Nguyễn Văn Lục
Tạp ghi
Bài viết này riêng tặng các luật sư trẻ như Lê Công Định, Lê Trần Luật
Tôi có hai đứa cháu nội. Chẳng nhiều nhặn gì so với người khác. Dầu vậy, chúng là điểm chuẩn (point de repère) cho tôi nhìn và so sánh với thế giới bên ngoài. Từ hồi chúng bắt đầu “cắp sách đi học”, tôi cũng bắt đầu học được nhiều thứ lắm.
Thật ra, tôi xin sửa lại cho đúng kẻo oan cho các cháu. Chúng nó chỉ có cái “bề ngoài” đi học. Đứa nào cũng đeo lủng lẳng một cái cặp nặng sau lưng, to bằng một phần tư thân hình.Thằng nhỏ đi đứng khệnh khạng làm ra quan trọng lắm. Kỳ thực trong đó chỉ có bánh mì, trái cây và nước trái cây.
Mang tiếng là nó đi học mà như thể đi chơi. Đến trường thì cô giáo phát cho dụng cụ như các loại bút chì mầu, tha hồ “vẽ bậy vẽ bạ” cái gì nó nghĩ ra được.
Vậy mà chúng “tiến bộ” từng ngày. Cả hai làm bố mẹ chúng ngạc nhiên. Trường học đã làm thay đổi ngay cả từ cử chỉ chào hỏi, cách đối đáp, biết mừng ngày lễ của mẹ, mừng sinh nhật, v.v... Trường xem ra không dạy gì cả mà dạy rất nhiều. Chưa kể chúng nói “sành sõi” đúng giọng tiếng Pháp không giống cái giọng cứng cỏi như ông nội nó. Điều ngạc nhiên là đến trường, chúng phân biệt chữ nào là tiếng Pháp cô giáo nói và chữ nào là tiếng Việt, bố mẹ nó nói. Có lần, tôi lười, uống xong lon bia, tiện tay quẳng cái vỏ lon bia vào thùng rác. Nó thấy được, “bắt quả tang” ông nội làm bậy. Nó nói, ông nội, ra dấu không bằng lòng rồi nắm tay tôi lôi ra phía thùng rác, bắt lấy lon bia vứt vào một thùng nhựa đề Recyclage (Recycle) gần đó. Xấu hổ quá. Tôi muốn nhờ họa sĩ Ba Bụi giúp vẽ cái cảnh cháu tôi, nó bắt tôi lượm vỏ lon bia để vào thùng Recyclage gửi cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Chẳng bao lâu sau thì tôi đâm nghi ngờ hình như chúng nó biết nhiều thứ lắm. Nhất là cháu gái lớn 6 tuổi. Nó biết cả những vấn đề mà Nguyễn Tấn Dũng cũng “mù” không biết, như vấn đề môi sinh, môi trường. Thật ra chẳng dám so sánh, nhưng cực chẳng đã phải nói thẳng vậy thôi. Nhưng tương lai Việt Nam mà rơi vào tay một người lãnh đạo vô học thì chỉ có chết. Nay ông Thủ tướng lại phát động thành lập những tổng công ty trọng điểm do nhà nước quản lý là thêm một bước lùi nữa. Chẳng bao lâu nữa, những công ty như đóng tầu thủy, Hàng không Việt Nam, dầu hỏa, điện lực, các ngân hàng sẽ là những ổ thụt két, ổ tham nhũng, làm ăn lỗ lã thất thoát vốn nhà nước.
Đất nước không khá được khi trao vào tay những kẻ cầm quyền ít học.
Hiện nay, 8 triêu dân Sài Gòn đang sắp sửa đua nhau mua áo tắm và học bơi trên một hồ tắm thiên nhiên trải dài trên khắp các quận huyện. Lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh báo động Sài Gòn sẽ bị ngập lụt khi có mưa lớn và khuyên nên chuẩn bị đối phó bằng cách tập bơi để tránh khỏi chết đuối. Có lẽ hơn ba chục năm nay, không có lãnh đạo nào tồi tệ, bất nhân, lì lợm như nhóm lãnh đạo hiện nay từ Trung Ương tới địa phương.
