17 thg 9, 2011

THƯ GỬI ÔNG NGUYỄN TẤN DŨNG, THỦ TƯỚNG CHXHCH VIỆT NAM.



THƯ GỬI ÔNG NGUYỄN TẤN DŨNG, THỦ TƯỚNG CHXHCH VIỆT NAM.


Lời đầu tiên là một điều minh xác

Thư này được viết với tư cách một công dân

Sinh đẻ tại Việt Nam, lớn lên và lập thân

Rồi đi xa, nhưng vẫn nhớ quê hương ngào nghẹn


Tôi không gửi thư đến ông như một người kiếm chuyện

Làm quen ông, một chức vụ lẫy lừng

Để sau này, có cơ hội tưng bừng

Về đất nước, bon chen, kiếm cháo

Tôi cũng không phải là người táo bạo

Tìm cách gần ông, một triệu phú giầu nhất vùng

Nhất Việt Nam, nhất Đông Á, tài sản nhiều vô cùng

Nếu được ông cho một chút lẻ, cũng tiêu hoài không hết

Những biệt thự Hồ Tây, những công ty hàng may, hàng dệt

Những cổ phần con cháu đứng tên giùm

Vợ lớn, bồ nhí, người yêu, người phục vụ, từng chùm

Một cái chỉ tay, người người cúc cung, tận tụy

Những trương mục rải khắp nơi, Mỹ, Tây, Thụy Sĩ

Tiền cứ vô nhà như thác chẩy vào hồ

Từ hồi 75, khi hành chính còn xô bồ

Đảng đổi tiền, đánh tư sản, cướp tiền dân, bỏ túi

Cả miền Nam, vài chục tỷ đô la, bỗng nhiên, chia dấm dúi

Cho vài chục lãnh đạo, thử hỏi ai chẳng giầu to

Rồi độc quyền thương gia, xí nghiệp, buôn bán vô bờ

Ký một tờ giấy, là tiền vô như nước

Chị Ba nắm vùng này, anh Sáu vùng kia hưởng phước

Có Công An, còng số 8 , súng Aka

Đứa nào ho he, cứ “nhốt chúng cho ta!”

Còn “đồng chí” thích biệt thự nào, cứ lấy

Trước là làm Trụ sở, sau thì ký giấy

Hóa giá nhà, cho làm chủ khơi khơi

Và thế là, tài sản đất nước mất toi

Một chốc bốc hơi, nước thì nghèo, Đảng thì giầu bự

Thôi, nhưng mà, nói làm chi chuyện cũ

Ba mươi mấy năm rồi, gợi lại, nước mắt nhòa

Tôi chỉ muốn hỏi ông chuyện hiện tại, không xa

Vài câu hỏi, trước khi ông đến Mỹ...


Có bao giờ ông nhớ lại thời chống Mỹ

Những mẹ già nhịn đói, nuôi ông

Những người thôn quê, giúp ông vót hầm chông

Củ sắn, củ khoai chia cho ông một nửa

Ông nịnh họ là Mẹ Cách Mạng, Mẹ Chiến Sĩ, Mẹ... gì nữa?

Giờ đây, ông huy hoàng, họ vẫn cứ long đong

Vách lều năm xưa, vẫn rách nát, từ Xuân đến Đông

Mưa vẫn dột, gió vẫn lùa, lạnh giá

Họ chỉ có chút đất ruộng, chút vườn xưa hương hỏa

Mà Đảng ông lại nỡ trưng thâu

Không một chút gì ơn trả cho nhau

Lại táng tận tịch thu, đuổi cổ

Mẹ Chiến Sĩ năm xưa, giờ này, đang khóc khổ

Đứng ngoài đường, làm một lũ “DÂN OAN”

Ông ngồi xe láng đi qua, còi hú vang vang

Không nhìn thấy nước mắt mẹ già ướt phố!

Những chiếc áo rách kia, ở nhà ông, chó không thèm rớ!

Đầy tớ ông, toàn vải ngoại, hàng sang

Những chiếc nón lá kia của lũ “DÂN OAN”

Mong gì thấy trong cầu tiêu ông Tỷ Phú

Ông Thủ Tướng ơi! Đảng ông quá giầu, còn tham chi nữa?

