Thương Nhớ Phù Vân
Hoanghaithuy
Sau khi TT. John F. Kennedy bị thảm sát. Tòa Ðô Chánh Sài Gòn đặt tên cho công trường trước Nhà Thờ Ðức Bà là “Công Trường Tổng Thống John F. KENNEDY.”. Khoảng ba tháng sau, thấy công luận không tán thành việc đặt tên này,bảng tên Công Trường John F.KENNEDY được thay bảng tên khác.
Phù vân, thật là phù vân.Tất cả chỉ là phù vân.
Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất vẫn mãi mãi trường tồn. Mặt trời mọc rồi lặn; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó mọc lên. Gió thổi xuống phiá nam, rồi xoay về phiá bắc: gió xoay lui, xoay tới rồi gió đi, gió trở qua, trở lại lòng vòng. Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển chẳng bao giờ đầy. Sông chẩy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục. Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.
oOo
Trên đây là đoạn mở đầu Sách Giảng Viên — Ecclesiastes — trong Kinh Thánh. Bồi hồi tưởng nhớ những năm 1982, 1983 u ám khủng khiếp ở Sài Gòn tang thương, bọn ác ôn tịch thu tất cả những kho sách Kinh Ðiển Công Giáo, Tin Lành. Khi ấy, với những người Con của Thiên Chúa, và những người đau khổ tìm đến với Chuá, sách Kinh Thánh quí hơn Vàng. Người ta mua Vàng dễ dàng, người Sài Gòn có đô-la muốn mua bao nhiêu Vàng cũng có, nhưng người ta không thể tìm mua được Kinh Thánh, vì không có nơi nào ở Sài Gòn những năm ấy có sách Kinh Thánh.
“Các ngươi sẽ đói lời Ta từ bờ biển này sang bờ biển kia!”
Thưa Ngài, đúng như Lời Ngài. Sau 1975, chúng tôi đói lời Chúa một cách thê thảm. Một nhóm tu sĩ tại gia hầu việc Chúa ở những nhà thờ Trương Minh Giảng, Tân Sa Châu, Ngã Ba Ông Tạ, in ronéo một số bài giảng, tập lịch Công Giáo năm mới, phát cho tín hữu. Mấy ông Thầy Sáu – không được CS cho thụ phong Linh mục - bị bắt vào tù với tội “in ấn bất hợp pháp“. Ra toà năm 1985 ba ông thầy can tội “in ấn” lãnh mỗi ông ba cuốn lịch.
Lễ Giáng Sinh năm 1983 trong căn gác nhỏ ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, tôi ngồi dịch sách Ecclesiastes ra tiếng Việt. Tôi viết và trình bầy như một tập sách nhỏ, đem đến tặng các bạn ở nhà thờ, các bạn truyền tay nhau đọc, ai muốn có tập sách ấy chỉ cần chép lại hay đi chụp photocopy.
Hôm nay, tôi sống xa Ngã Ba Ông Tạ, xa Nhà Thờ Chí Hoà, Nhà Thờ Ðồng Tiến, Nhà Thờ Tân Ðịnh, Nhà Thờ Dòng Chuá Cứu Thế, Vương Cung Thánh Ðường… không biết bao nhiêu ngàn cây số. Trong căn phòng của vợ chồng tôi ở Rừng Phong hiện giờ có đến bốn, năm quyển Kinh Thánh. Sách Kinh Thánh quí nhất của tôi là bản tiếng Việt mới được dịch và xuất bản tại Sài Gòn. Trong số những vị dịch giả có Linh mục Nguyễn Công Ðoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam.
Năm 1987, rồi năm 1989, tôi ở tù chung phòng với Cha Nguyễn Công Ðoan ở Nhà Tù Chí Hoà và Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, Xuân Lộc, Ðồng Nai. Cha Ðoan bị án tù 14 năm. Cha, cùng nhiều Linh mục, bị bắt năm 1982.
Linh mục Nguyễn Công Ðoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam, không có tội gì cả. Linh mục bị bọn Cộng Thành Hồ bắt giam, vu tội phản động, xử án tù 14 năm, vì chúng muốn chiếm Tòa Nhà Chủng Viện của Dòng Tên.
Cha Ðoan từ Nhà Tù Chí Hòa đến Trại Tù Khổ Sai Z 30 A trước tôi. Nhờ có điều kiện có thể giúp được Trại, và các tù nhân, những mục như cung cấp dây điện, bóng đèn, ống nước, thuốc Tây – Cha Ðoan được Quản Ðốc Trại trọng đãi, Cha đi về Sài Gòn rất thường để tìm xin những thứ trên cho Trại – khi anh Doãn Quốc Sĩ và tôi từ Nhà Tù Chí Hòa đến Z 30 A, cha Ðoan thành lập một Ban Dịch Thuật cho chúng tôi làm. Ðể chúng tôi không phải đi cuốc đất. Nhóm Linh Mục Trương Bá Cần cung cấp mỗi tháng số tiền 1 triệu đồng nói là tiền trả công dịch thuật cho chúng tôi. Số tiền này được nộp hết cho Trại. Chúng tôi: Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Doãn Quốc Sĩ, Mã Thành Công, Ưng Sơ và tôi ngồi nhà dịch sách. Cha Ðoan là Trưởng Ban Dịch. Chúng tôi dịch văn liệu về Lịch Sử Truyền Giáo ở Ðàng Trong, Ðàng Ngoài những thế kỷ xưa. Những sử liệu này do nhóm Linh Mục Trương Bá Cần cung cấp, những bản dịch nộp cho LM. Trương Bá Cần.
Những ngày như lá, tháng như mây…
Năm 1990 tôi ra khỏi tù, vợ chồng tôi sang Kỳ Hoa năm 1994. Tháng Tám 1999 Cha Ðoan, từ Sài Gòn, đi công việc Ðạo sang Vatican, Roma, Ý Quốc. Cha có ông cháu ruột là Linh mục ở Virginia, nên Cha ghé sang Hoa Kỳ, Cha đến Washington DC và Cha đến Rừng Phong gập vợ chồng tôi.
