1 thg 1, 2010

Lời Tự Tình Cuối Năm 2009 Của Người Lính Già Nơi Xóm Biển

Mường Giang

Sau khi Hà Nội cưỡng chiếm VNCH ngày 30-4-1975, nhiều nhà sử học trên thế giới đã miệt mài nghiên cứu để tìm hiểu về biến cố quan trọng này, rốt cục đã cùng chung kết luận rằng “Sự thất bại là do các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, hầu hết đều thiếu hẳn một ý thức lịch sử đứng đắn khi giao tiếp với Việt Nam".

Theo tài liệu được giải mật, ngay từ thời Tổng Thống Roosevelt có liên hệ tới cuộc chiến Ðông Dương lần thứ 2 giữa Pháp và Việt Minh, nhưng ông hoàn toàn không biết một chút gì về đất nước mà mình sắp can dự, ngoài việc mơ hồ nghĩ rằng, đây chỉ một quận huyện của Trung Hoa.

Bởi vậy có lúc Mỹ muốn giao VNCH cho Ðài Loan. Tệ hơn, có nhiều kẻ, với thói quen con buôn của người Mỹ chỉ đặt quyền lợi của mình trên hết, nên đã coi tất cả các quốc gia khác là một "hiện tượng chung", cuối cùng bị lầm lạc khi can thiệp vào nội bộ của họ.

Ðó là trường hợp của Tổng Thống Nixon vì muốn chia rẽ khối Cộng Sản, giao kết với Trung Cộng để chống Liên Xô, nên đã bán đứng VNCH cho Bắc Việt. Ðó là Tổng Thống Bill Clinton sau đó G.W. Bush.. vì quyền lợi của Mỹ, đã không thèm đếm xỉa đến nhân đạo, nhân quyền, khi quyết định bãi bỏ lệnh cấm vận và nối lại ban giao từ năm 1995 với nguỵ quyền Cộng Sản Hà Nội, một chế độ tham tàn bạo ác, độc tài đảng tri đang bị nhân loại và toàn dân VN hận thù nguyền rủa.

Hình như Hoa Kỳ vẫn chưa thức tỉnh sau thất bại trong cuộc chiến vô duyên ở Ðông Dương khi tự trói tay mình và QLVNCH.
Trái lại người Pháp sau thất bại ở Ðông Dương năm 1954 đã viết: ”VN là một quốc gia hoàn chỉnh và hoàn toàn ý thức được lịch sử của mình. Với lòng tin truyền thống sắt đá, gắn chặt với tình yêu nước tha thiết nồng nàn. Bởi vậy chỉ có người Việt mới là kẻ quyết định cuối cùng về vận mệnh đất nước và dân tộc mình.”

A. Pazzi trong tác phẩm “ Người Việt cao quý “ cũng viết: Dân Việt tự cường bất khuất. Qua cái tinh thần ấy, đã khiến một quốc gia bé nhỏ, hằng chục thế kỷ bị ngoại bang xâm lăng nhiều nhất nhưng lại quật khởi oai hùng bậc nhất trên thế giới. Trung Hoa, Chiêm Thành, Mông Cổ, Nhật Bản, Hòa Lan, Tây Ban Nha, Pháp và cả Hoa Kỳ... vì không đi vào bề sâu của lịch sử Việt, nên không hiểu hết sức mạnh và sự to lớn của tinh thần ấy, nên họ đã thất bai. Ðế quốc Cộng Sản đang cai trị tại VN cũng sắp tàn lụn, khi nhận được sức mạnh ấy nhưng giờ đây thật quá muộn màng.

Quá khứ của lịch sử là sinh mệnh của đất nước nên chẳng bao giờ gián đoạn. Vì vậy những gì mà tổ tiên ta đã làm để dựng và giữ nước hôm qua, thì hôm nay cũng được con cháu nối tiếp. Thời Bắc thuộc 1000 năm, Mã Viện dựng cột đồng khắc chữ “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, đã khiến cho dân chúng khi qua chỗ ấy, ai cũng bỏ đá vào chân cột đồng, đến nỗi về sau vùng này thành núi đá. Trong hoàn cảnh châu chấu đá xe, nền văn minh cổ đại của Việt tộc là chống giặc ngoại xâm, mà trống đồng là biểu tượng vật tổ thần bí.