Ông chỉ có hai tay, một cái miệng, một bụng to

Ăn đồ ngon bao nhiêu, cũng chỉ đến lúc no

Sao lại để NHÂN DÂN, “NGƯỜI CHỦ ĐẤT NƯỚC” chết đói?

Có lẽ các ông chỉ thích xài danh từ le lói

Ủy Ban Nhân Dân, Thư Viện Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân

Trung với Đảng, Hiếu với Dân, Đầy Tớ Nhân Dân...

Mà thực chất, chỉ những Nhân Dân ấy khiếu kiện

Vậy xin ông “Đầy Tớ Nhân Dân” ấy, làm ơn mở lòng từ thiện

Trả lại cho Nhân Dân ruộng đất cắm cái dùi

Một tấc đất thôi, để mưa nắng khỏi dập vùi

Già sắp chết rồi, mong có chỗ trú mưa cho con cháu...


Thưa Ông Thủ Tướng, ông đông bồ nhí, lắm con, nhiều cháu

Có khi nào ông nghĩ chúng đứng đường

Mặc quần lòe, áo hở ngực, kệ phong sương

Chụp giật khách qua đường, bán xác

Những đứa bé mới lớn lên, mặt còn ngơ ngác:

“Chú chơi con đi! Con hãy còn trinh!

Miễn sao cho mẹ con, khỏi phải bán máu mình

Có mấy lít máu, bán hoài cũng chết

Em con, đang rửa bao ny lông đựng chuột chết

Đựng bao cao su, máu mủ, băng vệ sinh

Đôi khi đựng cả chân tay người thúi sình

Ruột gan, cơ phận người, bệnh viện vất ra đống rác

Chú ơi! Cả đời con chả biết gì, ngoài rác

Đẻ trên đống rác, và lớn cũng ở đây

Mười mấy năm rồi, con mới bỏ que sắt cầm tay

Đi bán “của trời cho”, mong bữa cơm thay cháo...”

Những em gái khác, con cán bộ, lại là dân chơi bạo

Dư bạc tiền, nên hút, chích, lắc như điên

Thích ngủ lang mà không phải vì tiền

Bố mẹ chúng, Giám Đốc, Bộ Trưởng, quyền uy kinh khiếp

Chúng tha hồ chơi, đứa nào dám ăn hiếp?

Cả họ phải rũ tù, mang chục án làm gương.

Cho nên, cả thành phố, về đêm, đầy gái đứng đường

Ông có thấy nhục không, ông Nguyễn Tấn Dũng?


Nếu ông rời đô thành, đến cao nguyên, thung lũng

Đâu đâu cũng có nghề làm gái-không-biên- cương

Phủ Lý, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hải Dương...

Những địa danh thơ mộng giờ thành ổ đĩ

Một khi con người đói quá, thì không cần suy nghĩ

Có chi bán nấy, giật dọc qua ngày.

Chân Cửu Vạn, tay xe thồ, lưng không bao giờ thẳng ngay

Vì khiêng vác, gái trai, ông già, bà lão

Có những làng, cả ba đời vác gạo

Vượt đồn canh, biên giới, suối khe

Những thân người gầy yếu như cây tre

Chỉ xương cốt, gân xanh, gân đỏ

Có những làng chỉ nghe đàn bà thở

Vì đàn ông chết ráo đâu rồi

Đào vàng, đi ăn mày, tìm trầm, chết dưới vực khơi

Nên đêm tối, tiếng thở dài như bão nổi

Những cô gái chỉ mong một đời có lần trao đổi

Tấm băng trinh lấy chút vị yêu đương

Trong thế giới chửi thề, lên chiếu, xuống giường

Sống như trâu chó, lấy chi mà mơ mộng!


Ông Thủ Tướng ơi! Có bao giờ ông thấy lòng bỗng động?