Tôi đứng đón Cha dưới hàng cây trên lối vào Rừng Phong. Từng sống với nhau ở Nhà Tù Chí Hoà, Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, nào có bao giờ tôi tưởng tượng một buổi trưa mùa hạ tôi bồi hồi đứng trong con đường vắng, đầy bóng cây, trên đất Hoa Kỳ chờ Cha Ðoan đến.
Gập nhau mừng mừng, tủi tủi, Cha cầm tay tôi mãi như không muốn buông ra. Vợ chồng tôi thấy Cha không khác chút nào qua năm năm trời kể từ ngày chúng tôi đi khỏi Sài Gòn.
oOo
Trong lần tù thứ hai của tôi — 6 năm, từ 1984 đến 1989, ở Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, Nhà Tù Chí Hoà, Trại Tù Khổ Sai Z 30 A — tôi ở tù chung phòng, tôi từng ăn chung với các Ông Tù Tôn Giáo:
Tu sĩ Thích Tâm Lạc, Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tu sĩ Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Linh muc Nguyễn Công Ðoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam, Linh mục Nguyễn Hoàng Hai, Thư ký của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Linh mục Ngô Quang Tuyên, Thầy Sáu Trần Văn Bẩy, Mục sư Nguyễn Hữu Cương, Mục sư Hồ Hiếu Hạ, Thầy Truyền Ðạo Lê Thiên Dũng.
Tôi sống trong 6 năm, mỗi ngày vanh cát syua vanh cát — 24/24 giờ, tức suốt ngày đêm — với một số Tinh Hoa của Ba Tôn Giáo Phật Giáo, Thiên Chuá Giáo và Tin Lành. Không chỉ sống suông, tôi hoà đời sống của tôi với những buồn vui, sợ hãi, thất vọng và hy vọng của tôi với các vị tu hành tôi vừa kể. Trong 6 năm tù đầy, tôi không giúp gì được các vị, các vị giúp tôi thật nhiều. Nhiều nhất là về Tinh Thần, về Ðức Tin.
Một thời để Nhớ…
Chiều nay, chiều cuối đông, trời Virginia lạnh đến 2 Ðộ C, trong phòng ấm, bình an viết những dòng chữ này, tôi bồi hồi sống lại trong cuộc sống xưa của tôi trong những Phòng Tù Số 7, Phòng Tù Số 6, Sà-lim Số 10, Sà-lim Số 6 Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Phòng Tù Số 9, Phòng Tù Số 10, Phòng Tù Số 20 Nhà Tù Chí Hòa, Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, tôi nhớ, tôi tưởng lại vẻ mặt, tiếng nói, tiếng cười của các vị ở tù cộng sản chung với tôi.
Một điều hay là từ ấy đến nay, năm đầu là năm 1984, năm cuối là năm 1989, hai mươi năm đã qua, tất cả những vị tôi vừa kể tên trên đây nay – Tháng 12 năm 2011 – đều còn sống. Và đa số các vị vẫn sống trong nước. Tôi gửi lời cám ơn và lời chúc bình an đến các vị.
Ba tu sĩ Phật Giáo Tâm Lạc, Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị bắt vì tội ở trong Tổ Chức Âm Mưu Lật Ðổ Bàn Thờ Bác Hồ — Tổ Chức mua súng, định lập chiến khu — các thầy bị bọn Ác Cộng phang án rất nặng: Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị án tử hình, sau xuống án tù 20 năm khổ sai, chịu án trong 15 năm mới được về chùa. Nói vì, và nhờ các tổ chức dân chủ, nhân quyền, Phật giáo Quốc Tế đòi hỏi, làm áp lực nên bọn Ác Cộng phải nới tay “ đánh “ các thầy là không đúng. Chỉ có tội thành lập tổ chức, ra tuyên ngôn, tìm mua súng, chưa giết được một thằng Ác Cộng, chưa bắn được một phát súng, chưa rải được một tờ truyền đơn, mà xử 2 án tử hình, nhiều án tù 20 năm, 18 năm, 15 năm, án nhẹ nhất là tù 4 năm, 2 người tù tử hình xuống án 20 năm, ở tù 15 năm mới được ra khỏi tù. Nó chịu áp lực, nó phải nhẹ tay chỗ nào?
Bọn VC Ma Ðầu nhờ kinh nghiệm đàn áp của hai đàn anh ác ôn của chúng là Nga Cộng, Tầu Cộng, biết khi xử vụ Tu Sĩ Già Lam Chống Cộng, chúng sẽ bị dư luận người trong nước, người nước ngoài, phản đối, cho là xử quá nặng, đòi khoan hồng, đòi giảm án. Nên chúng xử dụng đòn “dơ cao, đánh khẽ,” chúng xử thật nặng: tuyên án tử hình hai người. Rồi, chỉ 45 ngày sau, chúng đưa các Tu sĩ ra tòa xử lại: án tử hình của hai can phạm Lê Mạnh Thát, Phạm Văn Thương giảm xuống án tù khổ sai 20 năm – bỏ qua án tù chung thân – bằng cách này chúng trả lời mà không cần phải nói với những người chống chúng:
“Xin khoan hồng, khoan hồng rồi, giảm án rồi! Ðòi gì nữa!”
Bị án tù 20 năm, hai tu sĩ Lê Mạnh Thát, Phạm Văn Thương phải ở tù khổ sai 15 năm mới được trở về chùa.
Linh mục Nguyễn Công Ðoan, cùng 9 linh mục, không có tội gì cả. Bọn Ác Công muốn chiếm Tu Viện Dòng Tên nên chúng bắt các ông. Chúng chiếm Tu Viện Dòng Tên êm ru. LM. Ðoan ở tù 12 năm.
Linh mục Nguyễn Hoàng Hai, Linh mục Ngô Quang Tuyên bị bắt vì tội tổ chức vuợt biên.