Những anh hùng liệt nữ có công diệt giặc cứu nước, bất kể là quan, quân sĩ thứ đều được thờ phụng kính trọng, tạo thành một tôn giáo đặc biệt tại VN. Cũng do lòng ái quóc mà người Việt có sức mạnh bám chặt lấy đất, giữ làng , nên dù bị Tàu, Pháp đô hộ, người Việt vẫn không bị đồng hóa, trái lại nhờ biết lợi dụng được cái hay của người, để sống mạnh hơn lên.

Từ 1955-1975, Cộng Sản Hà Nội chiếm nửa quốc gia từ Bắc vỹ tuyến 17 trở ra. Rồi tháng 5/1975 tới nay VN hoàn toàn bị nhuộm đỏ bởi chủ thuyết vô thần Mác-Lê. Ðất nước thống nhất nhưng không tự chủ vì vẫn nô lệ Trung Cộng, hòa bình nhưng toàn dân sống đói khổ lạc hậu vì đảng độc tài tham nhũng từ trên xuống dưới, dâng đất bán biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc.

Tóm lại, chỉ mới một phần tư thế kỷ bị rợ Hồ đô hộ, hầu như nền văn minh văn hóa, truyền thống xã hội gia đình của người Việt bị tan rã vì sự vô lương, vô tâm, vô tình, vô trách nhiệm của những kẻ cầm quyền trị nước, phần lớn dốt nát, tham lam và tàn bạo, nếu đem so sánh thì đâu có thua gì Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Ðông, Stalin.. thời trước.

1418-1427, mười năm kháng chiến chống giặc Minh vô cùng gian nan tân khổ. Hình ảnh của Bình Ðịnh Vương Lê Lợi, vẫn như đang hiện ra trước mặt mọi người với những lời thơ hào khí ngất trời của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Ðại Cáo:

”Gươm mài đá, đá núi cũng mòn.
Voi uống nước, nước sông cũng cạn.
Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi.
Hoàng Phúc tự trói để ra hàng
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường
Xương Giang Bình Than, máu trôi đỏ nước..”


Tinh thần lịch sử ngàn đời và truyền thống này được người Việt trong ngoài nước tiếp nối bằng máu lệ trên con đường quang phục chính nghĩa dân tộc, đất nước khỏi ách nô lệ chủ nghĩa Cộng Sản. Cuối Chạp năm nay sắp bước vào ngưởng cửa năm 2010, sau ba mươi bốn năm đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, trong nước ngụy quyền đang ngoi ngóp chờ giờ đền tội, chúng điên cuồng đàn áp, bắt bớ và bách hại toàn dân cả nước khi họ dám công khai đứng lên quyết tâm chống giặc Tàu đang được Việt Cộng rước về tàn phá và thôn tính non sông Việt.

Khắp nơi tại hải ngoại, người tị nạn đã bừng tỉnh sau giấc ngủ trầm kha, trước sự bao hành trên đội dưới đạp của ngụy quyền Hà Nội, qua những hành động thẳng tay cướp của giết người. Lại đem Hoàng Sa, Trường Sa, biên giới, vịnh Bắc Việt, cao nguyên Trung Phần.. giang sơn gấm vóc của tiền nhân, dâng hiến cho kẻ thu Tàu đỏ.