Khi nhìn hình lũ con gái thơ ngây

Đứng trần truồng hàng lũ, dạn dầy

Để lũ vượn ngoại bang sờ sớ, nắn nắn

Thè lưỡi, chu môi, cho chúng mua mua, bán bán

Gái cần đi ngoại quốc, mong có tấm chồng Hàn

Hay Đài Loan, Singapore, các nước lân bang

Một chồng, hay chục chồng, vợ lớn hay vợ lẽ

Nô lệ tình dục ư? Miễn sao no lòng thì mặc kệ

Đứng trong lồng gương, lên Yahoo rao bán, ôi.. mặc thây!

Chính ông Chủ Tịch nước cũng mới vừa đây

Dụ Việt kiều về nước, nói “gái quê nhà đẹp lắm!”

Không biết ông nghĩ sao, chứ chúng tôi nhục lắm!

Nhục cả ba bốn đời, nhục Quốc Tổ, nhục tông môn

Khi con người chỉ còn nghĩ đến bán trôn

Nuôi cái miệng, còn chi là danh dự?

Bốn ngàn năm văn hiến, ngời ngời lịch sử

Chống Bắc Phương, Thanh, Tống, Nguyên, Mông

Dũng sĩ trời Nam hiển lộng thần thông

Đánh cho chúng tơi bời cây cỏ

“Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ” (1)

Lời Nguyễn Huệ xưa còn lồng lộng không gian

Vậy mà, giờ đây, ông đã dâng Ải Nam Quan

Nộp Thác Bản Giốc cho đàn anh hưởng dụng

Chỉ để cho các ông tung hoàng, dung túng

Lũ công an bắt bớ, dầy vò

Các cựu đảng viên, nhà phản kháng, bác sĩ, nhà văn, nhà thơ

Linh mục, luật sư, Thượng Tọa, Đại Đức

Chỉ vì họ dám hy sinh sức lực

Để nói lên tiếng nói tự lương tâm

Chống đối bất công, chống tham nhũng, bọn vô tâm

Cướp đất, cướp nhà, hành dân hơn trộm cắp...


Ông Dũng ơi! Có bao giờ ông trả lời những câu hỏi đầy ắp:

Tại sao đất nước ta, Người bóc lột Người?

Karl Marx ngày xưa chống nô lệ người

Ăng Gen viết: “Người công nhân phải làm chủ!” (2)

Giờ đây, người lao động sống như trong cũi chó

Không thuốc men, không bảo hiểm, sống liều

Trong “Phố Liều”, “Phường Liều”, hay “Xóm Liều” (3)

Những chỗ đất hoang, nặc nồng hôi thối

Có khác nào phu mỏ than sống đời tăm tối

Bên nước Anh, nước Pháp thời xa xưa

Nơi Karl Marx tiên đoán cách mạng sẽ nổ ra (4)

Để thực tế, nước ta, hiện nay là vậy đó!

Mấy mươi năm trước :”Nhà văn An Nam khổ như chó!” (5)

Mấy mươi năm sau, mấy chục triệu dân cực hơn trâu

Trừ đi chục triệu dựa vào Đảng, sống trên cổ trên đầu

Dân Việt còn lại, kiếp ngựa trâu, khốn nạn

Các ông đánh bạc, chơi ngông hàng trăm vạn

Tiền đô như tiền lèo, khi lao động chỉ vài xu.

Một em bé cao nguyên, gánh củi có vài chục xu (6)

Em bé thành phố, đánh giầy, một ổ bánh mì chưa đủ

Trinh trắng em tôi, có chục “đô” một lần ngủ

Thầy cô giáo một tháng được hơn trăm.

Giám Đốc kia , chơi bạc bằng cả làng ăn nhiều năm

Ông nọ cá độ, bằng vài ngàn người sống “mút chỉ”.

Đốt một phong pháo chơi, bằng tiền mua bao trinh nữ

Nuôi một chú “bẹc giê”, phải nuôi thêm vệ sĩ cả bầy

Các sân chơi Gôn của ông, thẳng cánh cò bay

Bằng ruộng lúa cả làng tôi, hay cả ho.