Thầy Sáu Trần Văn Bẩy, đã học xong nhưng không được làm Linh mục, bị bắt cùng 2 ông thầy khác vì tội in ronéo mấy bài giảng phát cho giáo dân, và tội in ronéo tập Lịch Công Giáo. Ra toà, hai ông thầy kia lãnh mỗi ông 3 năm tù, ông chủ nhà in ronéo tù 2 năm, máy ronéo bị tịch thu. Riêng Thầy Trần Văn Bẩy, vì quen biết và ái mộ Nhà Văn Duyên Anh nên lãnh tác phẩm “Ðồi Fanta” của Duyên Anh – viết ở Sài Gòn năm 1981 – về nhà đánh máy ra nhiều tập. Ðánh máy lén, tất nhiên. Khi bị xét nhà vì “tội in ấn bất hợp pháp” bọn Ác Cộng bắt được 1 bản đánh máy “Ðồi Fanta.” Vì tội “tàng trữ văn phẩm phản động,” Thầy Bẩy bị án 5 năm tù, cộng 3 năm tù tội in ấn, tất cả là 8 năm tù.
Hai mục sư Nguyễn Hữu Cương, Hồ Hiếu Hạ, Thầy Truyền Ðạo Lê Thiện Dũng không có tội gì cả. Bọn Ác Cộng bắt các ông để chiếm Nhà Thờ Tin Lành đường Trần Cao Vân, chiếm Kho Sách Tin Lành ở Nhà Thờ An Ðông, Sài Gòn.
oOo
Tôi bị quyến rũ bởi Lời và Ý Sách Giảng Viên — những bản dịch Kinh Thánh trước dịch là Truyền Ðạo — Những Lời như Thơ, những Ý Tình man mác…
Trích trong Kinh Thánh, bản do Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn xuất bản năm 1998:
Ở dưới bầu trời này mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhẩy; một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn; một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà.
oOo
CT Hà Ðông: Chúng ta ra đời trong Thế Kỷ Hai Mươi đẫm máu; máu đẫm thế kỷ 20 từ những ngày đầu đến những ngày cuối. Hai tai hoạ lớn nhất của loài Người cùng đến trong Thế Kỷ Hai Mươi: Hoạ Phát Xít và Họa Cộng Sản. Có nhiều quốc gia chỉ bị đau khổ vì một tai họa, Hoạ Phát Xít, hoặc Hoạ Cộng Sản, nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam bị khổ vì cả hai tai họa: bị Quân Nhật chiếm đóng, bị Cộng Sản tàn sát. Dân tộc Việt Nam đau khổ trong gần trọn Thế Kỷ Hai Mươi. Thế Kỷ Hai Mươi Mốt đến, chúng ta mong ta được hưởng một thời để yêu thương.
Thế 21 đến đã hơn 10 năm, chúng ta chưa thấy có dấu hiệu nào báo trước thời gian Ðất Nước Ta tươi sáng, dân tộc ta được hưởng an bình.
Ngược lại: trong những năm đầu Thế Kỳ 21, ta thấy nước Việt Nam của ta có thể sẽ trở thành một Tỉnh của Tầu.
oOo
Và đây những lời khuyên cuối của Vị Giảng Viên:
Giữa tuổi thanh xuân bạn hãy tưởng nhớ Ðấng đã dựng nên mình. Ðừng chờ đến ngày tai ương ập tới đừng chờ cho năm tháng qua đi, những năm tháng mà rồi bạn sẽ phải nói: “Tôi chẳng có được một niềm vui nào trong thời gian đó cả.” Ðừng chờ đến khi mặt trời với ánh sáng, mặt trăng cùng tinh tú đều trở thành tối tăm, và mây đen tụ lại khi cơn mưa đã dứt. Ngày ấy, người giữ nhà sẽ run lẩy bẩy, chàng trai vạm vỡ phải khòm lưng các cô xay bột không còn xay tiếp vì không đủ người xay, các bà nhìn qua cửa sổ: chỉ thấy lờ mờ. Ngày ấy, cánh cửa ngó ra đường sẽ đóng lại tiếng cối xay bột từ từ nhỏ đi, người ta trổi dậy khi vừa nghe tiếng chim hót và mọi cô ca sĩ sẽ phải lặng thinh. Ngày ấy, đường hơi dốc cũng làm người ta sợ, chân bước đi mà lòng thật kinh hoàng. Ngày ấy, hoa hạnh đào nở ra trắng xóa, loài châu chấu trở nên chậm chạp, nặng nề, trái bạch hoa hết còn hương vị. Bởi vì con người tiến đến nơi an nghỉ ngàn thu, bên đường đầy những người khóc than ai oán. Ðừng chờ đến khi sơi dây bạc đứt, bình vàng vỡ, vò nước bể ngay tại hồ chứa nước, ròng rọc gẫy, vụt rơi xuống giếng sâu. Ðừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình.
oOo
Phù vân, quả là phù vân, mọi sự đều là phù vân cả !
Trên đây là bản dịch tiếng Việt theo bản văn Kinh Thánh Cổ. Ðây là bản văn trên viết bằng tiếng Anh hiện đại, trích từ Good News Bible, Nhà Xuất Bản American Bible Society:
So remember your Creator while you are still young, before those dismal days and years come when you will say: “I don’t enjoy life.” That is when the light of the sun, the moon and the stars will grow dim for you, and the rains clouds will never pass away. Then your arms, that have protected you, will tremble, and your legs, now strong, will grow weak. Your teeth will be too few to chew your food, and your eyes to dim to see clearly.
Your ears will be deaf to the noise of the street. You will barely be able to hear the mill as it grinds or music as it plays, but even the song of a bird will wake you from sleep. You will be afraid of high places and walking will be dangerous. Your hair will turn white; you will hardly be able to drag yourself along, and all desire will be gone.
We are going to our final resting place, and then there will be mourning in the streets. The silver chain will snap, and the golden lamp will fall and break; the rope at the well will break, and the water jar will be shattered. Our bodies will return to the dust of the earth, and the breath of life will go back to God, who gave it to us.