Với bọn tư bản da trắng da vàng, ngụy quyền Hà Nội quỳ luỵ xin tiền, làm mất hết hùng khí của một dân tộc hào hùng, để chúng lộng hành bốc lột, hà hiếp đồng bào. Từ đó coi rẽ sự cao quý của người phụ nữ VN, sự trang đài và diễm tuyệt nổi tiếng khắp thế giới của phụ nữ Việt nay đã bị bôi nhọ vì một thiểu số đĩ điếm do đảng trộn trấu với mục đích kéo hết mọi người xuống vũng bùn tanh hôi xã nghĩa. Cả một tập đoàn thối nát, lập đảng với Năm Cam, vơ vét bạc vàng, chuyển ngân hợp pháp ra hải ngoại, mở chợ, đài phát thanh, ra báo, tiệm vàng, tiệm phở... hả hê ăn sung mặc sướng trên máu và nước mắt của dân lành.

Trước nợ nước thù nhà, bao đời sự hưng vong của Quốc Gia là trách nhiệm của người cả nước, chứ không phải chỉ do ‘thất phu hữu trách‘ theo quan niệm lỗi thời, mục đích cũng chỉ để làm tăng cái hư danh của bọn ‘trí thức khoa bảng‘ mà ai cũng nghe tiếng biết mặt qua cái gọi là ‘hội ngộ Việt kiều tháng 11/2009' tại Hà Nội.

Một hãnh diện cao quý khác mà ngày nay khiến hầu như ai cũng phải xúc động: Ðó là QLVNCH vẫn không hề rã ngủ sau ba mươi bốn năm phải buông súng đầu hàng theo lệnh thượng cấp. Trái lại càng lúc càng lớn mạnh dù họ không có vũ khí và đơn vị. Cũng không hề bị câu thúc bởi một cấp chỉ huy hay kỷ luật nào. Tất cả những người còn sống sót sau cuộc đổi đời, ngục tù, hành hạ, đang sống trong nước hay vất vưởng nơi góc bể chân trời. Họ là những người lính Dù, TQLC, Biệt Ðộng Quân, Lực Lượng Đặc Biệt, Thiết Giáp.. một thời anh hùng kiêu dũng khắp bốn vùng chiến thuật.

Họ là những phi công, pháo thủ, nhựng chiến sĩ hải quân, hải thuyền.. tung hoành trên trời dưới biển, từng làm khiếp vía giặc thù. Họ là các chiến sĩ Bộ Binh, ÐPQ-NQ, những cảnh sát dã chiến, cán bộ xây dựng nông thôn, nhân dân tự vệ, kể luôn những công chức các ngành, một thời góp phần xương máu xây dựng và gìn giữ quê hương miền Nam. Tất cả không một ai chịu rã ngũ và đang như còn trong đơn vị ngày nào bởi vì tổ quốc, danh dự trách nhiệm đang mong đợi sự góp sức của toàn dân.

Những người ngoại quốc đến VN trước khi đất nước chưa bị Cộng Sản đô hộ, đi khắp từ ải Nam Quan tới Mũi Cà Mau, không thấy đền đài cung điện nguy nga tráng lệ như ở bên Tàu, Thái Lan, Ấn Ðộ hay cả Kampuchia. Ðiều này chứng tỏ tại VN không có ai thống trị ai, qua cái hình ảnh ta đã tìm thấy trong tác phẩm cổ Việt “Việt Ðiểu Sào Nam Chi” nói lên cái lối sống tự do, tự tại và hào phóng của dân tộc Việt.

Câu chuyện làm nhớ lai năm 1995 trong một cuộc họp mặt thân hữu tại Colorado, cố Tổng Thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu trả lời một câu hỏi của một bạn trẻ về dự định chính trị tương lai. TT Thiệu lúc đó đã trả lời là ông không hề cũng như không bao giờ có ý định trở lại chính trường, vì mang trách nhiệm làm sụp đổ đất nước khiến bao chiến hữu phải chết, chịu ngục tù, làm dân lành khốn khổ lầm than. Ông chỉ muốn góp phần nói lại cái kinh nghiệm đau thương của một dân tộc nhược tiểu, cái hèn nhục của một nhà lãnh đạo vì thời thế mà phải thế thời, khiến muôn đới mang tiếng nhục. Tiếc thay đến chết, ông vẫn không viết được một lời tạ tội với quốc dân đồng bào.

