16 thg 2, 2010

Việt Nam: Quân bài domino đầu tiên của châu Á

Shawn W Crispin, Asia Times (Hoàng Quân chuyển ngữ)
10.02.2010

BANGKOK – Trong khi thị trường thế giới đang lo lắng về những món nợ tiền của châu Âu, liệu Việt Nam có trở thành quân cờ domino kinh tế sẽ sụp đổ do chi tiêu kích thích kinh tế quá trớn đầu tiên của châu Á hay không? Với đồng tiền đồng bất ổn, nạn cho vay tín dụng lỏng lẽo và ồ ạt của ngân hàng, cùng với sự bất tín nhiệm vào khả năng điều hành kinh tế của chính phủ, Việt Nam nổi lên như là một ứng cử viên chính trong vùng cho việc bất ngờ tái định giá thị trường do tác động tài chánh gây ra bởi việc chi tiêu tài khóa ào ạt nhưng thường xuyên phân bổ không hợp lý mới đây.

Đằng sau việc bơm một lượng tiền khổng lồ vào thị trường để kích thích kinh tế của chính phủ, năm ngoái Việt Nam đã vượt xa nhiều quốc gia trong vùng với 5.5% GDP tăng trưởng. Để ngăn chặn ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, chính phủ đã hứa chi nhiều gói kích thích kinh tế với tổng trị giá lên đến 8% của GDP. Mặc dù chưa tới một nửa số đó đã thực sự được giải ngân, việc chi tiêu theo ngân sách và việc cho vay ngoài ngân sách của ngân hàng nhà nước đã giúp đẩy nền kinh tế vượt qua được cuộc khủng hoảng toàn cầu.

Trước những dấu hiệu hồi phục trên toàn cầu, chính phủ do đảng Cộng Sản lãnh đạo đã phát đi tín hiệu sẽ ghìm lại những gói kích thích và sẽ đưa kinh tế trở lại phát triền bằng định hướng xuất khẩu. Nhưng do thiếu sự kết hợp đồng bộ giữa những cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nên đã làm xói mòn thêm niềm tin của dân chúng vào khả năng kiểm soát lạm phát của chính phủ trong tương lai và đã làm yếu đi đến một mức đáng kể những nổ lực của trung ương muốn kìm hãm những áp lực đối với đồng nội tệ và thị trường bất động sản đang trở nên quá nóng.

Tình trạng đoạn giao giữa mệnh lệnh của trung ương với phản ứng bất tuân của địa phương đã hiện rõ lên từ năm ngoái khi những ngành công nghiệp xuất khẩu đã từ chối đổi ra tiền mặt số tiền đô mà họ thu về từ hoạt động xuất khẩu theo tỉ giá hối đoái chính thức qui định giữa tiền đồng đối với tiền đô la Mỹ. Vào tháng Mười, khoảng cách sai biệt giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen là 9%, hiện trạng này đã buộc chính phủ vào tháng Mười Một phải phá giá 5% đồng tiền đồng bằng cách nới rộng biên độ giao dịch cho phép của nó. Mặc dù với mức phá giá như thế, những nhà phân tích tài chánh theo dõi sát tình hình cho rằng vẫn còn 5% chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá chợ đen.

Một yếu tố làm nảy sinh ra tình trạng méo mó này chính là do chính sách hỗ trợ lãi xuất của chính phủ, mà đã được triển khai từ năm ngoái như là một phần trong gói kích thích nhằm thúc đẩy hơn nữa việc cho vay ở trong nước. Chính sách này đã làm giảm một cách hiệu quả lãi xuất cho vay từ 10% xuống còn 6.5%, và đã thúc đẩy một đợt cho vay mới có trị giá rất lớn lên tới khoảng 24 tỷ USD, hoặc bằng khoảng 23% của GDP. Theo Standard & Poor’s, một cơ quan tính toán định mức tín dụng, mức tăng trưởng tín dụng cho vay của Việt Nam tăng 37% so với năm trước.

