn lại tiếp tục ở Thị Xã, chờ làm lễ xuất quân chính thức, rồi lên đường.
Sau đó ít hôm, Tỉnh Trưởng Trần Điền ký sự vụ lệnh bổ nhiệm Đại Úy Cứ làm Quận Trưởng, kiêm Tiểu Đoàn Trưởng Cảnh Bị Ba Lòng, đồng thời ấn định ngày 19 tháng 2, năm 1955 làm lễ xuất quân. Buổi lễ được tổ chức trọng thể trước Tòa Hành Chánh Tỉnh, dưới sự chủ tọa của Tỉnh Trưởng Trần Điền để tiễn đưa tân Quận Trưởng và 2 đại đội Cảnh Bị còn lại lên đường.

Vào 8 giờ sáng ngày 19 tháng 2 năm 1955, trong lúc đang làm lễ xuất quân trước Tòa Hành Chánh Tỉnh Quảng Trị, đột ngột nhận được công điện từ Huế, ra lệnh đình chỉ chiếm đóng Ba Lòng. Tỉnh Trưởng Trần Điền quyết định rằng đoàn quân cứ tiến hành theo chương trình đã định. Ông sẽ thương nghị với thượng cấp”.

Tỉnh Trưởng Trần Điền và Thiếu Tá Hoàng Văn Hiền, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Bị (Bảo An) Tỉnh về trình diện Tòa Đại Biểu Chính Phủ ở Huế. Quyết định của Trần Điền vào buổi lễ xuất quân bị Đại Biểu Chính Phủ coi là “bất tuân thượng lệnh”. Sau đó, Tỉnh Trưởng được ra về, còn Thiếu Tá Hiền bị đưa sang Nha Bình Trị giam lỏng. Trần Điền phản đối và đòi ở tù tại Huế cùng với Thiếu Tá Hiền.
Lệnh Giải Giới trực tiếp ban ra của Cố Vấn Ngô Đình Cẩn.

Ông Ngô Đình Cẩn cho mời GS Nguyễn Văn Mân của Đại Việt đến, ra một tối hậu thư là các đơn vị ở Ba Lòng phải trở về thị xã và nộp tất cả võ khí. Ông Cẩn còn nặng lời rằng không tuân lệnh, thì sẽ bị dẹp, tới lúc đó tất cả sẽ vào ngồi tù. GS Mân khẳng khái trả lời: “Chúng tôi hân hạnh ở tù dưới chế độ cụ Ngô.”

Năm ngày sau, Bộ Tư Lệnh Quân Khu II ra lệnh cho một tiểu đoàn Bộ Binh, một đại đội Thiết Giáp đưa Thiếu Tá Hiền về Quảng Trị, đến thẳng văn phòng Tỉnh Đoàn Bảo An, buộc ký lệnh thu hồi tất cả võ khí của các đại đội ở các quận và thị xã đem về nộp vào kho của tỉnh đoàn, buộc Thiếu Tá Hiền ra lệnh cho tiểu đoàn ở Ba Lòng trở về thị xã. Sau đó Thiếu Tá Hiền được trả tự do và tước hết quyền hành. Ngay chiều hôm đó, Thiếu Tá Hiền đi thẳng lên Ba Lòng. Ngoài ra, vì thấy chính quyền quyết định như vậy, Thiếu Tá Phạm Văn Bôn, Chỉ Huy Trưởng Tiểu Đoàn Khinh Quân 610 đang đóng quân ở Quảng Nam và Đại Úy Nhảy Dù Phạm Văn Đồng với một trung đội nghe tin như vậy, tuyên bố ly khai và kéo quân về Ba Lòng.

“Chính quyền đã dồn họ vào thế phải chống đối dù biết rằng đằng nào cũng gặp nguy hiểm”. Anh em sĩ quan gốc Đại Việt quyết định “đã bị dồn vào chân tường, thì chỉ còn cách là ‘họ đánh thì mình đỡ’. Đằng nào cũng vào tù, nhưng ngẩng mặt mà vào tù, không chịu áp bức, không chấp nhận sự bất công.”

Quân Đội tấn công Ba Lòng

Đệ Nhị Quân Khu điều động 3 tiểu đoàn thiện chiến nhất để lập thành Đoàn Quân Thứ Lưu Động lên Ba Lòng. Sau đợt tấn công đầu tiên không vào được mục tiêu, vì Chỉ Huy Trưởng chiến dịch là Trung Tá Phan Văn Cách không có ý định ‘tàn sát lẫn nhau’. Bộ Tư Lệnh Đệ II Quân Khu đưa Trung Tá Lê Văn Nghiêm lên thay thế. Quân đội dùng công binh mở đường, đem đại bác vào tận Đá Nổi để tác xạ vào Ba Lòng. Cầm cự đến ngày 9 tháng 3, năm 1955, quân trú phòng bị bất ngờ khi quân chính phủ tiến vào phía sau, chiếm kho đạn và lương thực. Ba Lòng thất thủ. Lực lượng Đại Việt rút về Ba Hi, bên kia biên giới Lào.

Ngày 10 tháng 3, Ban Chỉ Huy quyết định giải tán lực lượng. Thiếu Tá Hiền và Đại Úy Cứ dẫn một số anh em về Quảng Trị. Họ bị giam ở nhà lao Thừa Thiên cho đến 1957, Tòa Quân Sự Huế mới đưa ra xét xử. Còn chừng 100 người ở lại và lén về ẩn náu tại làng Ven. Tại đây, một số chết dần vì bệnh tật, hoặc sa vào tay Việt Cộng. Ít người khác lẻn về Huế, rồi cuối cùng cũng bị bắt.

Chung cuộc,Tỉnh Trưởng Trần Điền bị cách chức và loại ra khỏi ngạch công chức. Những sĩ quan chỉ huy Ba Lòng, người thì bị án tù, khổ sai và một số vắng mặt bị khổ sai chung thân.

Nhận xét về biến cố Ba Lòng:

Dựa trên các sự kiện được trình bày trong cuốn hồi ký “Sống Còn Với Dân Tộc”, người đọc thấy rõ được sự mẩu thuẫn giữa chính quyền trung ương với chính quyền địa phương. Sự việc này bắt nguồn từ ở mối nguy cơ mất chức của viên Đại Biểu Chính Phủ tại Trung Phần Việt Nam: Nguyễn Đôn Duyến.

Trong cuộc viếng thăm Quảng Trị vào đầu năm 1955, Thủ tướng Diệm ngợi khen Tỉnh Trưởng Trần Điền về thành quả đã đạt được, ban cấp Bảo Quốc Huân Chương, chấp thuận kế hoạch tiếp thu các căn cứ Việt Cộng, và lại công khai nói rõ ý định của Thủ Tướng Diệm là sẽ đưa Trần Điền làm Đại Biểu Trung Phần.