Đất nước có nguy cơ bị kéo sụp đổ.
Tuy con cháu tôi đã có chút hiểu biết về môi sinh, môi trường, nhưng vẫn chưa nói được hai chữ bô xít...
Còn computer thì khỏi nói. Chẳng ai dậy nó mà mới tý tuổi đầu, tự nó vào “gõ loạn lên.” Xem ra nó nắm được nguyên tắc, những “nguyên lý” của computer mà sau này nó sẽ qua mặt tôi dễ dàng.
Chúng đúng là những đứa trẻ. Chúng có tuổi trẻ của nó.
Có nghĩa là sống hồn nhiên, vô tư. Ai cũng phải nhìn nhận trẻ con Việt Nam sống ở nước ngoài sướng thật. Chúng là niềm hy vọng trước cả niềm hy vọng.
Nhưng cái vương vấn của tôi là cứ nhìn đến các cháu bên này hay đọc tài liệu phía Việt Nam và Trung Quốc liền nghĩ đến các trẻ bên Việt Nam.
Chúng không được cái cơ may sống như một đứa trẻ hải ngoại và nói một cách nghiệt ngã như nhà văn Lu Xun, nhà văn lớn Trung Hoa của thế kỷ 20, đã dự đoán tương lai những đứa trẻ Trung Hoa rằng: “Trước khi đứa trẻ mở miệng nói, người ta đã cho là nó lầm lỗi rồi.” Điều đó, áp dụng cho cả những đứa trẻ đã trưởng thành như các anh luật sư Luật, Định. Họ đã dùng cả bộ máy công an khổng lồ của nhà nước để trấn áp một thanh niên trẻ tuổi bắt nhận tội trước cả khi tòa xét xử. Cái nỗi nhục không phải từ phía luật sư Lê Công Định mà từ phía những kẻ man rợ trấn áp anh.
Khi các anh ra tòa thì xin các anh nhận thêm một tội này, tội lớn nhất: Đó là tội đã trót sinh ra làm người Việt Nam sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa... Các anh đang sống ở một nơi mà bộ máy quản lý con người (La machine humaine) thuộc loại tàn độc và bạo hành khủng khiếp nhất với hơn 3 triệu cán bộ. Các anh chỉ có thể hiểu được tại sao tôi nói thế, khi các anh đã sống ở các nước thế giới tự do.
Cứ mỗi lần nghĩ tới cháu tôi hoặc các trẻ em bên này, tôi không thể không chạnh lòng, than thở với vợ. Cô ấy gạt đi và nói, “thây kệ họ, mình ở đây hơn 30 năm rồi, mình làm gì được?”
Đúng vậy, nhưng chỉ vì một lẽ là mình còn có một trái tim.
Trẻ em Việt Nam chúng không có cơ may làm người. Ngay dù hiện tại chúng là một đứa trẻ thì đã gánh trên vai trách nhiệm nặng nề của một tương lai nghiệt ngã sắp tới.
Bỏ ra ngoài lề những đứa trẻ chẳng may số phận bất hạnh như mồ côi, lạc loài sống chung giữa những đống rác hay mới 5 tuổi đầu mà mẹ đã bắt đi ăn mày, hoặc 13, 14 tuổi đã bị gả bán cho ngọai kiều. Những sự bất hạnh ấy giống như những hạt cát trong hằng hà những hạt cát trên bãi biển, bị sóng xô đẩy, vùi dập rồi còn bị những bước chân con người vô tình thản nhiên dẫm lên.