Những nhà phân tích tài chính nói rằng vì lý do hầu như không có nhu cầu sử dụng vốn lưu chuyển giữa những doanh nghiệp nhà nước và những công ty xuất khẩu tư nhân mà đã nhận được những khoản tín dụng mới với giá trị rất lớn, nên phần lớn nguồn tiền đã được xoay vòng ở thị trường chứng khoán trong nước. Nguồn thanh khoản tiền mặt quá lỏng lẽo không được kiểm soát đã giúp thị trường chứng khoán của Việt Nam trở thành một trong những thị trường hoạt động sôi nổi nhất trên thế giới suốt nửa đầu năm 2009; nhưng rồi đã tuột dốc thảm hại trong nửa năm về sau.

Những nhà phân tích tiền tệ và tài chánh không biết rõ là đã có bao nhiêu trong số 24 tỷ USD từ đợt cho vay năm ngoái đã bị thua lỗ vào trò may rủi trên thị trường chứng khoán. Kim Eng Tan, một nhà phân tích tài chánh và tiền tệ của Standard & Poor’s, ban đầu đã bày tỏ quan ngại của mình về tốc độ tăng 37% của các khoản nợ vay hồi năm ngoái. Ông Tan nói rằng bản cân bằng kế toán của những ngân hàng chính của Việt Nam ở “tình trạng tương đối hợp lý” tại thời điểm cuối năm 2008, nhưng nói thêm rằng “chúng ta cần theo dõi xem những gì đã thay đổi kể từ sau đợt sóng cho vay mới.”

Từ quan điểm của chính phủ, đợt cho vay tiền dễ dãi đó là nhằm để ngăn ngừa trước một đợt thất nghiệp tăng cao vào ngay thời điểm những công nghiệp xuất khẩu có sử dụng số lượng đông nhân công đang phải đối mặt với tình trạng gần như sụp đổ trong nền mậu dịch toàn cầu. Giới lãnh đạo Đảng Cộng Sản không muốn để tái diễn tình trạng bất ổn xã hội như đã xảy ra vào năm 2008, khi mà nạn lạm phát tăng lên đỉnh điểm vượt hơn mức 25% và tình trạng công nhân gây bất ổn xã hội xảy ra tràn lan trong những xí nghiệp do địa phương cũng như ngoại quốc làm chủ trên khắp cả nước.

Nạn lạm phát phi mã cũng góp phần vào hiện trạng khiếm hụt thanh khoản đang nổi bong bóng do những công ty hùa nhau tích trữ một lượng lớn hàng hóa nhập khẩu để hưởng lợi do dự đoán giá cả và nhu cầu ngày càng tăng cao. Việc mất quyền kiểm soát kinh tế được cho là đã làm suy yếu vị thế của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người có khuynh hướng cải cách tự do mà một số nhà phân tích đánh giá là đã tránh được khỏi cơn lạm phát lớn cực độ của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và sự sụp đổ giá cả hàng hóa tiêu dùng liên đới. Một số nhà phân tích tin tưởng rằng cánh bảo thủ trong đảng sẽ dành lại ưu thế trong kì đại hội Đảng lần thứ 11 sẽ nhóm họp vào tháng Một năm 2011.

Giáo sư Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt Nam thuộc Học Viện Quốc Phòng Úc, đã chỉ ra trong những báo cáo rằng cánh bảo thủ trong đảng trong một phiên họp ban chấp hành trung ương năm 2008 đã đòi Nguyễn Tấn Dũng từ chức vì bị cho là đã điều hành kinh tế sai lầm. Sự chia rẻ trong chính sách chính giữa cánh bảo thủ và cánh tự do trong đảng khiến sẽ ảnh hưởng đến tốc độ cũng như phạm vi hội nhập của Việt Nam với nền kinh tế toàn cầu và ảnh hưởng của nó đối với sự ổn định trong nước và khả năng kiểm soát của nhà nước đối với nền kinh tế, theo lời của giáo sư Thayer.