Là kẻ sắp bị mất chức trong trường hợp như vậy, nên Nguyễn Đôn Duyến phải tìm cách diệt “kẻ thù” của mình. Có như thế, thì mới giữ được ghế của mình. Dưới triều Ngô, ai cũng biết có nhiều trung tâm quyền lực trong nội bộ gia đình của TT Diệm: Giám Mục Ngô Đình Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn. Những nhân vật này được coi là trung tâm quyền lực thực tại (de-facto), hay là “ trung tâm quyền lực bản lề” nghĩa là không có chức vụ chính thức trong chính quyền, ngay cả đến luật pháp căn bản để thiết lập ra quyền lực ấy cũng không có, nhưng mọi người đều hiểu rằng họ là Cố Vấn của Ông Diệm. TT Diệm là người nắm quyền chính thống, được Hiến Pháp ban cấp quyền hành. Chính ông nhiều khi lại không hành xử quyền của mình liên quan đến những vấn đề quốc gia. Quyền hành của TT Diệm bị chi phối bởi những người thân trong gia đình của ông (bản lề). Chi phối ở đây không có nghĩa là quyền lực bản lề chỉ gây ảnh hưởng đối với trung tâm quyền lực chính thống là ông Diệm, mà còn có thể hạn chế quyền hành của ông, có khi thay thế hay vượt qua cả quyền hành của ông. Vì nhu nhược trước các hành động của các trung tâm quyền lực khác của gia đình, mà nhất là gia đình có truyền thống phong kiến, Ông Diệm không dám hoặc không thể nắm hay hành xử quyền hành mà Hiến Pháp gọi là do quốc dân giao phó.

Trường hợp vụ Biến Động Ba Lòng là một thí dụ. Kẻ sắp mất chức là Nguyễn Đôn Duyến. Làm Đại Biểu Chính Phủ ở Trung Phần Việt Nam, Ông Duyến đã được che chở của trung tâm quyền lực ở địa phương là ông Ngô Đình Cẩn. Nếu không có sự chấp thuận của ông Cẩn, ông Duyến hay bất cứ ai không thể có địa vị nào ở miền Trung. Trong thời gian nhà Ngô cai trị, người ta đã chứng kiến nhiều trường hợp sự lạm quyền đã xảy ra và ông Diệm đều lặng thinh. Thí dụ Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung dưới quyền điều khiển của Dương Văn Hiếu hoạt động tại Sài gòn. Đoàn này do Ông Cẩn từ Huế lập ra, chỉ đạo và không thống thuộc hệ thống an ninh của Trung Ương. Quyền hành của nhóm này còn mạnh hơn hay cao hơn cả hệ thống an ninh chính thức cuả quốc gia. Như vậy phạm vi “ảnh hưởng” của ông Cẩn không chỉ giới hạn ở miền Trung. Hậu quả là có nhiều tướng lãnh, bộ trưởng v.v… từ Sài Gòn bay ra Huế để chúc tết hay dự ngày sinh nhật của ông Cố Vấn miền Trung để mưu cầu một ân huệ.

Nhờ quyền hành rất lớn như thế của ông Cố Vấn và là người đỡ đầu, ông Duyến đi tới quyết định chấm dứt kế hoạch tiếp thu Ba Lòng đã được ông Diệm chấp thuận từ trước và đã được thi hành một phần rồi. Khi ra lệnh chấm dứt vào đúng phút chót là lúc tổ chức “lễ xuất quân” nhằm để đánh vào mặt và hạ uy tín Trần Điền. Lệnh của ông Duyến dù có trái với quyết định trước đó của chính ông Diệm, nhưng lệnh ấy vẫn được ông Diệm hợp thức hóa bằng cách trừng phạt, bắt bớ, và truy tố “các kẻ thù” của ông Duyến về tội “phá rối trị an”, và “vi phạm an ninh quốc gia”. Tỉnh Trưởng Trần Điền là mục tiêu của ông Duyến. Ông Trần Điền và các sĩ quan gốc Đại Việt trong công tác tiếp thu chiến khu Ba Lòng đều là những nạn nhân của việc tranh chấp quyền hành trong gia đình nhà Ngô. Lệnh hủy bỏ kế hoạch tiếp thu Ba Lòng của ông Duyến được ông Cố Vấn Cẩn chính thức “bao yểm” khi ông Cẩn mời GS Nguyễn Văn Mân tới “nhà”, để “chỉ thị” rằng sĩ quan gốc Đại Việt phải giải giới về trình diện tại Quảng Trị, nếu không sẽ bị bỏ tù.

Tôi có gọi điện thoại nói chuyện với cựu Thượng Nghị Sĩ Mân, hiện tại ở Texas về vấn đề này. TNS Mân xác nhận rằng có trả lời ngay với ông Cẩn rằng ”Đại Việt chúng tôi rất vui mừng ở tù dưới triều đại cụ Ngô”. Hành động của chính quyền địa phương đã dồn sĩ quan gốc Đại Việt vào vị trí phải chống trả lại, nghĩa là họ quyết định “ngẩng đầu lên mà đi”. Cũng vì hành vi “ngẩng đầu mà đi” này đối với người em của ông Diệm, là Cố Vấn Cẩn, mà GS Mân bị tòa án quân sự phạt tù 6 năm, dù GS Mân không có một hoạt động nào dính líu đến vụ Ba Lòng. Lý do được viện dẫn trong bản án là: phá rối trị an và vi phạm an ninh quốc gia.

IV. NHÀ NGÔ ĐÀN ÁP ĐẠI VIỆT

Hồi ký nói: “Từ 1956, Đại Việt bị chính quyền dồn vào tình thế bất lợi. Các hoạt động của Đảng không những bị ngưng trệ và càng ngày càng lâm vào bế tắc”.

Để làm sáng tỏ vấn đề này, hồi 1992, BS Nguyễn Tôn Hoàn kể với tôi rằng: “sau khi ông Diệm ở Mỹ về, thì thái độ của ông ấy thay đổi hẳn. Trước khi xuất ngoại, vì tôi (BS Hoàn) là người đứng đầu phong trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình để vận động yểm trợ ông ấy. Ông ấy còn dặn ông Nhu rằng cần phải vận động khối Hòa Hảo và Cao Đài và phải nhờ BS Hoàn giúp liên lạc và giới thiệu. Ông Diệm còn nói rằng hai giáo phái đó không chấp nhận hợp tác với ông Nhu”. BS Hoàn phải đích thân đưa ông Nhu đến gặp các nhà lãnh đạo của hai khối này để giải quyết vấn đề hợp tác và ủng hộ ông Diệm. Nay thấy ông Diệm tỏ vẻ thờ ơ và có thêm được tin tức về âm mưu đàn áp đối lập đã lộ rõ. Ngay trong giai đoạn đầu cũng đã có tin việc thủ tiêu Nguyễn Bảo Toàn, Vũ Tam Anh (2)… Tôi thấy có một mối nguy hiểm cho tôi. Tôi đến gặp ông Diệm và nói rằng tôi cần đi ngoại quốc. Ông Diệm hỏi tại sao tôi muốn đi như vậy. Tôi trả lời thẳng với ông Diệm rằng: “Nếu tôi ở lại, có ngày anh sẽ giết tôi”. Kế đó, ông Diệm gọi ông Nhu vào văn phòng, bảo ông Nhu: “làm thủ tục để BS Hòan xuất ngoại.”