Nhưng ngay cả đa số những đứa trẻ được ăn học thì số phận chúng cũng bị dập vùi đủ thứ bất hạnh. Chúng đang sống ở một nơi mà quyền sống, quyền làm người không có gì bảo đảm. 83 triệu người cúi đầu khiếp sợ trước hơn 3 triệu đảng viên. Luật lệ là do họ, bắt bớ tù đầy là do họ. Kết quả đó là một xã hội còn ở tình trạng thô thiển (simple), khép kín như một trại súc vật hay một thứ trại lính (système encaserné). Ở bên Tầu, một tỉ 300 triệu người cũng cúi đầu khuất phục trước 64 triệu đảng viên đang làm mưa làm gió như vậy.
Ở Việt Nam cũng như bên Tầu, chính trị có mặt khắp nơi. Nó có mặt trên những tấm biểu ngữ người ta đọc được như: Mừng Xuân, mừng Đảng. Tôi đã đọc được những biểu ngữ như thế trên đường phố Sài Gòn và Huế. Tôi buồn cười mà chua chát. Khắp nơi đều có các phường Văn hóa mà vô Văn hóa. Loa phóng thanh còn tồn tại khắp nơi, ngay cả thành phố Hà Nội và cộng vào đó hơn 600 tờ báo đủ loại, chưa kể đài phát thanh, vô tuyến truyền hình.
Chỉ cần có một biến cố gì đó như vụ Thái Hà là vang vang khắp nơi như bầy chó sủa.
Họ át tiếng người.
Họ như những sợi dây trời. Có những sợi vu oan, sợi dối trá, sợi trói tay người, sợi tra tấn, sợi hù dọa. Chỉ thiếu sợi tình người, sợi chia sẻ.
Họ gần như mỗi ngày đi xa khỏi giống người.
Trong tinh thần đó, hy vọng gì có một Thiên An Môn thứ hai xảy ra trên đất nước Tàu, Và dĩ nhiên cả ở trên đất nước Việt Nam nữa.
Một ngày mùa đông trên quảng trường Thiên An Môn. Hôm đó vào một ngày có trời tuyết. Một người cha dắt con đến đó và đắp một tượng người bằng tuyết cho con chơi. Một người lính đến và dùng chân đạp sập tượng người tuyết và nói rằng: Ở quảng trường này không có chỗ cho người tuyết. Đứa trẻ khóc thút thít.
Người tuyết không có quyền được có mặt trên quảng trường, trẻ con cũng vậy và ngay cả một chút mơ mộng của một đứa trẻ cũng không có nốt.
Cứ nhìn cây thì biết rừng như thế nào. Vì thế cây không thể nào che dấu được rừng.
Ngay từ tuổi thơ, trẻ em Việt Nam đã bị dập vùi học với thi cử. Chưa kể chẳng may bụng dạ không tốt, muốn đi ị cũng không xong, vì trường học không có cầu tiêu, hay cầu tiêu quá dơ bẩn. Sao mà khốn khổ thế.
Một nhà báo Pháp, ông Éric Meyer trong cuốn sách nhan đề: Sois riche et tais-toi! Portrait de la Chine d’aujourd’hui. (Cứ làm giàu đi và câm cái miệng của anh lại). Cuốn sách viết về nước Tàu mà giống y hệt Việt Nam. Chỉ cần bỏ chữ Chine và thay vào đó chữ Việt Nam là xong. Ông Meyer lập nghiệp và lấy vợ Tàu, sống ở Bắc Kinh từ năm 1987 đã viết vỏn vẹn như thế này về việc học bên Trung Quốc: “En Chine, les études se conjuguent avec les larmes.”
Ở bên Tàu, việc học đi đôi với nước mắt.
Sao nó giống Việt Nam thế. Cha mẹ cứ rình, hễ đứa trẻ hở ra một phút nào là bắt đi học thêm. Và đây là thời khóa biểu của một bé gái con nhà có cuộc sống tương đối khá. 7giờ 30 tới trường. Chiều về, tuần ba buổi tới nhà cô giáo học thêm. Những buổi còn lại dành cho một buổi học đàn Piano, một buổi học Anh Văn. Đặc biệt thứ bảy có học thêm hai giờ toán. Chưa kể chiều thứ năm, công tác đoàn đội. Ngày thứ bảy kể từ 11 giờ là vui nhất vì đến nhà thờ, sau đó sinh hoạt vui chơi như hát hay múa. Chính quyền cũng không phải là không nhìn thấy cái “lợi ích” của sinh hoạt nhà thờ. Họ muốn giao trách nhiệm cho nhà thờ lắm. Nhưng họ còn ngại.