Ông Thủ Tướng ơi! có bao giờ thấy người rúm ró

Lạy lục van xin trước cửa bệnh viện Nhân Dân

Xin được chữa bệnh, được nạo thai, được một chỗ đặt chân

Một chiếc chiếu đặt thằng con sắp chết

Ông có nghe tiếng quát nạt giữa tiếng rên xiết

Tiếng khóc than ấm ức, tiếng kêu Trời

Tiếng “cò bán máu”, “cò thuốc Tây” hay “cò chạy quan tài”

Muốn được chết cũng không yên thân nằm chỗ

Ông Công An chưa cho phép “chết”, gia đình còn khổ

Còn nhờ “cò” đút lót, trao tay

Ở đâu cũng có “cò”: “cò xin việc”, “cò chạy án”, hay “đường dây”

“Đường dây bán máu”, “đường dây phá thai”, “đường dây bệnh viện”

Muốn chữa bệnh: Tiền! Muốn chết: Tiền! Muốn chôn: Tiền!

Chôn rồi, muốn không bị phá, lại cần thêm tiền nữa!

Ôi! Từ sinh ra đến chết, lúc nào cũng có người đứng giữa

Đó là anh Công An Nhân Dân có quyền hạn tầy đình

“Luật ở miệng tao!” Anh hãnh diện chỉ vào mình (7)

Kẻ cai trị những con người Việt Nam Mù, Lòa, Câm, Điếc

Không còn thấy chút nào nhiệt huyết

Chỉ thấy Mù lương tâm, Điếc tai, Lòa mắt, Câm mồm!

Trước hiện tượng cả nước đang phát triển nghề “Ôm”!

Bia ôm, ngủ trưa ôm, võng ôm, hớt tóc ôm

Karaokê ôm, chè đậu xanh ôm, mía ôm...

Học sinh ra trường, không có nghề, thì ôm đại

Cả nước, chỉ 30% học sinh được “Tổ” đãi (8)

Vào đại học rồi nam sinh cờ bạc, nữ sinh vợ thuê

Còn 70% kia, thì nhào vô nghề giật dọc

Tuy vậy, cũng còn hơn Bí Thư-“Cử Nhân” mà không biết đọc

Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân không có bằng

HIệu trưởng Trường Đại học cũng lãnh đạo không bằng

Giám Đốc Bệnh Viện mới học lớp ba bổ túc

Bộ Trưởng Kinh Tế, Tài Chánh có học hay không, tùy lúc

Chỉ một điểm chung là tham nhũng, kênh kiệu, khoe khoang

Mua xe hơi trăm ngàn đô la mới sang

Trong khi người nghèo thì bán mạng, làm liều mong sống sót...


Ông Thủ Tướng ơi! Đảng ông thích lời nói ngọt:

“Lương tâm của Thời Đại, Đất nước Anh Hùng”

Nhiều đến nỗi “ra ngõ cũng gặp anh hùng” (9)

Giờ thì chỉ thấy một văn chương “Đéo!” (9)

Từ nữ sinh đến ông già, mở miệng là “đéo”

“Đéo sợ thằng nào! Đéo thông cảm! Đéo cần lịch sử!”

“Đéo cần tử tế! Đéo cần giúp ai! Đéo vào thiên hạ sự!”

Ở đời, cứ có tiền là nhào dô, đánh du kích, rồi rút lui.

Cây gỗ quý cứ chặt bừa, thú rừng cứ đốt thui

Chất hóa học đổ tràn, kệ cha chúng mày chết dấp!

Kệ rừng biến thành sa mạc, kệ sông đục rồi vùi lấp

Kệ bờ sông lở bồi, cứ lấy cát bán buôn

Kệ nhà dân tụt xuống sông, kệ rạch biến thành truông

Kệ khói bụi, ho lao, thủng phổi

Kệ thức ăn pha trộn chất diêm muối

Kệ nước tương là chất độc kinh hoàng

Kệ thế hệ này, thế hệ nữa, tan hoang

Miễn tiền đô Mỹ cứ chui vào quỹ


Ông Thủ Tướng ơi! Biết nói chi nữa nhỉ?