Rồi, ngày 3 tháng 4 năm 1957, tòa quân sự Sài Gòn xử tù một số đảng viên Đại Việt thuộc Xứ Bộ miền Nam, trong số này có ông Phan Thông Thảo; và ngày 7 tháng 10,1958, tòa quân sự Nha Trang cũng xử một số đảng viên Đại Việt. Thí dụ Bà Trương Thị Thỉnh, em ruột của Đảng Trưởng là một nạn nhân, bị 3 năm tù. Tất cả bị qui tội “phá rối trị an” và bị án tù, dù họ không có liên hệ gì đến vụ Ba Lòng. Ngoài ra, Trương tử An, một em ruột khác của Đảng Trưởng Đại Việt bị thủ tiêu vào giai đoạn này (3).

V. ĐÓNG GÓP VÀO CÔNG VIỆC XÂY DỰNG DÂN CHỦ, TỰ DO Ở THƯỢNG TẦNG.

A). CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG QUỐC GIA TRONG CÔNG CUỘC GIÀNH CHỦ QUYỀN DÂN TỘC KHỎI TAY NGƯỜI PHÁP, VÀ THAM DỰ VÀO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHÁT HUY CHÍNH NGHĨA QUỐC GIA.

1. PHONG TRÀO ĐẠI ĐOÀN KẾT VÀ HÒA BÌNH, 1953.

Tình hình đất nước vào năm 1953 rất bấp bênh, lòng dân phân tán. Các phe phái dằng co, những người chủ trương Nam Kỳ tự trị sau khi thất bại âm mưu của họ tỏ ra bất mãn và chống đối tích cực. Thực dân Pháp đã được người Anh thỏa hiệp cho vào Sài Gòn, và Tàu nhượng cho Pháp vào miền Bắc và nay ở trong vị thế lăm le đặt ách thống trị trở lại, dù Pháp đã ký hiệp ước trao trả độc lập cho Việt Nam.

Về phía Việt Minh, thì Hồ Chí Minh đã được Mao viện trợ quân trang, quân dụng để phát động đấu tranh võ trang qui mô. Mao cử Trần Canh sang làm cố vấn về mặt quân sự, viện trợ quân trang, quân dụng cho Hồ để đánh Pháp. Dưới sự chỉ đạo của Trần Canh, quân Việt Minh thắng trận đầu tiên tại Cao Bằng, Lạng Sơn (1950), rồi những năm kế đó, dồn quân Pháp lui vào vùng Trung Châu, Bắc Phần, gây rối tại nhiều khu vực do Pháp kiểm soát. Dưới sự lãnh đạo chính trị của Lã Quí Ba, Hồ cải tổ chính quyền, chuẩn bị công cuộc Cải Cách Ruộng Đất, thiết lập hệ thống thuế để củng cố thế lực. Tại miền Bắc Trung Phần, Việt Minh Cộng Sản kiểm soát được nhiều nơi và các vùng phía Nam Trung Phần trở thành các khu vực tranh chấp giữa Pháp và Việt Minh.

Trước tình thế đó, các lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng của ba miền: BS Nguyễn Đình Luyện thuộc Xứ Ủy Bắc Kỳ, BS Nguyễn Tôn Hoàn, Xứ Ủy Nam Kỳ, và Kỹ Sư Hà Thúc Ký, Xứ Ủy Trung Kỳ họp và quyết định thành lập Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình. Mùa thu năm 1953, phong trào ra đời. Mục đích là kêu gọi Quốc Trưởng Bảo Đại “cải tổ định chế (cơ cấu chính quyền), thay đổi nhân sự để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của tình thế và áp lực với Pháp trao trả độc lập thực sự cho Việt Nam.”

Phong Trào được thành lập và tại 3 miền Nam Trung Bắc, mỗi miền có một Ban Đại Diện. Tại Trung Phần, Ngô Đình Nhu làm Chủ Tịch và tác giả làm Phó Chủ Tịch. Sự việc này chứng tỏ một điều là Đại Việt nói chung và tác giả nói riêng, vì ý thức quyền lợi và tương lai của dân tộc, đã vận động thành lập Phong Trào với mục đích đòi lại chủ quyền thực sự cho dân tộc khỏi tay của thực dân Pháp. Chúng có âm mưu đặt ách thống trị trở lại, sau khi chúng đã bị Nhật đảo chánh chừng một thập niên trước đó. Hơn thế nữa, tập hợp này sẽ tạo một sức mạnh của toàn dân chống lại sự bành trướng của cộng sản Việt Nam, có sự tiếp sức và chỉ đạo của cộng sản Quốc Tế, nhất là của Tàu cộng. Ngô Đình Nhu với tư cách là Chủ Tịch Phong Trào tại Trung Phần lại lập thêm một bộ phận tham mưu riêng, gồm một số tay chân thân tín tại Sài Gòn (Nam Phần), ở nơi đây là phạm vi hoạt động đã được giao cho BS Nguyễn Tôn Hoàn chịu trách nhiệm. Bộ phận này của Ngô Đình Nhu chống lại một số người trong ban chỉ đạo Phong Trào của miền Trung và như đã nói, chính Ngô Đình Nhu làm Chủ Tịch. Để giải quyết mâu thuẫn nội bộ này, Đại Việt cử ông Đoàn Thái (hiện cư ngụ tại Fort Smith, AR) làm trung gian, tiếp tay hòa giải.

Ngày 6 tháng 1, 54 Phong Trào ra mắt tại Sài Gòn với 100 đại biểu của các tố chức thành viên. Tại buổi ra mắt này, Phong Trào thông qua một lá thư gửi Quốc Trưởng Bảo Đại thỉnh nguyện cải tổ định chế, triệu tập Quốc Hội và ban hành Hiến Pháp. Phong Trào hậu thuẫn cho Ngô Đình Nhu và nhóm Công Giáo ủng hộ Ngô Đình Diệm, và gây được tiếng vang khắp ba kỳ.

Về mục tiêu giành lại chủ quyền, thì “ngày 4 tháng 6 năm 1954, Thủ Tướng Pháp Lauriel và Thủ Tướng Việt Nam Bửu Lộc ký thỏa ước thi hành Hiệp Định Elysée để kiện toàn độc lập cho Việt Nam.”

Phong Trào Đoàn Kết và Hòa Bình lúc đầu gồm nhiều nhân vật, gồm cả những người thân Pháp. Về sau, Phong Trào chỉ còn gồm có Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Phục Quốc Hội, Phục Quốc Quân, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và các tổ chức Công Giáo.

2. MẶT TRẬN DÂN CHỦ XÃ HỘI QUỐC GIA,1969.

Vào thời kỳ sau Tết Mậu Thân (1968), phong trào phản chiến tại Mỹ lên cao, gây một áp lực mạnh đối với chính quyền Hoa Kỳ. Mục tiêu của chúng là đòi hỏi cắt đứt mọi hỗ trợ tài chánh cho Việt Nam Cộng Hòa, và rút quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam, để miền Nam tự chống đỡ lấy, tự mình chống lại sự xâm lăng của Cộng Sản Quốc Tế mà Cộng Sản Việt Nam là một thừa sai.

Để làm nhẹ bớt áp lực đó, Đại Sứ Bunker, đại diện chính quyền Hoa Kỳ kêu gọi các đảng phái quốc gia tập hợp xung quanh chính quyền của TT Thiệu thành một tập thể rộng lớn, hỗ trợ cho mục tiêu chống lại Cộng Sản mưu toan đánh chiếm miền Nam.