Ngay từ lúc 4 tuổi, Zhou Jaying đã được cha mẹ ghi tên học thêm cours nói tiếng Mỹ và một cours đàm thọai tiếng Anh. Cha mẹ em hy vọng sau này có thể gửi con sang học đại học ở Hoa Kỳ. (Trích bài của De Leslie T. Chang trong số National Géographic, tháng 5, 2008) Xin nói thêm về tác giả. Leslie T. Chang đã sống ở bên Tàu 10 năm. Cuốn sách của tác giả có tựa đề thật “bức xúc”: Factory girls.
Theo Nguyễn Đức Tuyên, học thêm không có nghĩa là dốt. Vì thế học thêm là một nhu cầu giả.
Tôi nghĩ việc học thêm này là một nhu cầu xã hội cạnh tranh, nhu cầu kinh tế để sinh tồn, nhu cầu có chỗ đứng trong xã hội, một truyền thống giáo dục trong các gia đình Á Châu như Đại Hàn, Nhật, Trung Quốc. Nhưng trong việc đi tìm một sự phát triển đổi mới do bản thân các cha mẹ đã trải nghiệm những lo toan sinh tồn trong cái đi tìm (Quête) một đời sống bình ổn nhờ vào học vấn. Kinh nghiệm đau xót ấy được chuyển giao, đặt trên vai thế hệ con cháu thêm một tầng áp lực thứ hai nữa tạo thêm một tầng áp lực “quá tải”. Vì thế, việc học thêm trở thành một ám ảnh tương lai tuyệt đối mà bất cứ ai khi nghĩ đến tương lai, đến thành công đều hy sinh tốn kém, thực hiện cho bằng được.
Dĩ nhiên, những bậc cha mẹ đã không có chút hiểu biết gì về phương pháp đào tạo và giáo dục cả. Nước Tàu cũng rơi vào căn bệnh y như Việt Nam để rồi những đứa trẻ nào nhẫn nại nhất, chịu khó nhất, tự kỷ (autistes) nhất sẽ có chỗ đứng trong đại học. Nhưng ít ra người Tàu còn có 20 thế kỷ ngự trị của Hán tộc làm đuốc soi đường mà dấu vết văn minh còn sót lại như những dấu tích và truyền thống không quên. Nó chẳng khác gì đế quốc La Mã thời xưa: Hai thế giới, hai siêu cường trong quá khứ lịch sử. Mặc dầu vậy, cả hai nền văn minh ấy đều dựa trên những căn bản dị biệt: Sự thịnh vượng của triều đại Hán tộc là dựa trên những người nông dân tự do, còn sự thịnh vượng của La Mã rõ ràng là dựa trên lưng của người nô lệ.
Con cháu họ sau này mải mê việc học có cái truyền thống của họ.
Còn chúng ta đã phải trả giá một giá quá cao đến cái giới hạn cuối cùng của sức người. Nhất là chúng ta đã hoàn toàn hy sinh tuổI trẻ.
Còn đâu là cuộc đời đứa trẻ với tuổi thơ. Đến năm 12 tuổi, gánh nặng tương lai đã đè nặng trên vai bởi vì những nỗi lo âu của cha mẹ bắt đầu trút xuống trên đôi vai tuổi trẻ. Không học thì tiêu đời. Vì vậy, theo thống kê của người Trung Quốc 30% trẻ em Trung Quốc bị stress trong đó nhiều em có xu hướng muốn tự tử. Nhiều trẻ đã thất bại trong việc học, Con số lên đến 70%. Thất bại việc học một cách tự động kéo theo đi tìm sex như một chỗ trú ẩn trong mò mẫm “tự học” hoặc “tự dẹp” (autorépression), không có sự hướng dẫn của cha mẹ và trường học. Kết quả là 50% các vụ phá thai ở các nhà thương ở Bắc Kinh là những cô gái độc thân và trong đó có 17% là gái vị thành niên.