Useless, useless, said The Philosopher. It is all useless…
Vậy hãy nhớ đến Ðấng Tạo Tác ra anh trong khi anh còn trẻ, trước khi những ngày, những năm sầu thảm đến và anh nói: “Tôi sống không lạc thú.” Ðó là khi ánh mặt trời, ánh mặt trăng và ánh sáng những ngôi sao mờ đi với anh, và mây đen cơn mưa không bao giờ tan đi nữa. Khi ấy cánh tay anh, những cánh tay vẫn bảo vệ anh, sẽ run run, và đôi chân anh, lúc này đang mạnh, sẽ trở thành yếu. Răng anh sẽ còn quá ít để có thể nhai thức ăn, mắt anh sẽ quá mờ để có thể nhìn rõ. Tai anh sẽ điếc với những tiếng động ngoài đường phố. Anh sẽ chỉ còn nghe được mơ hồ tiếng cối xay đang xay hay tiếng nhạc đang trổi, nhưng chỉ cần tiếng hót của con chim cũng làm anh thức giấc. Anh sẽ sợ hãi những nơi cao, việc đi lại sẽ trở thành nguy hiểm. Tóc anh sẽ bạc trắng; anh gần như chỉ còn có thể sống vất vưởng, và tất cả những ham muốn đều mất.
Chúng ta đi đến nơi an nghỉ cuối cùng, có tiếng than khóc bên đường. Sợi dây bạc sẽ đứt, chiếc đèn vàng sẽ rơi, sẽ vỡ, sợi dây thừng ở giếng sẽ đứt và bình nước sẽ tan tành. Thể xác ta sẽ trở về với bụi của đất, hơi thở của ta sẽ trở lại với Thượng Ðế, Người đã ban nó cho ta.
Vô ích, vô ích. Nhà Hiền Triết nói. Tất cả là vô ích.
oOo
Tại Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, một chiều Mùa Giáng Sinh, tôi nhớ quê hương, tôi tiếc thương tuổi trẻ, tôi viết bài này, tôi gửi bài viết này đến Linh Mục Nguyễn Công Ðoan, Thầy Sáu Trần Văn Bẩy, Tu sĩ Thích Tâm Lạc, Tu sĩ Thích Trí Siêu, Tu sĩ Thích Tuệ Sĩ, Giáo Sư Mã Thành Công, Kỹ Sư Lê Công Minh. Các vị tôi vừa kể hiện sống ở trong nước.
Và tôi gửi bài này đến Lâm Tới, anh Con Dzởm Phòng 10 Nhà Tù Chí Hòa của tôi, nay Tới là Chuyên Viên Bảo Hành Phi Cơ Không Người Lái của Không Lực Hoa Kỳ.
Tôi từng được ở tù chung phòng nhà tù Cộng Sản ở quê hương tôi với các vị trên đây, các vị Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ, Nguyễn Công Ðoan, Lê Công Minh, Trần Văn Bẩy, Mã Thành Công hiện sống ở Sài Gòn. Mục sư Nguyễn Hữu Cương, Mục sư Hồ Hiếu Hạ, Thầy Truyền Ðạo Lê Thiên Dũng nay là Mục sư, đang hầu việc Chúa ở Hoa Kỳ.
Việc dù có án tù phản động 8 năm nhưng nay Thầy Sáu Trần Văn Bẩy đã trở thành Linh mục, dù bị Cộng Sản phang án tù tử hình nhưng rồi Người Tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát cũng trở thành Viện Trưởng Viện Phật Học, làm tôi nghĩ:
Trong nhiều năm sau năm 1975, bọn Bắc Công vênh váo: “Ai thắng ai?”
Với câu hỏi này chúng muốn nói – theo giọng đàn anh Nga Cộng của chúng: “Duy Vật thắng Duy Tâm!”
Việc Thầy Sáu Trần Văn Bẩy trở thành Linh mục, Tù Tử Hình Trí Siêu Lê Mạnh Thát trở thành Viện Trưởng Viện Phật Học, việc Chủ Nghĩa Cộng Sản bị nhân dân Nga vứt vào hố rác, việc tượng Lenin, tượng Stalin bị dân Nga cho ra nằm ở miệng cống, việc bọn đảng viên Cộng sản bỏ Ðảng, tôi – CTHÐ – nghĩ:
“Duy Tâm thắng Duy Vật.”
Rõ hơn: “Tôn giáo thắng Vô thần.”
“Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo còn mãi với Loài Người ”
“Bọn Cộng Vô Thần chỉ hoành hành được một thời.”
oOo
Thân kính chúc quí vị và quý quyến Một Mùa GIÁNG SINH VUI và HY VỌNG.
CÔNG TỬ HÀ ÐÔNG Rừng Phong, sáng Ngày 22 Tháng 12, 2011.
oOo
Tôi gửi bài viết trên đây đến Linh mục Trần Văn Bẩy lúc 4 giờ chiều ngày 21 Tháng 12, 2011. Sáng nay – 22 Tháng 12, 2011 – tôi nhận được Thư Trả Lời của Linh Mục Trần Văn Bẩy:
“Cám ơn Thiên Chúa đã "đoái thương nhìn tới" những phận hèn làm người của từng anh em chúng ta. Tout est Grace ! Như lời Nữ Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu. Cám ơn Bác đã nhớ đến người anh em này là người đã có lúc chia vui, sẻ buồn với Bác trong một hoàn cảnh quá đỗi đặc biệt... Nhưng đó là hồng ân Chúa ban để ta nên người hơn trong Ðức Tin và trong niềm cậy trông vào Chúa.
“Cầu chúc hai Bác đầy tràn ân sủng của Chúa trong những ngày Mừng Chúa đến năm 2011 này.
Thân ái, LM Giuse Trần Văn Bảy”
CTHÐ: Xin cám ơn Thiên Chúa.
Hoanghaithuy
Sau khi TT. John F. Kennedy bị thảm sát. Tòa Ðô Chánh Sài Gòn đặt tên cho công trường trước Nhà Thờ Ðức Bà là “Công Trường Tổng Thống John F. KENNEDY.”. Khoảng ba tháng sau, thấy công luận không tán thành việc đặt tên này,bảng tên Công Trường John F.KENNEDY được thay bảng tên khác.