Tôi và Chủ Tịch Hà Thúc Ký đi họp một số buổi họp với các chính đảng, có biểu lộ ý định ngồi lại với nhau trong Mặt Trận. Trong buổi họp mở rộng cuối cùng, gọi là khoáng đại hội nghị của các chính đảng, gồm khoảng 100 đại biểu của các chính đảng ấy do Nguyễn Văn Hướng triệu tập, các đại biểu bầu 3 đại diện lên làm chủ tọa đoàn để điều khiển Hội Nghị. Ba đại diện đó là Trình Quốc Khánh, Ngô Khắc Tỉnh và tôi. Tôi đề nghị một cuộc hội ý riêng, tại chỗ giữa 3 người chúng tôi, để xác định qui tắc và phương pháp sinh hoạt cho hữu hiệu, cũng như đề cử một người làm đại diện của chủ tọa đoàn đứng ra điền khiển hội nghị. Chủ Tịch Khánh và Dược Sĩ Tỉnh đồng thanh cử tôi lãnh trách nhiệm này, vì lý do “trẻ hơn và năng động…” Chúng tôi đã hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp và Mặt Trận đã ra đời.

Chủ đích của Đại Việt Cách Mạng tham gia Mặt Trận, không phải chỉ để tiếp tay cho chính quyền Hoa Kỳ phản ứng lại phong trào phản chiến tại Mỹ. Đại Việt Cách Mạng còn muốn đóng góp thực sự vào công tác bảo vệ “hạ tầng” chống lại sự khuynh loát của Cộng Sản. Đó là loại các phần tử VC nằm vùng tại nông thôn ra khỏi thôn ấp, củng cố và lành mạnh chính quyền nông thôn để từ đó xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Vào thời điểm này, theo tài liệu nghiên cứu của tôi cho biết rằng với trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, hạ tầng cơ sở của Việt Cộng đã bị vỡ nát. Con số chi bộ VC được ước tính chỉ còn độ 400 trên toàn quốc. Tuy nhiên các chi bộ này không toàn vẹn. Có chi bộ chỉ còn bí thư. Chi bộ khác còn một vài ủy viên… Chúng phải lẩn trốn, y như thời kỳ sau hiệp định Genève.

Vào thời điểm ấy, tôi là người viết kế hoạch để Chủ Tịch Hà Thúc Ký đưa ra cho Hội Đồng Chỉ Đạo của Mặt Trận có trụ sở ở đường Bà Lê Chân, Sài Gòn (thuê villa của LS Nguyễn Phước Đại), thuyết phục các thành viên đóng góp sức mình vào công tác trọng đại này.

Vì không một chính đảng trong Mặt Trận có thực lực trải rộng trên toàn lãnh thổ, nên kế hoạch trù liệu sự phối trí nhân sự và các hoạt động có linh động. Ở bất cứ đâu, đảng phái nào mạnh có nhiều đảng viên thì đảm nhiệm công việc nặng nhọc hơn, với sự hỗ trợ của các đảng khác. Ở những nơi không có sự hiện diện của một đảng nào, chính quyền địa phương phải lo bố trí nhân sự thay thế. Điểm quan trọng là các cơ sở của Mặt Trận ở địa phương có nghĩa vụ cung cấp tin tức về ‘hạ tầng cơ sở’ của VC để chính quyền quyết định. Như vậy, Mặt Trận không dẫm chân lên chính quyền, hay cản trở hoạt động của chính quyền.

Trong cái gọi là chiến tranh nhân dân của Mao Trạch Đông mà Hồ được huấn luyện để thực hiện, thì đơn vị đảng CS ở hạ tầng đóng vai trò quan trọng. Ngoài công tác kiểm soát dân chúng bằng bạo lực (khủng bố), hạ tầng cơ sở của VC là các chi bộ đảng thu thuế của dân bằng hiện vật (như lúa gạo) và huy động (bắt buộc) nông dân vận chuyển lúa gạo, tồn trữ ở một nơi nào đó tiện lợi, khi bộ đội hành quân đi ngang qua có lương thực để ăn. Hạ tầng cơ sở VC còn làm nhiệm vụ tình báo, nghĩa là tìm kiếm và cung cấp tin tức cần thiết để cho bộ đội hành quân… Muốn làm được hai công tác này (dĩ nhiên còn nhiều công tác khác), đơn vị Đảng ở nông thôn luôn sử dụng mọi biện pháp có thể để đạt mục tiêu của chúng. Hạ tầng VC là người trong thôn xóm. Chúng biết từng người trong thôn ấp. Chúng dùng mọi thủ thuật để vận động mỗi cá nhân, từng cá nhân vào hoạt động mà chúng muốn, quan trọng hơn hết là bằng bạo lực, kể cả khủng bố như ám sát, giết chóc v.v... nếu cần. Mọi cá nhân đều sợ, nên phải ‘thi hành’. Nhiều cá nhân bị áp lực nhận công tác nhỏ như vậy, góp vào thành công việc lớn.

Tuy nhiên, ở nơi nào VC không xâm nhập được, vì không có ‘hạ tầng cơ sở nằm vùng’, VC không làm gì được. Đó là vùng Hòa Hảo. Đó là vùng người Công Giáo sống tập trung. Nhiều khu vực Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên…ở những nơi Đại Việt và VNQDD mạnh, là những thí dụ khác. Điều quan trọng trong kế hoạch này, các đảng phái tại nông thôn là một tập thể bảo trợ cho các cá nhân, nên VC không thể hay khó có thể vận dụng được. Hơn nữa, mỗi cá nhân biết được có đoàn thể của mình hậu thuẫn, hướng dẫn, nên có can đảm đứng ra ‘tố cáo’ các phần tử khả nghi hay nằm vùng (các vùng Hòa Hảo và Công Giáo cũng vậy) qua tập thể của mình. Còn mỗi cá nhân riêng rẽ ở nông thôn bị VC tiếp xúc, thường giữ kin đáo, lặng yên vì sợ. Họ sợ bị ám sát hay bắt cóc, thủ tiêu. Trong tình thế này, họ thường bị lôi cuốn vào vòng ảnh hưởng của VC. Đó là điểm mấu chốt cho sự thành công trong công tác vận động của CS.

Kế hoạch này chẳng bao giờ được mang ra thi hành. Khi viết kế hoạch, tôi không có ảo tưởng rằng Chủ Tịch Đoàn, (dĩ nhiên TT Thiệu là Chủ Tịch của chủ tịch đoàn) có thể hiểu được tầm quan trọng của vấn đề để giải quyết cuộc chiến do CSVN xâm lược. Hơn nữa, những kẻ được đưa vào ngồi trong chính quyền, trung ương cũng như địa phương, dù bằng phương cách nào đi chăng nữa cũng chỉ muốn độc quyền hành động, không muốn chia xẻ quyền hành với bất cứ ai, kể cả e ngại những dòm ngó của kẻ khác…, dù kế hoạch này qui định các ủy ban Mặt Trận địa phương là một bộ phận tư nhân, đóng góp cho chính quyền bằng cách thu lượm, đánh giá tin tức về VC nằm vùng, giúp cho chính quyền thực hiện công tác bình định trong phạm vi trách nhiệm của họ.