“Cánh bảo thủ muốn duy trì quyền cai trị độc đảng, bảo đảm ổn định và trật tự và quyền kiểm soát của nhà nước trong những thành phần mấu chốt của nền kinh tế, mà họ bảo là “những con bò sữa” của họ, giáo sư Thayer viết trong một điện thư trao đổi với Asian Times Online. “Rõ ràng là việc cải cách những doanh nghiệp nhà nước đã lâm vào bế tắc, đó là một minh chứng. Những ai [giống như ông Dũng] muốn thúc đẩy gia tăng hội nhập toàn cầu đều muốn thấy những lực lượng thị trường đóng một vai trò lớn hơn.”

Giữa lúc chương trình tự do hóa tài chánh và kinh tế mở rộng của ông Dũng vẫn còn vận hành, có những dấu hiệu cho thấy những thành phần bảo thủ đang ra sức gây ảnh hưởng lên việc điều hành kinh tế. Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam yêu cầu những ngân hàng nhỏ, mà đã góp sức tao ra cuộc lạm phát thông qua đợt cho vay đại trà vào năm 2008, phải tăng gấp ba nguồn vốn căn bản trước cuối năm, nếu không thì sẽ bị cho đóng cửa. Chính phủ cũng đã ra lệnh đóng cửa những sàn trao đổi vàng trên toàn quốc – một qui định hạn chế sẽ có hiệu lực vào tháng ba trong nổ lực nhằm ngăn chặn người dân bán tống đồng tiền đồng để đổi lấy vàng.

Áp Lực và Biến Dạng

Những thử nghiệm mang tính chất kỷ trị mới đang nổi lên với những dấu hiệu của nạn lạm phát, thâm hụt mậu dịch gia tăng và áp lực đè nặng kéo dài lên đồng tiền đồng trong thế mặt đối mặt với với đồng đô Mỹ đang yếu đi trên khắp toàn cầu. Cho dù với đợt phá giá 5% của đồng tiền đồng vào tháng Mười Một năm ngoái và việc tăng lãi xuất căn bản từ 10% lên 12%, những công ty quốc doang và tư nhân vẫn tiếp tục đầu cơ vào đồng tiền đô chứ không phải tiền đồng, chứng tỏ sự mất tin tưởng của người dân vào khả năng hay ý chí muốn kiểm soát lạm phát của Ngân Hàng Nhà Nước.

“Ngân hàng trung ương cần phát đi một tín hiệu khá kiên quyết tới thị trường rằng họ sẽ sẵn sàng bảo vệ biên độ dao động của đồng tiền, có lẽ bằng việc nâng lãi xuất cao hơn nữa,” Sriyan Pietersz, trưởng nhóm nghiên cứu của J P Morgan ở Bangkok. Nếu không làm được như thế, họ phải đối mặt với rủi ro có thể mất đi nguồn vốn FDI [Đầu Tư Trực Tiếp Ngoại Quốc] tiềm năng đang đổ vào vì lý do đồng nội tệ không ổn định.”

Hôm tháng Giêng, Chính phủ đã bán được 1 tỷ Mỹ Kim trái phiếu cho những nhà đầu tư ngoại quốc, nhưng những nhà phân tích lại cho rằng như thế vẫn chưa đủ để làm giảm áp lực đang đè năng lên đồng nội tệ. Trong tháng này, đồng nội tệ chắc sẽ hưởng được một đợt giảm áp lực ngắn nhờ vào việc thanh toán tiền trả vào nhân dịp nghỉ lễ Tết, nhưng nhiều nhà phân tích tin rằng Ngân Hàng Nhà Nước cần nâng lãi xuất lên ít nhất 3% nữa để áp một mức thuế trừng phạt đối với những ai muốn chuyển đổi tiền đồng để lấy tiền đô.