Phù vân, thật là phù vân.Tất cả chỉ là phù vân.
Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất vẫn mãi mãi trường tồn. Mặt trời mọc rồi lặn; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó mọc lên. Gió thổi xuống phiá nam, rồi xoay về phiá bắc: gió xoay lui, xoay tới rồi gió đi, gió trở qua, trở lại lòng vòng. Mọi khúc sông đều xuôi ra biển, nhưng biển chẳng bao giờ đầy. Sông chẩy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục. Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.
oOo
Trên đây là đoạn mở đầu Sách Giảng Viên — Ecclesiastes — trong Kinh Thánh. Bồi hồi tưởng nhớ những năm 1982, 1983 u ám khủng khiếp ở Sài Gòn tang thương, bọn ác ôn tịch thu tất cả những kho sách Kinh Ðiển Công Giáo, Tin Lành. Khi ấy, với những người Con của Thiên Chúa, và những người đau khổ tìm đến với Chuá, sách Kinh Thánh quí hơn Vàng. Người ta mua Vàng dễ dàng, người Sài Gòn có đô-la muốn mua bao nhiêu Vàng cũng có, nhưng người ta không thể tìm mua được Kinh Thánh, vì không có nơi nào ở Sài Gòn những năm ấy có sách Kinh Thánh.
“Các ngươi sẽ đói lời Ta từ bờ biển này sang bờ biển kia!”
Thưa Ngài, đúng như Lời Ngài. Sau 1975, chúng tôi đói lời Chúa một cách thê thảm. Một nhóm tu sĩ tại gia hầu việc Chúa ở những nhà thờ Trương Minh Giảng, Tân Sa Châu, Ngã Ba Ông Tạ, in ronéo một số bài giảng, tập lịch Công Giáo năm mới, phát cho tín hữu. Mấy ông Thầy Sáu – không được CS cho thụ phong Linh mục - bị bắt vào tù với tội “in ấn bất hợp pháp“. Ra toà năm 1985 ba ông thầy can tội “in ấn” lãnh mỗi ông ba cuốn lịch.
Lễ Giáng Sinh năm 1983 trong căn gác nhỏ ở Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, tôi ngồi dịch sách Ecclesiastes ra tiếng Việt. Tôi viết và trình bầy như một tập sách nhỏ, đem đến tặng các bạn ở nhà thờ, các bạn truyền tay nhau đọc, ai muốn có tập sách ấy chỉ cần chép lại hay đi chụp photocopy.
Hôm nay, tôi sống xa Ngã Ba Ông Tạ, xa Nhà Thờ Chí Hoà, Nhà Thờ Ðồng Tiến, Nhà Thờ Tân Ðịnh, Nhà Thờ Dòng Chuá Cứu Thế, Vương Cung Thánh Ðường… không biết bao nhiêu ngàn cây số. Trong căn phòng của vợ chồng tôi ở Rừng Phong hiện giờ có đến bốn, năm quyển Kinh Thánh. Sách Kinh Thánh quí nhất của tôi là bản tiếng Việt mới được dịch và xuất bản tại Sài Gòn. Trong số những vị dịch giả có Linh mục Nguyễn Công Ðoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam.
Năm 1987, rồi năm 1989, tôi ở tù chung phòng với Cha Nguyễn Công Ðoan ở Nhà Tù Chí Hoà và Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, Xuân Lộc, Ðồng Nai. Cha Ðoan bị án tù 14 năm. Cha, cùng nhiều Linh mục, bị bắt năm 1982.
Linh mục Nguyễn Công Ðoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam, không có tội gì cả. Linh mục bị bọn Cộng Thành Hồ bắt giam, vu tội phản động, xử án tù 14 năm, vì chúng muốn chiếm Tòa Nhà Chủng Viện của Dòng Tên.
Cha Ðoan từ Nhà Tù Chí Hòa đến Trại Tù Khổ Sai Z 30 A trước tôi. Nhờ có điều kiện có thể giúp được Trại, và các tù nhân, những mục như cung cấp dây điện, bóng đèn, ống nước, thuốc Tây – Cha Ðoan được Quản Ðốc Trại trọng đãi, Cha đi về Sài Gòn rất thường để tìm xin những thứ trên cho Trại – khi anh Doãn Quốc Sĩ và tôi từ Nhà Tù Chí Hòa đến Z 30 A, cha Ðoan thành lập một Ban Dịch Thuật cho chúng tôi làm. Ðể chúng tôi không phải đi cuốc đất. Nhóm Linh Mục Trương Bá Cần cung cấp mỗi tháng số tiền 1 triệu đồng nói là tiền trả công dịch thuật cho chúng tôi. Số tiền này được nộp hết cho Trại. Chúng tôi: Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Doãn Quốc Sĩ, Mã Thành Công, Ưng Sơ và tôi ngồi nhà dịch sách. Cha Ðoan là Trưởng Ban Dịch. Chúng tôi dịch văn liệu về Lịch Sử Truyền Giáo ở Ðàng Trong, Ðàng Ngoài những thế kỷ xưa. Những sử liệu này do nhóm Linh Mục Trương Bá Cần cung cấp, những bản dịch nộp cho LM. Trương Bá Cần.
Những ngày như lá, tháng như mây…
Năm 1990 tôi ra khỏi tù, vợ chồng tôi sang Kỳ Hoa năm 1994. Tháng Tám 1999 Cha Ðoan, từ Sài Gòn, đi công việc Ðạo sang Vatican, Roma, Ý Quốc. Cha có ông cháu ruột là Linh mục ở Virginia, nên Cha ghé sang Hoa Kỳ, Cha đến Washington DC và Cha đến Rừng Phong gập vợ chồng tôi.
Tôi đứng đón Cha dưới hàng cây trên lối vào Rừng Phong. Từng sống với nhau ở Nhà Tù Chí Hoà, Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, nào có bao giờ tôi tưởng tượng một buổi trưa mùa hạ tôi bồi hồi đứng trong con đường vắng, đầy bóng cây, trên đất Hoa Kỳ chờ Cha Ðoan đến.