Tác giả cuốn Sống Còn Với Dân Tộc khi nói về Mặt Trận bị giải thể, nhấn mạnh rằng các thành viên trong Chủ Tịch Đoàn ra đi “không kèn, không trống”. Trái lại, lễ khai mạc được tổ chức tại rạp Rex ở Sài Gòn, long trọng, ‘rầm rộ’.

Tại sao như vậy, tôi nghĩ rằng TT Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Mặt Trận cảm thấy đã đạt mục tiêu về phía Mỹ đòi hỏi rồi, nên không cần có lực lượng nào hậu thuẫn nữa. Đó là chưa kể đến sự kiện, suốt trong thời gian gọi là hoạt động của Mặt Trận, chẳng có gì xảy ra, ngoài một số buổi họp chiếu lệ, tẻ nhạt, của các chủ tịch trong chủ tịch đoàn chỉ có tính cách tượng trưng để quảng cáo hay tô vẽ vẻ đẹp cho chế độ. Ông Thiệu cũng chẳng đến họp. Người ta có cảm tưởng rằng các chính đảng tham dự bị TT Thiệu cầm chân. Sau đó, hầu hết các chính đảng có chân trong Mặt Trận đứng vào vị trí chống đối với TT Thiệu.

Các sự kiện này đưa đến một giải thích thứ hai là âm mưu của TT Thiệu muốn tiến tới độc tài. Ông Thiệu cho lập đảng Dân Chủ với phương tiện của chính quyền để nắm trọn quyền hành trong tay. Với Luật ủy Quyền được Quốc Hội thông qua (kể cả để chuẩn bị ứng cử nhiệm kỳ 3), TT Thiệu tính tới thiết lập quy chế chính đảng mới thay thế qui chế đã ban hành trước. Âm mưu TT Thiệu đã lộ rõ. Sắc Luật 060 vào ngày 27 tháng 12, 1972 (trước ngày hết hạn ủy quyền), đòi hỏi các chính đảng phải tái tổ chức trên phạm vi toàn quốc hay là bị giái tán. Rồi đến các luật lệ tiếp theo ban hành vào tháng 5, 1973, giải tán 26 chính đảng hợp pháp. Các đảng đó đã hội đủ điều kiện và đã đăng ký ở Bộ Nội Vụ theo luật Qui Chế Chính Đảng và đang hoạt động. Nay chỉ để một mình Đảng Dân Chủ của TT Thiệu hoạt động mà thôi, TT Thiệu đã chính thức và thành công đặt các đảng phái quốc gia ra ngoài vòng luật pháp (4).

Từ 1969, TT Thiệu quá say mê củng cố quyền hành, tập trung nỗ lực quốc gia vào mục tiêu này để tiến tới nắm trọn quyền hành trong tay. TT Thiệu đồng thời cố gắng làm xói mòn lực lượng chính trị quốc gia, đến nỗi vào tháng tư 1975, không còn ai cộng tác vào lúc cần phải huy động mọi lực lượng chính trị, cải tổ nội các để đối đầu với Tổng Công Kích của VC nhằm chiếm đoạt miền Nam.

Thực là thảm thương cho quân dân miền Nam.

Mặt Trận gồm 6 đoàn thể: Việt Nam Quốc Dân Đảng, gồm phân bộ Vũ Hồng Khanh (Bắc) hợp tác với phân bộ Nguyễn Hòa Hiệp (Nam, có sự tham dự của LS Trần Văn Tuyên), Lực Lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn gia Hiến), Nhân Xã Đảng (Trương Công Cừu), Lực Lượng Tự Do Dân Chủ (Nguyễn Văn Hướng), Dân Chủ Xã Hội Đảng (Trình Quốc Khánh của Hòa Hảo), và Đại Việt Cách Mạng Đảng.

Về sức mạnh của Mặt Trận, GS John C. Donnell trong bài thượng dẫn của cuốn sách trên, trang 156, có trích dẫn từ tài liệu “South Vietnam: Neither War nor Peace” của Allan E. Goodman đăng trong Asian Survey (Feb. 1970), nói rằng tập hợp này tượng trưng cho 40% lực lượng quốc gia dựa trên kết quả bầu cử 1967.

B). ĐÓNG GÓP VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN TẢNG CHO CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ PHÁP TRỊ.

1. ĐẠI VIỆT CÁCH MẠNG VÀ HIẾN PHÁP VNCH 1967.

Hiến Pháp là văn kiện căn bản thiết lập cơ quan chính quyền của quốc gia trong một chế độ dân chủ pháp trị.

Trước sự xáo trộn gây ra do các tướng lãnh tranh giành quyền lực, và sự lủng củng của chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu - Phan Huy Quát để tiến tới chính phủ quân nhân nắm quyền. Ban lãnh đạo Đại Việt Cách Mạng đưa ra kế hoạch 9 điểm để đối phó với tình hình: tuyên bố lập trường đối với quốc tế, đối với Cộng sản, kêu gọi áp dụng các biện pháp cần thiết để chống lại Cộng sản. Kế hoạch ấy được công bố vào tháng 5, 1965. Điểm 3 của kế hoạch nói “Để có chính nghĩa đấu tranh, chính phủ phải nỗ lực tạo dựng điều kiện tiến tới việc tổ chức bầu cử một Quốc Hội Lập Hiến, soạn thảo một Hiến Pháp dân chủ. Sau khi Hiến Pháp được ban hành, phải tổ chức bầu cử các cơ cấu quyền lực quốc gia, thành lập chính quyền dân cử”. Mục đích điều 3 này là ngăn ngừa cánh quân nhân có tham vọng nắm trọn quyền hành trong tay ngõ hầu tiến tới độc tài quân phiệt. Như thế là một thảm họa cho miền Nam. Tránh được độc tài nọ, dân tộc lại phải gánh chịu một độc tài khác, để rồi sẽ dẫn đến độc tài toàn trị của Cộng Sản. Hai phương pháp được áp dụng: Một mặt phải vận động với tướng lãnh có ảnh hưởng trong chính quyền quân nhân, vì tất cả thành viên đều là quân nhân chuyên nghiệp, và mặt khác phải phát biểu quan điểm để làm áp lực. Do đó, có một số cuộc biểu tình đã được tổ chức tại miền Trung (10 tháng 5, 1965: Tam Kỳ thuộc Tỉnh Quảng Tín; 17 tháng 5: Hương Trà thuộc Tỉnh Thừa Thiên; 24 tháng 5: Triệu Phong thuộc Tỉnh Quảng Trị), và tại miền Nam (ngày 7 tháng 5: Phước Ninh thuộc Quận Châu Thành, Tỉnh Tây Ninh, 31 tháng 5: thị xã Sóc Trăng thuộc Tỉnh Ba Xuyên) để đòi hỏi ban hành một đạo luật bầu cử quốc hội lập hiến. Chính quyền quân nhân nhượng bộ, tỏ thiện chí muốn cải tiến chế độ. Vì vậy, các cuộc biểu tình tiếp theo bị hủy bỏ.