Trong lúc Ngân Hàng Nhà Nước chỉ là nguồn chính thức duy nhất cho việc chuyển đổi ngoại hối trong nước, chính phủ vẫn duy trì những biện pháp kiểm soát về vốn thật gắt gao nhằm để bảo vệ đồng tiền đồng. Theo luật định, những công ty và những xí nghiệp chỉ được phép giữ lại một lượng ngoại tệ vừa đủ để trả nợ và chi trả những thương vụ hiện hành. Tuy vậy, cho đến quí ba năm ngoái, có tới 27% lượng thanh khoản thuộc hệ thống lài chánh nội địa đã được lén đổi qua thành tiền đô Mỹ, theo báo cáo của JP Morgan.

Bất chấp những biện pháp kiểm soát đồng nội tệ đã ban hành, theo ước tính những doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ khoảng 10 tỷ trị giá bằng ngoại tệ mà phần lớn là đồng đô Mỹ. Đáng chú ý, mới đây, họ đã quyết liệt phản đối một thông tư do chính phủ ban hành đặc biệt nhắm vào 10 doanh nghiệp nhà nước lớn, gồm Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam, Tập Đoàn Than Khoán Sản Việt Nam, và Tổng Công Ty Hóa Chất Quốc Gia Việt Nam, và yêu cầu những doanh nghiệp này phải chuyển đổi đồng đô họ đang nắm giữ để lấy tiền đồng.

Theo thông tư này, các doanh nghiệp nhà nước đáng ra đã phải nộp vào hơn 3 tỉ đô trong số ngoại hối mà họ đang nắm giữ cho Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam trước cuối năm ngoái; nhưng mãi đến đầu tháng Hai, họ chỉ mới chuyển vào 300 triệu đô, các nhà phân tích theo dõi tình hình cho biết. Việc bất tuân chỉ thị này, cùng những nhà phân tích đó cho biết, đã khiến cho Ngân Hàng Nhà Nước lần khân không muốn bơm thêm thanh khoản cho thị trường nhằm để bảo vệ đồng nội tệ. Theo các thống kê chính thức thì Ngân Hàng Nhà Nước hiện giữ một lượng dự trữ ngoại tệ trị giá khoảng 16 tỉ đô.

Trong khi Việt Nam rõ ràng là rập khuôn theo lề lối chi tiêu tài khóa khác thường của Trung Quốc trong chính sách ứng phó đối với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, Hà Nội so với Bắc Kinh tỏ ra thiếu khả năng kiểm soát từ thượng tầng xuống, điều mà đã cho phép Bắc Kinh có nhiều thẩm quyền kiểm soát hãm đà hơn đối với những chương trình kích thích kinh tế của họ. Như cuộc chiến giằng co về ngoại hối gần đây đã chỉ ra cho thấy, thì các Doanh Nghiệp Nhà Nước lớn của Việt Nam vẫn được điều hành như những lãnh địa riêng của các đảng viên Đảng Cộng Sản đầy quyền lực chính trị với đầy đủ sức mạnh để thẳng thừng bất tuân những chỉ thị của trung ương.

Một số nhà phân tích tin chắc rằng các doanh nghiệp nhà nước của VN vốn bấy lâu nay luôn làm ăn thua lỗ, rốt cuộc lại lại giành được ưu tiên hưởng lợi từ chính sách của nhà nước. Đối với những thành phần khác, thực tế rõ ràng là tình trạng thiếu minh bạch và thiếu trách nhiệm từ phía những doanh nghiệp nhà nước lớn vẫn còn kéo dài, và làm dấy lên những lo ngại đối với một loạt thắc mắc mới không rõ số tiền nhiều tỉ đô la từ các khoản vay của ngân hàng mà họ nhận được từ năm ngoái đã được sử dụng như thế nào. Số tiền cho vay theo thúc đẩy của chính phủ hồi năm ngoái mà đã được điều phối cho chảy vào các hoạt động đầu cơ trên thị trường chứng khoán, giờ đây rõ ràng là đang đẩy giá bất động sản tăng cao, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Điều hiển nhiên hơn là Việt Nam vẫn thiếu sự phối hợp chính sách có hiệu quả xuyên suốt giữa những cơ quan nhà nước và những doanh nghiệp vào thời điểm mà các giới thẩm quyền trong lãnh vực kinh tế cần chứng tỏ cho thị trường thấy một cam kết mới được củng cố nhằm duy trì sự ổn định giá cả và kinh tế vĩ mô. Việc thiếu kiểm soát cũng làm dấy lên những thắc mắc về cách giải quyết chắp vá của ngân hàng trung ương đối với làn sóng lạm phát năm 2008 và năng lực kỹ trị của cơ quan này trong việc ngăn chặn những áp lực mới nổi lên làm gia tăng lạm phát, kể cả trong thị trường bất động sản.