Gập nhau mừng mừng, tủi tủi, Cha cầm tay tôi mãi như không muốn buông ra. Vợ chồng tôi thấy Cha không khác chút nào qua năm năm trời kể từ ngày chúng tôi đi khỏi Sài Gòn.
oOo
Trong lần tù thứ hai của tôi — 6 năm, từ 1984 đến 1989, ở Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu, Nhà Tù Chí Hoà, Trại Tù Khổ Sai Z 30 A — tôi ở tù chung phòng, tôi từng ăn chung với các Ông Tù Tôn Giáo:
Tu sĩ Thích Tâm Lạc, Tu sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tu sĩ Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Linh muc Nguyễn Công Ðoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam, Linh mục Nguyễn Hoàng Hai, Thư ký của Ðức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Linh mục Ngô Quang Tuyên, Thầy Sáu Trần Văn Bẩy, Mục sư Nguyễn Hữu Cương, Mục sư Hồ Hiếu Hạ, Thầy Truyền Ðạo Lê Thiên Dũng.
Tôi sống trong 6 năm, mỗi ngày vanh cát syua vanh cát — 24/24 giờ, tức suốt ngày đêm — với một số Tinh Hoa của Ba Tôn Giáo Phật Giáo, Thiên Chuá Giáo và Tin Lành. Không chỉ sống suông, tôi hoà đời sống của tôi với những buồn vui, sợ hãi, thất vọng và hy vọng của tôi với các vị tu hành tôi vừa kể. Trong 6 năm tù đầy, tôi không giúp gì được các vị, các vị giúp tôi thật nhiều. Nhiều nhất là về Tinh Thần, về Ðức Tin.
Một thời để Nhớ…
Chiều nay, chiều cuối đông, trời Virginia lạnh đến 2 Ðộ C, trong phòng ấm, bình an viết những dòng chữ này, tôi bồi hồi sống lại trong cuộc sống xưa của tôi trong những Phòng Tù Số 7, Phòng Tù Số 6, Sà-lim Số 10, Sà-lim Số 6 Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu, Phòng Tù Số 9, Phòng Tù Số 10, Phòng Tù Số 20 Nhà Tù Chí Hòa, Trại Tù Khổ Sai Z 30 A, tôi nhớ, tôi tưởng lại vẻ mặt, tiếng nói, tiếng cười của các vị ở tù cộng sản chung với tôi.
Một điều hay là từ ấy đến nay, năm đầu là năm 1984, năm cuối là năm 1989, hai mươi năm đã qua, tất cả những vị tôi vừa kể tên trên đây nay – Tháng 12 năm 2011 – đều còn sống. Và đa số các vị vẫn sống trong nước. Tôi gửi lời cám ơn và lời chúc bình an đến các vị.
Ba tu sĩ Phật Giáo Tâm Lạc, Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị bắt vì tội ở trong Tổ Chức Âm Mưu Lật Ðổ Bàn Thờ Bác Hồ — Tổ Chức mua súng, định lập chiến khu — các thầy bị bọn Ác Cộng phang án rất nặng: Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị án tử hình, sau xuống án tù 20 năm khổ sai, chịu án trong 15 năm mới được về chùa. Nói vì, và nhờ các tổ chức dân chủ, nhân quyền, Phật giáo Quốc Tế đòi hỏi, làm áp lực nên bọn Ác Cộng phải nới tay “ đánh “ các thầy là không đúng. Chỉ có tội thành lập tổ chức, ra tuyên ngôn, tìm mua súng, chưa giết được một thằng Ác Cộng, chưa bắn được một phát súng, chưa rải được một tờ truyền đơn, mà xử 2 án tử hình, nhiều án tù 20 năm, 18 năm, 15 năm, án nhẹ nhất là tù 4 năm, 2 người tù tử hình xuống án 20 năm, ở tù 15 năm mới được ra khỏi tù. Nó chịu áp lực, nó phải nhẹ tay chỗ nào?
Bọn VC Ma Ðầu nhờ kinh nghiệm đàn áp của hai đàn anh ác ôn của chúng là Nga Cộng, Tầu Cộng, biết khi xử vụ Tu Sĩ Già Lam Chống Cộng, chúng sẽ bị dư luận người trong nước, người nước ngoài, phản đối, cho là xử quá nặng, đòi khoan hồng, đòi giảm án. Nên chúng xử dụng đòn “dơ cao, đánh khẽ,” chúng xử thật nặng: tuyên án tử hình hai người. Rồi, chỉ 45 ngày sau, chúng đưa các Tu sĩ ra tòa xử lại: án tử hình của hai can phạm Lê Mạnh Thát, Phạm Văn Thương giảm xuống án tù khổ sai 20 năm – bỏ qua án tù chung thân – bằng cách này chúng trả lời mà không cần phải nói với những người chống chúng:
“Xin khoan hồng, khoan hồng rồi, giảm án rồi! Ðòi gì nữa!”
Bị án tù 20 năm, hai tu sĩ Lê Mạnh Thát, Phạm Văn Thương phải ở tù khổ sai 15 năm mới được trở về chùa.
Linh mục Nguyễn Công Ðoan, cùng 9 linh mục, không có tội gì cả. Bọn Ác Công muốn chiếm Tu Viện Dòng Tên nên chúng bắt các ông. Chúng chiếm Tu Viện Dòng Tên êm ru. LM. Ðoan ở tù 12 năm.
Linh mục Nguyễn Hoàng Hai, Linh mục Ngô Quang Tuyên bị bắt vì tội tổ chức vuợt biên.