Tham dự Bầu Cử Quốc Hội Lập Hiến

Đại Việt Cách Mạng đã tham dự cuộc bầu cử Quốc Hội được tổ chức ngày 11 tháng 9, 1966 để soạn ra một Hiến Pháp làm căn bản cho tất cả các sinh hoạt quốc gia. Trong tổng số 117 dân biểu được bầu, Đại Việt có được 9 dân biểu và 2 cảm tình viên.

Trong Quốc Hội này có 3 Khối, một dân biểu của Đại Việt Cách Mạng là GS Nguyễn Văn Ngải được bầu làm Trưởng Khối của một trong 3 Khối. Đó là Khối Đại Chúng. Ngay trong giai đoạn đầu, Khối Đại Chúng là một Khối có đa số áp đảo gồm hơn 60 ghế. Khối này có khuynh hướng độc lập. Các dân biểu khác của Đại Việt được bầu nắm chức vụ trong ban lãnh đạo Quốc Hội Lập Hiến là: Hoàng Xuân Tửu, đệ II Phó Chủ Tịch; Mai Đức Thiệp, Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Kế Toán; Nguyễn Hữu Đức, Thuyết Trình Viên Dự Luật Qui Chế Chính Đảng. Một dân biểu khác là LS Đinh Thành Châu, hiện là chủ nhà hàng Kobe ở Santa Clara, CA được bầu làm Chủ Tịch Ủy Ban Thảo Hiến.
Sau 6 tháng làm việc, ngày 1 tháng 4 năm 1967 Quốc Hội này đã cho ra đời một bản Hiến Pháp làm nền tảng xây dựng nền đệ II Cộng Hòa (5)

2. THAM DỰ VÀO SINH HOẠT TRONG NGÀNH HÀNH PHÁP VÀ LẬP PHÁP.

Hiến Pháp VNCH 1967 thiết lập tổng thống chế và quốc hội theo chế độ lưỡng viện, gồm thượng nghị viện và hạ nghị viện.

Bầu cử Tổng Thống: Hiến Pháp qui định nhiệm kỳ Tổng Thống là 4 năm. Bầu cử Tổng Thống đầu tiên của đệ II Cộng Hòa được tổ chức ngày 3 tháng 9 năm 1967. ĐVCM có liên danh Hà Thúc Ký - Nguyễn Văn Định với danh hiệu Bông Lúa. Về kết quả bầu cử, thì trong tổng số 11 liên danh, liên danh Bông Lúa đứng hàng thứ 5.

Thượng Viện: Hiến Pháp 1967 qui định Thượng Nghị Viện VNCH gồm 60 Nghị Sĩ. Để bầu 60 nghị sĩ này, các ứng viên phải được tập hợp thành từng liên danh 10 người. Như vậy cuộc bầu cử đầu tiên sẽ chọn 6 liên danh. Nhiệm kỳ của Thượng Nghị Sĩ là 6 năm. Thượng viện cũng được tổ chức bầu cử vào ngày 3 tháng 9 năm 1967. Đại Việt Cách Mạng có một liên danh đắc cử. Đó là liên danh Bông Lúa. Tại cơ quan này, Hoàng Xuân Tửu được bầu làm đệ II Phó Chủ Tịch; Nguyễn Văn Ngải, Chủ Tịch Ủy Ban Kinh Tế; Phạm Nam Sách, Chủ Tịch Ủy Ban Định Chế Tư Pháp; Nguyễn Văn Kỷ Cương, Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục.

Hạ Viện: Trong các nhiệm kỳ 1967-1971, 1971-1975 có 18 dân biểu.

Về cuộc bầu cử bán phần Thượng Viện, được tổ chức vào tháng 9, 1970. Nhiệm kỳ Thượng Nghị Sĩ là 6 năm. Để cho sinh hoạt Thượng Viện không bị gián đoạn, Hiến Pháp 1967 qui định rằng cuối năm thứ 3 của pháp nhiệm I, sẽ có một cuộc rút thăm để giữ lại 1/2 là 30 thành viên và 1/2 phải ra đi. Như vậy vào năm 1970, sẽ có cuộc bầu cử bán phần để thay 30 người phải ra đi.

Chủ Tịch Hà Thúc Ký cử tôi đứng đầu liên danh cũng lấy danh hiệu Bông Lúa. Liên danh gồm 10 đảng viên: Nguyễn Văn Canh; Đặng Văn An (Trung Tá Quân Đội); Đoàn Ý (Luật Sư); Nguyễn Bào (Giáo Sư Đại Học); Nguyễn Văn Mân (cựu Giáo Sư, cựu Thượng Nghị Sĩ pháp nhiệm I); Tôn Thất Uẩn (Kỹ Sư Điện, cựu Thượng Nghị Sĩ pháp nhiệm I); Nguyễn Văn Đại (Luật Sư); Trịnh Nghiêm (Chủ Tịch Nghiệp Đoàn Đà Nẳng); Huỳnh Văn Sang (Trưởng Ty Giáo Dục Vĩnh Bình); và Bảo Trọng (Trung Tá Cảnh sát). Kết quả được Hội Đồng Bầu Cử tuyên bố ngày 18 tháng 9, 1970: liên danh Bông Lúa đứng thứ 6, trong khi đó theo Hiến Pháp qui định, thì chỉ chọn 3 liên danh đứng đầu mà thôi (6).

Ngoài ra, nhiều đảng viên ĐVCM tham dự vào các cơ quan quyết nghị tại các cấp địa phương như Hội Đồng Tỉnh, Thị Xã, và các Xã khắp nơi trên toàn quốc.

Về hành pháp, Chủ Tịch Hà Thúc Ký làm Tổng Trưởng Bộ Nội Vụ trong một thời gian ngắn vào 1964 và Hồ Văn Châm được cử làm Tổng Trưởng Chiêu Hồi (1969).

3. THAM DỰ VÀO CÔNG TÁC BẢO VỆ VÀ CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG CƠ SỞ MÀ MỤC TIÊU LÀ LOẠI TRỪ VC NẰM VÙNG RA KHỎI NÔNG THÔN.

TẠI MIỀN TRUNG:

Công tác bình định tại Tỉnh Quảng Trị dưới thời Trần Điền làm Tỉnh Trưởng.

Quảng Trị là một tỉnh địa đầu giới tuyến đầy dẫy cán bộ cộng sản nằm vùng. Trần Điền, xuất thân là Tri Huyện, được Ngô Đình Diệm khi chấp chánh bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng. Biết tới khả năng và thực lực của Đại Việt, Trần Điền tìm đến sự hợp tác của Đại Việt, nhất là phải đối phó với Việt Minh Cộng Sản trong thời gian chuyển tiếp sau Hiệp Định Genève được ký kết. Tỉnh đã đạt: “kết quả vô cùng tốt đẹp là mới hơn nửa năm, tỉnh Quảng Trị đã vãn hồi an ninh và phát triển kinh tế, ổn định đời sống”. Thủ Tướng Diệm đến kinh lý Quảng Trị vào đầu tháng 1 năm 1955 đã “khen ngợi và ban thưởng Bảo Quốc Huân Chương cho Trần Điền.”

Cán bộ Đại Việt trong Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn và Cảnh Sát Thừa Thiên, với vụ Biến Động miền Trung.