Mấy năm trước, trong Tiền Đại Hội Cựu Chiến Sĩ Hải Ngoại tại thủ đô Hoa Thịnh Ðốn, qua cuốn video ghi lại cuộc bầu cử Ủy Ban Phối Hợp Ðại Hội Toàn Quân. Trong phòng lúc đó có sự hiện diện của nhiều cựu tướng lãnh QLVNCH là các Tướng Phạm Văn Ðổng, Phó Ðề Ðốc Ðinh Mạnh Hùng, Phó Ðề Ðốc Lâm Minh Tánh, Tướng Lê Minh Ðảo, Nguyễn Duy Hinh và Trần Quang Khôi cùng nhiều sĩ quan cấp tá.. Nhưng hầu như tất cả đều từ chối chức vụ.

Cảm động thay qua lời phát biểu của Tướng Lê Minh Ðảo, tư lệnh SD18BB cũng là tư lệnh chiến trường Xuân Lộc, Long Khánh vào tháng 4/1975, một người bị tù Cộng Sản lâu nhất đã nói “Quân nhân các cấp của QLVNCH, dù di tản hay ở lại, bị bắt hay đi trình diện, tất cả đều có bổn phận trách nhiệm về sự làm sụp đổ VNCH, cho nên không ai còn ham muốn chức vị, mà chỉ mong như mọi người, được tại ngũ để cùng góp phần quang phục đất nước, đánh đuổi giặc Tàu, dành lại quê hương đã mất“.

Ôi cao quý thay cho những người lính già, có lẽ vì đại nghĩa mà Quân Lực VNCH sau một thời gian dài bị phân hoá, bị lợi dụng, nay đã thực sự vào hàng. Ngoài ra bên cạnh còn có nhiều con em chúng ta góp phần xây dựng nên một lực lượng vững mạnh, đoàn kết. Tinh thần anh hùng của dân tộc đã sống lại. Tất cả cùng hẹn trong những ngày sắp tới của năm 2010, quyết lấy máu thay mực, viết thêm vào bản Bình Ngô Ðại Cáo, thề lật đổ bạo Hồ để dành quyền tự chủ đứng dậy ngăn chống giặc Tàu đỏ, đang thôn tính VN từng giờ.

“Ðoạt sáo Chương Dương Ðộ
Cầm Hồ Hàm Tử Quan..”


Tiếng trống đồng đang hồi giục giã, giọng ngâm thơ sang sảng kiêu hùng, đang đợi chờ mọi người. Và chỉ có người Việt mới quyết định được tương lai cho đất nước và dân tộc mình. Chúng ta những người lính già hôm nào, sẽ không lo sợ vì câu hỏi quá khứ nhân sinh trên lịch sử, làm sao diễn lại một lần nửa, trong công cuộc tiêu diệt giặc Tàu, khi Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung.. đã đi vào thiên cổ.

Bởi vì hồn nước, hồn Việt của thế hệ chúng ta đã được thế hệ thứ hai nối tiếp. Họ chính là hình ảnh hào hùng của ông cha và ta năm nào. Với quyết tâm của muôn người hôm nay, chúng ta nhất định thắng bạo Hồ và giặc Tàu xâm lược.

Ngày xưa, Cộng Sản lấy chiêu bài no cơm ấm áo, độc lập tự do để dụ dỗ mọi người. Hôm nay chúng ta lấy tình thương, tình người và tình nước làm lá cờ đaị nghĩa để diệt giặc, sợ chi không công thành. Con người sống cao lắm là 100 tuổi, nhưng nếu không làm gì cho đất nước thì có ích gì? Thắm thiết thay lời thơ của Nguyễn Bá Trạc:

“Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối với vỏ cây?”


Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Cuối Chạp 2009
MƯỜNG GIANG

12 THÁNG ANH ĐI