Ở Việt Nam cũng không khác gì, nhiều học sinh chán nản việc học quay ra tìm thú vui nhục dục. Rượu gọi rượu đưa tới những tệ nạn dây chuyền như du đãng, mãi dâm, nghiện ngập, bệnh Aids, nạn phá thai và cuối cùng tự tử. (Xin xem thêm bài viết Giáo dục và tuổi trẻ, Diễm Uyên và bài Một cái nhìn về thực trạng giáo dục Việt Nam, Nguyễn Đức Tuyên, tập san Truyền Thông, số 17, mùa thu 2005).
Những con số ấy có thể nào giúp một cái nhìn quy chiếu về tương lai giáo dục Việt Nam không?
Cho nên, việc học lấy được chỉ cốt đào tạo những cái đầu cho đầy và để đến cuối năm thi cử, trả bài. Người ta kiểm tra cái vốn học thay vì cái tính luận lý, suy luận.
Đó là cái học theo tinh thần: Thầy đọc, trò ghi. Nó như mưa thì từ trên trời rơi xuống. Đã đến lúc cần có mưa rơi ngược. Mưa từ dưới đất lên trời? Để cho mưa làm ướt trời thay vì ướt đất.
Trường học Việt Nam, một thứ Chinese model cũng như bên Tàu là nơi đến đó để buồn, để chán nản. (L’école chinoise rest un endroit òu l’on s’ennuie).
Kết quả chất lượng học tập là học sinh Việt Nam có tỷ lệ thấp nhất trong vùng. So với Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, chỉ số chất lượng giáo dục Việt Nam đạt 3.79 trên thang điểm 10, áp chót, chỉ hơn Indonesia.
Tôi nói có người làm chứng. Em Nguyễn Phi Thanh, lớp 11 A18 trường Trung Học phổ thông Việt Đức, Hà Nội trong kỳ thi giỏi các lớp không chuyên Hà Nội, ngày 18/03/2005 đã viết trong bài thi như sau:
Em nghĩ, đứng trước một tác phẩm văn học, bao giờ cũng có ý kiến trái ngược khen-chê, hay-dở, nhưng dường như học sinh bọn em chỉ có quyền thích, chỉ có quyền khen hay mà không có quyền nói lên chính kiến của mình, và việc phê bình văn học hình như chỉ là việc của các nhà phê bình như Hoài Thanh, Hoài Chân. Nhìn ra, chỉ ra cái hay của một tác phẩm văn học đã khó, nhưng chỉ ra cái hạn chế, thiếu sót của tác phẩm ấy còn khó nữa, vậy mà chưa bao giờ bọn em được tỏ rõ chính kiến của mình trong một bài thi, tất cả chỉ vì áp lực của điểm số.”
Phản ứng của em Thanh không thể coi nhẹ. Nó sẽ tiếp nối những tư tưởng đối kháng và tiến bộ của những Lê Trần Luật, Lê Công Định bây giờ.
Ở bên Tàu, các bài học về chính trị dùng cho các trường học từ thập niên 1950 đã được cải sửa vào năm 1998. Người ta đã tạm quên, tạm gác bỏ (en sourdine) môn học đó. Và thay vào đó cho thêm những vấn đề như kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán và quản trị xí nghiệp. Tuy nhiên, những điểm “cốt lõi” như quyền và vai trò của đảng trong nhà trường cũng như những nhiệm vụ của học sinh đối với nhà nước vẫn giữ nguyên.