Thầy Sáu Trần Văn Bẩy, đã học xong nhưng không được làm Linh mục, bị bắt cùng 2 ông thầy khác vì tội in ronéo mấy bài giảng phát cho giáo dân, và tội in ronéo tập Lịch Công Giáo. Ra toà, hai ông thầy kia lãnh mỗi ông 3 năm tù, ông chủ nhà in ronéo tù 2 năm, máy ronéo bị tịch thu. Riêng Thầy Trần Văn Bẩy, vì quen biết và ái mộ Nhà Văn Duyên Anh nên lãnh tác phẩm “Ðồi Fanta” của Duyên Anh – viết ở Sài Gòn năm 1981 – về nhà đánh máy ra nhiều tập. Ðánh máy lén, tất nhiên. Khi bị xét nhà vì “tội in ấn bất hợp pháp” bọn Ác Cộng bắt được 1 bản đánh máy “Ðồi Fanta.” Vì tội “tàng trữ văn phẩm phản động,” Thầy Bẩy bị án 5 năm tù, cộng 3 năm tù tội in ấn, tất cả là 8 năm tù.
Hai mục sư Nguyễn Hữu Cương, Hồ Hiếu Hạ, Thầy Truyền Ðạo Lê Thiện Dũng không có tội gì cả. Bọn Ác Cộng bắt các ông để chiếm Nhà Thờ Tin Lành đường Trần Cao Vân, chiếm Kho Sách Tin Lành ở Nhà Thờ An Ðông, Sài Gòn.
oOo
Tôi bị quyến rũ bởi Lời và Ý Sách Giảng Viên — những bản dịch Kinh Thánh trước dịch là Truyền Ðạo — Những Lời như Thơ, những Ý Tình man mác…
Trích trong Kinh Thánh, bản do Toà Tổng Giám Mục Sài Gòn xuất bản năm 1998:
Ở dưới bầu trời này mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời: một thời để chào đời, một thời để lìa thế; một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây; một thời để giết chết, một thời để chữa lành; một thời để phá đổ, một thời để xây dựng; một thời để khóc lóc, một thời để vui cười; một thời để than van, một thời để múa nhẩy; một thời để quăng đá, một thời để lượm đá; một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn; một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất; một thời để giữ lại, một thời để vất đi; một thời để xé rách, một thời để vá khâu; một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng; một thời để yêu thương, một thời để thù ghét; một thời để gây chiến, một thời để làm hoà.
oOo
CT Hà Ðông: Chúng ta ra đời trong Thế Kỷ Hai Mươi đẫm máu; máu đẫm thế kỷ 20 từ những ngày đầu đến những ngày cuối. Hai tai hoạ lớn nhất của loài Người cùng đến trong Thế Kỷ Hai Mươi: Hoạ Phát Xít và Họa Cộng Sản. Có nhiều quốc gia chỉ bị đau khổ vì một tai họa, Hoạ Phát Xít, hoặc Hoạ Cộng Sản, nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam bị khổ vì cả hai tai họa: bị Quân Nhật chiếm đóng, bị Cộng Sản tàn sát. Dân tộc Việt Nam đau khổ trong gần trọn Thế Kỷ Hai Mươi. Thế Kỷ Hai Mươi Mốt đến, chúng ta mong ta được hưởng một thời để yêu thương.
Thế 21 đến đã hơn 10 năm, chúng ta chưa thấy có dấu hiệu nào báo trước thời gian Ðất Nước Ta tươi sáng, dân tộc ta được hưởng an bình.
Ngược lại: trong những năm đầu Thế Kỳ 21, ta thấy nước Việt Nam của ta có thể sẽ trở thành một Tỉnh của Tầu.
oOo
Và đây những lời khuyên cuối của Vị Giảng Viên:
Giữa tuổi thanh xuân bạn hãy tưởng nhớ Ðấng đã dựng nên mình. Ðừng chờ đến ngày tai ương ập tới đừng chờ cho năm tháng qua đi, những năm tháng mà rồi bạn sẽ phải nói: “Tôi chẳng có được một niềm vui nào trong thời gian đó cả.” Ðừng chờ đến khi mặt trời với ánh sáng, mặt trăng cùng tinh tú đều trở thành tối tăm, và mây đen tụ lại khi cơn mưa đã dứt. Ngày ấy, người giữ nhà sẽ run lẩy bẩy, chàng trai vạm vỡ phải khòm lưng các cô xay bột không còn xay tiếp vì không đủ người xay, các bà nhìn qua cửa sổ: chỉ thấy lờ mờ. Ngày ấy, cánh cửa ngó ra đường sẽ đóng lại tiếng cối xay bột từ từ nhỏ đi, người ta trổi dậy khi vừa nghe tiếng chim hót và mọi cô ca sĩ sẽ phải lặng thinh. Ngày ấy, đường hơi dốc cũng làm người ta sợ, chân bước đi mà lòng thật kinh hoàng. Ngày ấy, hoa hạnh đào nở ra trắng xóa, loài châu chấu trở nên chậm chạp, nặng nề, trái bạch hoa hết còn hương vị. Bởi vì con người tiến đến nơi an nghỉ ngàn thu, bên đường đầy những người khóc than ai oán. Ðừng chờ đến khi sơi dây bạc đứt, bình vàng vỡ, vò nước bể ngay tại hồ chứa nước, ròng rọc gẫy, vụt rơi xuống giếng sâu. Ðừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình.
oOo
Phù vân, quả là phù vân, mọi sự đều là phù vân cả !
Trên đây là bản dịch tiếng Việt theo bản văn Kinh Thánh Cổ. Ðây là bản văn trên viết bằng tiếng Anh hiện đại, trích từ Good News Bible, Nhà Xuất Bản American Bible Society:
So remember your Creator while you are still young, before those dismal days and years come when you will say: “I don’t enjoy life.” That is when the light of the sun, the moon and the stars will grow dim for you, and the rains clouds will never pass away. Then your arms, that have protected you, will tremble, and your legs, now strong, will grow weak. Your teeth will be too few to chew your food, and your eyes to dim to see clearly.
Your ears will be deaf to the noise of the street. You will barely be able to hear the mill as it grinds or music as it plays, but even the song of a bird will wake you from sleep. You will be afraid of high places and walking will be dangerous. Your hair will turn white; you will hardly be able to drag yourself along, and all desire will be gone.