Nói nhiều thì lệ tràn, mà cũng vô ích mà thôi

Đảng của ông vẫn chễm trệ ngồi

Trên mấy chục triệu dân ngu, dân khổ

Hàng trăm bài báo, hàng ngàn tờ công tố

Vài vạn buổi truyền thanh, truyền hình quốc tế

Trăm cuộc biểu tình của DÂN OAN như thế

Ông vẫn bình tâm rung đùi, máy lạnh, gái chung quanh

Ông như Lê Ngọa Triều, Lê Chiêu Thống HÔN QUÂN

Đóng cửa, bịt tai tàn tàn hưởng thụ

Những khẩu hiệu khiếu kiện tràn đầy đường phố

“Thủ Tướng ơi! Cứu Dân!”, “Đảng ơi! Cứu dân!”

Ông lệnh cho xé bỏ, tống giam mấy thằng kích động nhân dân

Mặc dù chúng chỉ khóc than những lời đau đớn

Báo chí ông chụp mũ, bắt những ai có lòng hảo hớn

Đến chia gói mì, chia ly nước cho DÂN OAN

Chưa có ai dám gọi ông là HÔN QUÂN

Chưa có ai dám gọi ông: “Lũ cướp ngày của lịch sử!” (10)

Họ chưa sánh ông với Tần Thủy Hoàng, Staline, hoặc ai trong lịch sử

Đã dùng cường quyền trấn áp dân đen

Họ chỉ quỳ xuống, van xin ông, đừng “Đến hẹn lại lên” (11)

Cứ đến hẹn là nhà bay, đất mất

Bí thư Xã, Chủ Tịch Phường hễ ra hẹn nộp đất

Mà không tuân, thì Xử Lý nghiêm minh

Còn bồi thường? Thì tuy đất một nghìn

Ông “Lý Trưởng”: “Một trăm? Không chịu? Kệ mẹ!!” (12)

Ông “Trương Tuần”: “Chống phá Cách Mạng! Đánh bỏ mẹ!?”

Bà “Tổng Cai” thì: “Nhốt chúng cho biết tay!”

Những tay “phú lít Tây” lập tức ra tay

Có khác gì đâu, những ngày mà các ông bị Tây nhốt

Xà lim sẵn sàng cho “cặp rằng” đi hốt

Hơn nửa thế kỷ sau, những “chị Dậu” của “Tắt đèn”

Những Bà Địa Chủ ngỏn ngoẻn ép buộc dân đen

Bán chó, bán con, cho mấy thằng già bú sữa

Những “anh Dậu” bị gông ra đình, đánh cho ụa mửa

Vẫn dẫy đầy trong xã hội ông trị cai

Chỉ khác là ngày xưa, thông tin ít, nên thế giới không đoái hoài

Giờ thì cả quốc tế đồng thanh lên án

Các ông vẫn mặt trơ, bóng trán

Ngậm miệng ăn tiền, đàn áp lũ “dân ngu, khu đen”


Thủ Tướng ơi! Còn nhớ ngày các ông giương lá cờ lên

Có “búa - liềm” tượng trưng cho nông dân, lao động?

Các ông hô hào đánh tư sản mại bản, tiếng loa lồng lộng

Vài trăm ngàn người ông cho là Tư sản, địa chủ , giờ nơi đâu?

Họ đã chết trong đấu tố, Lý bá Sơ, hay núi thẳm, rừng sâu

Sau 75, tư sản vào tù hoặc kinh tế mới hết ráo

Chủ trương của các ông được thi hành rốt ráo

Sao bây giờ cả Đảng thành Tư Sản Mại Bản, bán nước cho Tầu?

Hoàng Sa, Nam Quan, Bản Giốc giờ còn đâu?

Đảng nhượng từng phần Vũng Tầu, Đồ Sơn, Nha Trang... mở sòng bạc

Chỗ nào có tiền ngoại ngon lành là các ông kiếm chác

Ký giấy nhượng luôn cho Tư bản vài chục năm

Không còn nhớ từ Triệu, Trưng.. luôn chống giặc ngoại xâm

Các ông chỉ đặt bút ký là đất thiêng biến mất!