Chẳng hạn có những giờ được quy định từ sáng sớm, mất giấc ngủ sáng, học sinh phải đến sân vận động tập thể dục tập thể. Trên tay mỗi học sinh cầm hai lá cờ đỏ, hoặc tấm biểu ngữ rồi múa theo nhịp của vận động viên. Hàng ngàn ngàn học sinh sinh cứ tập đi, tập lại như thế trong cả năm để chờ đến các dịp lễ thì ra múa như dịp Thế vận Olympic vừa rồi chẳng hạn.
Trông thì đẹp mắt lắm, nhưng chẳng ai tự hỏi xem cái giá mà tuổi trẻ phải trả là bao nhiêu? Người ta gọi môn thể dục đó là múa Callisthénie. Có thể nó phần nào như lối múa thi sắc đẹp thời cổ Hy Lạp vậy?
Việt Nam không quen múa may thì may ra có thể miễn trừ được môn học này.
Cái bất ngờ đến sửng sốt là có khóa hội thảo trên toàn nước Tàu vào năm 2000 về sư phạm, người ta mới kịp khám phá ra rằng chương trình giáo dục khoa luân lý học của Tàu đã biến mất.
Nền giáo dục của Tàu không nói tới đạo lý nữa. Và vì vậy những kẻ yếu đuối, thấp hèn không được pháp luật bảo vệ. Bên Việt Nam thì vấn đề đã rất rõ ràng: Chỉ học theo gương bác Hồ.
Đã thế việc đầu tư vào giáo dục ở Việt Nam là quá thấp so với các nước khác. Mã Lai đầu tư cho giáo dục 720 đô la đầu người. Thái Lan 350, Trung Quốc 105, và Việt Nam vỏn vẹn 35. Nếu tính trên cả nước, nước Tàu dành 2.66 tỷ cho giáo dục trong khi đó dành đến 45 tỉ đô la cho Quốc Phòng...
Giữa Mã Lai vã Việt Nam, tương lai tốt đẹp sẽ dành cho nước nào?
Vì thế, một nhà giáo dục ông Qian Liqun đã cho xuất bản vào tháng tư năm 1999, đại học Shantou, Canton cuốn sách nhan đề: L’enseignement littéraire à l’école intermédiaire, trong đó có ý tưởng chủ đạo là: Không thể có bất cứ cuộc cải cách giáo dục nào nếu không đặt lại vấn đề vai trò trung tâm của chủ thuyết Mác Xít trong giáo dục.Từ năm 1942, tư tưởng chủ đạo của Mao Trạch Đông cho rằng mọi thứ nghệ thuật thì đều phải dựa vào Đảng, phải lấy Đảng làm gốc và Đảng sẽ là cái loa tuyên truyền của ý thức hệ.
Cũng như mọi chế độ cộng sản, Môn chính trị ở bên Tàu cũng như ở bên Việt Nam. Chủ nghĩa Mác Xít đã ngênh ngang ùa vào lớp học một cách ép buộc. Cho đến ngày 22/12/2004, các môn Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là phương án cho các kỳ thi tốt nghiệp của các trường đại học ở Việt Nam. Người đi học vẫn tiếp tục cắm cúi tụng niệm một môn học mà chính thầy không muốn dạy và trò không muốn học.
Môn sử học lớp 12 vẫn học về những năm chiến thắng Điện Biên Phủ và những năm chống Mỹ cứu nước. Đó là một thứ sử phi sử vì nhằm mục đích tuyên truyền thay vì giúp cho học sinh hiểu lịch sử đất nước mình.
Tôi chỉ không hiểu là về môn địa lý, chính quyền đã làm lễ hỏa thiêu bản đồ cũ Atlas Việt Nam chưa? Và đã xây dựng được một nghĩa trang để chôn bản đồ atlas cũ với tấm bia kỷ niệm với hàng chữ: Nơi đây chôn cất 5 triệu người đã hy sinh để bảo vệ tấm bản “dư đồ” này.
Và kể từ nay, chúng ta đã vẽ xong tấm bản đồ mới với Trung Quốc về biên giới đất và biên giới biển mà đã không phải tốn kém một giọt máu nào.