Ông Pietersz thuộc JP Morgan cho biết, các giới chức liên đới đều “rất thông minh và tận tụy”, song vẫn còn “vừa làm vừa học” trong khi điều hành nền kinh tế. Các nhà phân tích khác thì nói rằng không rõ là chính phủ với nội bộ đang chia rẻ có đủ quyết tâm chính trị để thu gọn lại những giải pháp kích thích kinh tế mà đã ban hành từ năm ngoái trước hiện trạng các phe cánh trong đảng đang tranh đua dành dựt quyền lực chính trị chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc vào năm tới.

“Hiển nhiên, chính phủ không thể đóng cửa toàn bộ nền kinh tế … song những dự đoán về lạm phát chắc chắn sẽ xảy ra không thể tránh khỏi theo cách này hay cách khác,” ông Tan thuộc Standard & Poor’s nhận xét. “Nếu như lạm phát xảy ra ở mức cao kéo dài trong một thời gian dài, thì sẽ gây ra mối nguy làm tổn thương trầm trọng”.

Một nhà phân tích làm việc cho một ngân hàng đầu tư châu Âu ước đoán rằng “cái ngày tính sổ” của Việt Nam là “không thể tránh khỏi do tình trạng bất lực của chính phủ trong việc nâng cao nguồn thu nhập của quốc gia” và rằng đất nước này sẽ phải đối mặt nhiều hơn với “những đợt phá giá đồng bạc gây chấn động” cho tới khi nào ngân hàng trung ương được độc lập hơn, thoát ra khỏi tay của những tên ngoáo ộp trong đảng.

Bất chấp những áp lực gần đây lên đồng nội tệ, ông Tan cho hay là Việt Nam chưa bộc lộ những triệu chứng của một “cuộc khủng hoảng tiền tệ cổ điển” bởi vì “mức vay bên ngoài phần lớn vẫn nằm trong tầm kiểm soát” và “FDI vẫn duy trì được ở mức cao”. Không giống như các quốc gia ngập chìm trong nợ nần bị ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, ông lưu ý, gánh nặng nợ nần của Việt Nam tương đối khiêm tốn bởi vì đa phần nợ của Việt nam thuộc về nhóm có nguy cơ thấp, và thuộc loại nợ ưu đãi dài hạn.

Nhưng khi việc kiểm soát thị trường đối với khu vực tài chánh công gia tăng mạnh ở châu Âu, mức độ rủi ro từng quốc gia riêng rẻ ở châu Á sẽ ngày càng được lượng định bởi quan điểm, nhận thức của các nhà đầu tư về cách thể chính quyền quản lý và chi tiêu ra sao qua các giải pháp chi tiêu tài khóa được thực hiện mạnh mẽ mới đây. Các địa phương ở Việt Nam đã tỏ rõ sự bất tín nhiệm đối với khả năng điều hành kinh tế của chính phủ và lịch sử cho thấy thái độ bén nhạy của ngoại quốc thường lùi chậm lại nhưng rốt cục lại cũng chạy theo những đầu dẫn bản năng hướng tới những thị trường mới nổi nhưng có mức rủi ro cao.
Khi những nỗi lo sợ trước căn bệnh truyền nhiễm về chi tiêu tài chính do nhà nước gây ra càng tăng cao ở châu Âu, Việt Nam có vẻ như là ứng viên hàng đầu cho một cuộc khủng hoảng lòng tin tương tự song hành tại châu Á.
Nguồn: Asia Times

12 THÁNG ANH ĐI