We are going to our final resting place, and then there will be mourning in the streets. The silver chain will snap, and the golden lamp will fall and break; the rope at the well will break, and the water jar will be shattered. Our bodies will return to the dust of the earth, and the breath of life will go back to God, who gave it to us.
Useless, useless, said The Philosopher. It is all useless…
Vậy hãy nhớ đến Ðấng Tạo Tác ra anh trong khi anh còn trẻ, trước khi những ngày, những năm sầu thảm đến và anh nói: “Tôi sống không lạc thú.” Ðó là khi ánh mặt trời, ánh mặt trăng và ánh sáng những ngôi sao mờ đi với anh, và mây đen cơn mưa không bao giờ tan đi nữa. Khi ấy cánh tay anh, những cánh tay vẫn bảo vệ anh, sẽ run run, và đôi chân anh, lúc này đang mạnh, sẽ trở thành yếu. Răng anh sẽ còn quá ít để có thể nhai thức ăn, mắt anh sẽ quá mờ để có thể nhìn rõ. Tai anh sẽ điếc với những tiếng động ngoài đường phố. Anh sẽ chỉ còn nghe được mơ hồ tiếng cối xay đang xay hay tiếng nhạc đang trổi, nhưng chỉ cần tiếng hót của con chim cũng làm anh thức giấc. Anh sẽ sợ hãi những nơi cao, việc đi lại sẽ trở thành nguy hiểm. Tóc anh sẽ bạc trắng; anh gần như chỉ còn có thể sống vất vưởng, và tất cả những ham muốn đều mất.
Chúng ta đi đến nơi an nghỉ cuối cùng, có tiếng than khóc bên đường. Sợi dây bạc sẽ đứt, chiếc đèn vàng sẽ rơi, sẽ vỡ, sợi dây thừng ở giếng sẽ đứt và bình nước sẽ tan tành. Thể xác ta sẽ trở về với bụi của đất, hơi thở của ta sẽ trở lại với Thượng Ðế, Người đã ban nó cho ta.
Vô ích, vô ích. Nhà Hiền Triết nói. Tất cả là vô ích.
oOo
Tại Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, một chiều Mùa Giáng Sinh, tôi nhớ quê hương, tôi tiếc thương tuổi trẻ, tôi viết bài này, tôi gửi bài viết này đến Linh Mục Nguyễn Công Ðoan, Thầy Sáu Trần Văn Bẩy, Tu sĩ Thích Tâm Lạc, Tu sĩ Thích Trí Siêu, Tu sĩ Thích Tuệ Sĩ, Giáo Sư Mã Thành Công, Kỹ Sư Lê Công Minh. Các vị tôi vừa kể hiện sống ở trong nước.
Và tôi gửi bài này đến Lâm Tới, anh Con Dzởm Phòng 10 Nhà Tù Chí Hòa của tôi, nay Tới là Chuyên Viên Bảo Hành Phi Cơ Không Người Lái của Không Lực Hoa Kỳ.
Tôi từng được ở tù chung phòng nhà tù Cộng Sản ở quê hương tôi với các vị trên đây, các vị Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ, Nguyễn Công Ðoan, Lê Công Minh, Trần Văn Bẩy, Mã Thành Công hiện sống ở Sài Gòn. Mục sư Nguyễn Hữu Cương, Mục sư Hồ Hiếu Hạ, Thầy Truyền Ðạo Lê Thiên Dũng nay là Mục sư, đang hầu việc Chúa ở Hoa Kỳ.
Việc dù có án tù phản động 8 năm nhưng nay Thầy Sáu Trần Văn Bẩy đã trở thành Linh mục, dù bị Cộng Sản phang án tù tử hình nhưng rồi Người Tù Trí Siêu Lê Mạnh Thát cũng trở thành Viện Trưởng Viện Phật Học, làm tôi nghĩ:
Trong nhiều năm sau năm 1975, bọn Bắc Công vênh váo: “Ai thắng ai?”
Với câu hỏi này chúng muốn nói – theo giọng đàn anh Nga Cộng của chúng: “Duy Vật thắng Duy Tâm!”
Việc Thầy Sáu Trần Văn Bẩy trở thành Linh mục, Tù Tử Hình Trí Siêu Lê Mạnh Thát trở thành Viện Trưởng Viện Phật Học, việc Chủ Nghĩa Cộng Sản bị nhân dân Nga vứt vào hố rác, việc tượng Lenin, tượng Stalin bị dân Nga cho ra nằm ở miệng cống, việc bọn đảng viên Cộng sản bỏ Ðảng, tôi – CTHÐ – nghĩ:
“Duy Tâm thắng Duy Vật.”
Rõ hơn: “Tôn giáo thắng Vô thần.”
“Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo còn mãi với Loài Người ”
“Bọn Cộng Vô Thần chỉ hoành hành được một thời.”
oOo
Thân kính chúc quí vị và quý quyến Một Mùa GIÁNG SINH VUI và HY VỌNG.
CÔNG TỬ HÀ ÐÔNG Rừng Phong, sáng Ngày 22 Tháng 12, 2011.
oOo
Tôi gửi bài viết trên đây đến Linh mục Trần Văn Bẩy lúc 4 giờ chiều ngày 21 Tháng 12, 2011. Sáng nay – 22 Tháng 12, 2011 – tôi nhận được Thư Trả Lời của Linh Mục Trần Văn Bẩy:
“Cám ơn Thiên Chúa đã "đoái thương nhìn tới" những phận hèn làm người của từng anh em chúng ta. Tout est Grace ! Như lời Nữ Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu. Cám ơn Bác đã nhớ đến người anh em này là người đã có lúc chia vui, sẻ buồn với Bác trong một hoàn cảnh quá đỗi đặc biệt... Nhưng đó là hồng ân Chúa ban để ta nên người hơn trong Ðức Tin và trong niềm cậy trông vào Chúa.
“Cầu chúc hai Bác đầy tràn ân sủng của Chúa trong những ngày Mừng Chúa đến năm 2011 này.
Thân ái, LM Giuse Trần Văn Bảy”
CTHÐ: Xin cám ơn Thiên Chúa.