Vào tháng 4 năm 1966, Việt Cộng lợi dụng thay đổi phương vị Tư Lệnh Quân Đoàn I của Tướng Nguyễn Chánh Thi (bị bãi chức ngày 10 tháng 3, 1966) xúi dục nhóm phản động miền Trung dưới danh nghĩa Phật Giáo đấu tranh, chống lại chính quyền trung ương. Chúng đốt phá thư viện của Hoa Kỳ tại Huế, đốt luôn cả tư gia của Tỉnh Trưởng, Trung Tá Phan Văn Khoa, xúi dục đồng bào phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường gây xáo trộn, cản trở lưu thông làm mất trật tự của thành phố Huế. Tình trạng hỗn loạn, có thể nói là vô chính phủ, bất chấp luật pháp của nhóm đấu tranh lan tràn. Vào lúc này, tinh thần của Tỉnh Trưởng Thừa Thiên đã nao núng, có vẻ đã chùn bước, mất tinh thần muốn xuống nước nhường nhóm đấu tranh. Các cơ quan hành chánh, quân sự tỉnh đã đồng loạt rút về cố thủ tại Hương Thủy do một đảng viên Đại Việt làm Quận Trưởng.

Trong hoàn cảnh đó, cán bộ Đại Việt Cách Mạng (ĐVCM) được lệnh công khai quyết liệt chống lại. Hơn nữa, ĐVCM được chính quyền trung ương triệt để ủng hộ: Ty Cảnh Sát Thừa Thiên được giao cho một đảng viên ĐVCM là Đoàn Công Lập chỉ huy để chế ngự nhóm đấu tranh tại thành phố. Đồng thời, với sự đồng ý của chính quyền, một đảng viên khác là Thiếu Tá Phùng Ngọc Sa, lúc đó đang phục vụ tại sở Ngoại Viện, Bộ Xây Dựng Nông Thôn đã được điều động ra Thừa Thiên làm Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Với trên 1,000 cán bộ trong tay, Phùng Ngọc Sa đã góp phần tích cực phối hợp với Đoàn Công Lập của Cảnh Sát đễ giữ vững tình hình tại thị xã cũng như tại nông thôn. Ngoài lực lượng cảnh sát Thừa Thiên và Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn ra, các quận quanh thành phố như Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy từ trước đã do cán bộ ĐVCM chỉ huy. Tất cả đều nhận lệnh của Đảng là phải cương quyết chống lại bọn đấu tranh.

Hai bên, Cộng Sản Bắc Việt và các cán bộ quốc gia cầm cự từ tháng 4 cho đến tháng 5, 1966, lực lượng chính phủ Trung Ương gồm 1500 Thủy Quân Lục Chiến và các biệt đoàn Cảnh Sát Dã Chiến từ Sài Gòn do Tướng Nguyễn Ngọc Loan chỉ huy được điều động ra trực tiếp can thiệp và dẹp tan cái gọi là Khối Phật Giáo Đấu Tranh.

Công tác dẹp bỏ bàn thờ Phật “xuống đường” là công tác tế nhị, cũng đã được cán bộ Đại Việt phối hợp một cách khôn khéo và êm đẹp.

Cũng cần nói thêm rằng, vào thời điểm này, Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn đã thành công khi tham gia vào công tác ngăn cản sự bành trướng của VC ở nông thôn, và rồi từ tình trạng thôn xã bị sa sút nhất, mất an ninh, vùng xôi đậu… đã trở thành những thôn xã có an ninh đúng tiêu chuẩn mà Bộ Xây Dựng Nông Thôn đề ra.

Một chi tiết cần thêm ở đây là trong cuộc ứng cử Tổng Thống năm 1967, có cuộc tranh luận diễn ra tại trường Đồng Khánh, Huế. Liên danh Bông Lúa (của Hà Thúc Ký) được nhiệt liệt hoan hô, trái lại liên danh Thiệu Kỳ bị đả kích nặng nề. Ngay buổi chiều hôm đó, Tỉnh Đoàn Trưởng Xây Dựng Nông Thôn, Phùng Ngọc Sa, bị cách chức trả về Bộ, và Nguyễn Ngọc Cứ bị Trung Tá Tỉnh Trưởng Phan Văn Khoa giải nhiệm chức vụ Phụ Tá Tỉnh Đoàn Trưởng và không cho hưởng bất cứ một trợ cấp nào…

“Sau Tết Mậu Thân, Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn bị thiệt hại nặng. Trong tình trạng đen tối đó, Tỉnh Trưởng Thừa Thiên lại tìm Nguyễn Ngọc Cứ để giao quyền chỉ huy Tỉnh Đoàn lại cho Đại Việt Cách Mạng.

Tác giả nhấn mạnh đến một nguyên tắc chỉ hướng là: “nếu muốn thành công phải có sự chỉ đạo sáng suốt của chính trị, dưới sự lãnh đạo của đảng phái chân chính, một công cụ để đấu tranh. Ngược lại muốn áp dụng hay quảng bá một đường lối có lợi cho quần chúng trong một vùng thiếu an ninh, điều kiện cần thiết là phải có sự yểm trợ của bộ phận võ trang. Lý do đó, chính trị và quân sự phải liên hoàn và được phối hợp chặt chẽ”.

TẠI MIỀN BẮC.

Nhân dịp này cũng cần thêm vào công tác bình định và xây dựng nông thôn của Đại Việt ở miền Bắc, trước năm 1954. Có 3 công tác lớn theo đuổi mục tiêu này.

Tại Bắc Việt, Thanh Niên Bảo Quốc Đoàn (TNBQĐ) do Đỗ Văn Năng làm thủ lãnh. Thanh niên BQĐ có cơ sở nhiều nơi ở nông thôn. Nha Công An Bắc Phần là do Giám Đốc Nguyễn Đình Tại, xuất thân là Tri Huyện điều khiển. Đoàn Quân Thứ Lưu Động (GAMO: Groupements Administratifs Mobiles Operationnels) dưới sự điều động của Đỗ Đình Đạo, rồi Trần Như Thuần (cựu Tri Huyện). Công tác của Đoàn Quân Thứ Lưu Động gồm cả quân sự lẫn chính trị: tổ chức lại và bảo vệ cơ quan hành chánh tại xã ấp sau khi Pháp đã giải phóng khỏi tay Việt Minh Cộng Sản. 15 Đoàn Quân Thứ Lưu Động hoạt động mạnh tại nhiều tỉnh ở miền Bắc.

Vào giữa thập niên 1990, tôi có gặp một sinh viên người Pháp đến xin phỏng vấn để viết luận án tiến sĩ với Đại Học tại Paris về thời kỳ trước Hiệp Định Genève ở Bắc Việt. Anh này cho biết rằng, anh ấy có tìm thấy một báo cáo của một Đại Úy Pháp thuộc Tâm Lý Chiến, khuyến cáo Tổng Tư Lệnh Pháp ở Đông Dương đừng ngăn cản Đại Việt mà trái lại phải trợ lực cho họ hoạt động và thực hiện công tác của họ.



Hơn 30 trang cuối, tác giả nói về những ngày cuối cùng của VNCH. Những chi tiết liên hệ cũng là những tài liệu quí báu để cho những ai muốn biết về sự kiện trong giai đoạn đen tối của lịch sử dẫn đến miền Nam lọt vào tay Cộng Sản, thay vì miền Nam phải giải cứu Đồng Bào miền Bắc khỏi gông cùm của Cộng Sản.



Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, tác giả sa vào vòng tù tội từ tháng 10, 1956 mãi cho tới ngày 3 tháng 11 năm 1963, sau ngày đảo chính, mới được thả. Tác giả đã trải qua hơn năm năm bị giam cầm gồm cả bị biệt giam tại xà lim, chưa kể đến vợ và con út của tác giả (mới chỉ có 3 tháng tuổi) cũng bị giam cầm gần 3 năm, chỉ vì chồng và cha tham gia chống đối chế độ. Cho dù là như thế, nhưng trong suốt cuốn hồi ký Sống Còn Với Dân Tộc, tác giả không có một chữ hay một câu văn ngụ ý đến oán hận nhà Ngô mà ngược lại còn ca tụng, thương tiếc (tr.360). Đó là một điểm đặc sắc, hiếm có mà người đọc cần nhận diện qua cuốn tài liệu này.



Về hình thức, lời văn rất thông thoáng, nhẹ nhàng, dễ đọc. Sắp xếp bố cục có lớp lang. Tác giả đã tài tình dùng một số câu tục ngữ, ca dao, hay trong văn chương bình dân để diễn tả một hình ảnh nào đó. Thí dụ như “đường dài ngựa mỏi chân bon”, “vật đổi sao dời”, “cảnh cũ còn đó, nhưng người xưa nay đâu?”, “tuyệt tích giang hồ”…

Sống Còn Với Dân Tộc là cuốn hồi ký có giá trị, có sức thu hút lớn.

Nguyễn Văn Canh
Sept 10th, 2009

Chú Thích:

(1). Chức vụ này được thiết lập vào cuối năm 1972 để chuẩn bị đối phó với Sắc Luật 060 mà TT Thiệu ký ngày 27 tháng 12 năm đó, có mục đích giải tán các chính đảng đã hợp thức hóa theo luật cũ và chỉ để Đảng Dân Chủ của ông Thiệu là đảng duy nhất có đủ điều kiện hoạt động. Đại Việt Cách Mạng cũng như tất cả các chính đảng khác sẽ bị “đặt ra ngoài vòng pháp luật”. ĐVCM phải chuẩn bị vào vị trí hoạt động bí mật như dưới thời thực dân Pháp đô hộ. Mặt khác, cũng để đối phó với tình thế mà Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải ký vào Hiệp Định Paris (ký ngày 27 tháng 1, 73) và sẽ thi hành Hiệp Định đó.

(2). Nguyễn Bảo Toàn nguyên là Tổng Thư Ký, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng (gọi tắt là Dân Xã Đảng) từ thời Đức Huỳnh Phú Sổ còn sống, là Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng. Hội Đồng này gồm cả Cao Đài (Hồ Hán Sơn, đại diện của cánh Nguyễn Thành Phương, ở bên ngoài về và Nhị Lang của cánh trong nội thành). Ngoài ra, còn nhiều lực lượng khác. Hội Đồng có mục đích là truất phế Bảo Đại qua cuộc trưng cầu dân ý, để ông Diệm thay thế Bảo Đại, và rồi làm Dự Thảo Hiến Pháp để thiết lập nền Cộng Hòa và Thủ Tướng Diệm sẽ là Tổng Thống. Có người cho rằng sở dĩ Nguyễn Bảo Toàn bị thủ tiêu, bắt nguồn từ quan điểm là Hội Đồng chỉ ủy quyền (cho phép) cho ông Diệm 3 tháng để tổ chức trưng cầu dân ý và lập Hiến Pháp. Riêng điều này không thôi đã làm cho ông Diệm phật lòng, vì giới hạn quyền hành của ông ấy, và là nguyên do sự ra đi vì chống đối của Nguyễn Bảo Toàn. Sau đó, ông ta bị thủ tiêu…

(3) Có sự bắt bớ và giam cầm một số cán bộ Đại Việt. Một vài thí dụ tiêu biểu:
a) Đảng viên gốc miền Bắc: Trần Việt Sơn, Nguyễn Văn Ngải, Đinh Văn Lục…
b) Đảng viên gốc miền Trung: Lê Phùng Thời (theo tác giả thì Lê Phùng Thời chỉ là cảm tình
viên của ĐVCM), Hà Thúc Ký, Đoàn Thái…
c) Đảng viên gốc miền Nam: Lê Xuyên (tác giả nhiều tiểu thuyết), Nguyễn Kim Vui, Đỗ Văn Thọ… Những người này là do Ty Đặc Cảnh miền Đông bắt.

Các vụ bắt bớ về sau này mới do Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung mà Dương Văn Hiếu là người đứng đầu, thực hiện.

Cơ quan Mật Vụ của Nhà Ngô đã áp dụng những biện pháp tra tấn dã man mà thực dân Pháp để lại đối với các tù nhân. Cựu Nghị Sĩ Nguyễn Văn Ngải cho biết cho đến nay ông vẫn còn gánh hậu quả của tra tấn. LS Đinh Thạch Bích cũng chịu cảnh đó. Riêng, đối với KS Hà Thúc Ký, Nhà Ngô không áp dụng các hình phạt này.

(4) John C. Donnell, “Prospects for Political Cohesion and Electoral Competition”, in trong cuốn “ Electoral Politics in South Vietnam” của John C. Donnell & Charles A. Joiner , tr.160, Lexington Book, 1974.

(5) Về tài liệu liên quan đến Hiến Pháp Đệ II Cộng Hòa, trong thời gian tôi làm Đồng Giám Đốc với Doug. Pike, Dự Án Oral Life History, Văn Khố Đông Dương thuộc Viện Nghiên Cứu Đông Á, Đại học Berkeley, tôi có nhờ anh Ngô Ngọc Trung, một viên chức được cử làm Giám Đốc Điều Hành Dự Án, cho sắp xếp lại biên bản của Ủy Ban. Tài liệu này rất dày, lên tới 1 thước tây. Vào khoảng giữa thập niên 1990, khi Doug. Pike chuyển sang Vietnam Center, Tech. Texas University, ông ấy cho chuyển một số tài liệu của Văn Khố Đông Dương sang Texas. Tôi có lưu ý rằng tập tài liệu này cần được lưu trữ tại Đại Học Berkeley và nay dù Văn Khố này đã giải tán, tập hồ sơ quan trọng này được giao cho Steve Denney cất giữ. Hiện nay Steve đã chuyển sang làm việc tại Tổng Thư Viện của Đại Học Berkeley.

Tôi nghe có người nói đến Dự Thảo Hiến Pháp mới cho nước Việt Nam sau khi VC ra đi. Vậy có ai muốn tham khảo tài liệu liên quan đến Hiến Pháp Đệ II Cộng Hòa này, có thể tiếp xúc với anh Nguyễn-Tấn Thọ qua email: thonguyentan@yahoo.com, để nhờ anh Ngô Ngọc Trung sắp xếp với Steve Denney.

(6). Kết quả sở khởi công bố ngày 18 tháng 9,1970 Liên Danh Bông Luá đứng hàng thứ 6 với 628,992 phiếu. Sau 2 tháng kiểm lại phiếu, liên danh này lên hàng thứ 4.

12 THÁNG ANH ĐI