Ôi! Có khi nào mà ông nghĩ đến đau thương chất ngất

Hàng triệu triệu người chiến sĩ hy sinh

Đã đổ máu xương ra bảo vệ từng tấm sinh linh

Bảo vệ danh dự dân Việt, bốn ngàn năm lịch sử

Có bao giờ mà mắt các ông nhòa lệ?

Nâng ly ruợu ngoại lên là thấy máu trong tay?

Ăn miếng cơm ngon mà tưởng như ăn thịt dân đây?

Mỗi ngụm ruợu là cả triệu trẻ em đói khát

Một lần các ông vung tay chơi bời, ngàn gia đình tan nát...


Ông có nghe thấy không?

Ông có nhìn thấy không?

Hồn oan dân đen đang đứng cạnh chiếc bàn dài

Hồn của họ ngắm bọn ông, ngủ say, dãi nhớt chẩy dài

Sau trận truy hoan với bao nhiêu gái đẹp

Những hồn tử sĩ, vài chục năm mê thiếp

Sẽ có lần viếng từng người, từng “THỦ TRƯỞNG” năm xưa

Họ sẽ hỏi ông: “Thủ Trưởng muốn chết mấy cho vừa?

Lòng Tham, Sân, Si của những người lãnh đạo

Một chế độ độc tôn, độc quyền, tàn bạo

Không kể hạnh phúc dân đen, vận nước long đong

Mới vừa đây, báo cáo “vài ngàn tỷ xuống sông

Vì tiêu phí cho mấy ông Thủ Trưởng?”

Ôi! Trời ơi! Nước ơi! Không thể tưởng tượng!

Giữa thế kỷ văn minh này mà đất nước tồi tàn

Vẫn long đong giữa thế lực ngoại bang

Một Tầu, hai Mỹ, miễn sao cho các ông hưởng thụ!


Thưa Ông Thủ Tướng!

Chúng tôi, không kể là người chế độ cũ

Người miền Bắc, Nghệ An, Quảng Trị, hay Quảng Bình

Cùng viết thư này mong các ông nghĩ tình

Là dân Việt mà lắng nghe lời chân thực

Hãy quỳ xuống, sám hối, khi còn kịp lúc!

Sám hối với nhân dân, sám hối với Tổ Tiên!

Tội nghiệt các ông mang, lẽ ra phải trừng phạt triền miên

Nhiều đời, nhiều kiếp, vạc dầu, tùng xẻo

Nhưng vì tương lai của dân ta, thôi đành hòa dịu

Không muốn chiến tranh, chỉ đòi các ông trả lại dân quyền

Trả Tự Do, Dân Chủ, Nhân quyền

Cho mọi người dân cùng dựng xây trên tan nát

Bỏ điều 4 đi, đừng nghĩ là tự sát!

(Đúng ra, nếu các ông Tự Sát, cũng đúng thôi!)

Hãy từ bỏ đặc quyền, trả lại quyền cho tất cả chúng tôi

Tám mươi triệu người Việt máu đỏ, da vàng yêu dấu

Hãy nhìn thẳng vào những khuôn mặt đau đáu

Hãy lắng nghe tiếng nói của lương tâm

Hãy bàn giao quyền lợi cho giới trẻ, thanh xuân

Những người chủ tương lai của đất nước

Hãy mở cửa nhà tù, tìm những người từ trước

Vẫn kiên gan đòi sống theo trái tim

Như vậy, mới mong đất nước không đắm chìm

Trong nô lệ, cùm gông, không lối thoát

Mau mau lên, rừng vàng biển bạc

Sắp tan thành sa mạc, bể dâu

Thế hệ này không kịp nữa đâu

Chỉ còn thế hệ sau, mới mong vững chãi

Thôi, vài lời dông dài, viết hoài nói mãi

Cũng chỉ là những giọt lệ thương đau

Những giọt máu trong tim đã vỡ vụn, nát nhàu

Của những tâm hồn Việt Nam

Chân Thành, Trung Thực.

Chu Tất Tiến.

12 THÁNG ANH ĐI