Cho nên, đã đến lúc phải coi chủ nghĩa Mác với những lãnh tụ như Lenin, Trostsky, Sokolnikov, Staline, Zinoviev không còn chỗ đứng nữa trong lịch sử. Lịch sử quả có một hướng đi lên, nhưng không nhất thiết không chỉ đi theo một hướng duy nhất. Không thể mãi mãi có những con đường một chiều, không có lối quay nhìn trở lại.
Phải hạ ảnh của họ xuống.
Con gấu cách mạng Stalin vào năm 1932, trong kế hoạch ngũ niên đã hứa hẹn như thế này:
– Trước đây, ta không có kỹ nghệ thép (Staline bị ám ánh vào kỹ nghệ thép, luyện kim). Bây giờ chúng ta có rồi.
– Trước đây ta không có kỹ nghệ trắc-tơ. Bây giờ chúng ta có rồi.
– Trước đây, ta không có kỹ nghệ xe hơi . Bây giờ chúng ta có rồi.
– Trước đây chúng ta không có kỹ nghệ cơ khí. Bây giờ chúng ta có rồi.
– Trước đây chúng ta không có kỹ nghệ hóa học. Bây giờ chúng ta có rồi.
Để thực hiện được những điều đó, chúng ta cần ăn đói mặc rách để biến mồ hôi thành nhà máy.
Để thực hiện những điều đó, 30 năm chúng ta không thấy ánh sáng mặt trời, vì một người đã biến thành “mặt trời của nhân loại.”
Để thực hiện những điều đó, chúng ta cần chịu đựng một bản án khai trừ, lưu đầy, xử tử, ngay cả thủ tiêu để thực hiện được thiên đàng xã hội chủ nghĩa trên đỉnh núi Sinai-Kremlin...
Nhân loại đã phải trải qua những thời của một triều đại tàn độc phi nhân như Staline, Mao Trạch Đông, Lê Duẩn như một thứ Tần Thủy Hoàng của thời đại bấy giờ.
Xem ra thì cái mô hình, kiểu mẫu thử nghiệm đầu tiên bao giờ cũng phải trả một giá quá đắt.
Kết thúc bài này
Đây chỉ là một bài tạp luận trong đó hệ số bản thân người viết là chủ yếu. Giáo dục là tương lai của một dân tộc. Nhìn vào nền giáo dục Việt Nam, tôi không còn thấy tương lai cho Việt Nam nữa. Nó đang đi trên đà phá sản với tập đoàn đảng cộng sản cầm quyền.
Ai trong lúc này có thể thắp lên một ngọn nến hy vọng ngoài giới trẻ? Ngay nước Tàu được coi như tiêu biểu của ngọn đuốc phát triển kinh tế. Đó chỉ là cái bề mặt. Họ đã hy sinh tất cả cho phát triển mà bỏ rơi các vấn đề xã hội. Chỉ nội Bắc Kinh thôi. Có khoảng 250.000 trẻ em bỏ học, đi lang thang đầu đường xó chợ. Theo Daniel Stocecklin, (lấy lại trong Sois riche et tais-toi, Éric Meyer, trang 215) một nhà xã hội học với một luận án tiến sĩ về trẻ em lêu lỏng ở Thượng Hải. Ông cho rằng từ năm 1993 đến 1996, có khoảng 44% trẻ em sinh ra một cách dấu diếm và bất hợp pháp”, vì không có giấy tờ khai sinh. Và rằng cứ mỗi năm, nước Tàu có thêm 2 triệu trẻ em “sinh lậu” như thế. Và tổng cộng lại có 25% số đó bị chính cha mẹ bỏ rơi vì không có tiền bạc để nuôi dưỡng. Và theo UNESCO, người ta tính ra có 10 triệu trẻ em đi hoang trong vòng 20 năm nay.
Không ai có những con số chính thức như thế về tình trạng trẻ em Việt Nam. Nhưng một cách dự đoán khiêm tốn, con số trẻ em đi hoang có thể lên tới nửa triệu trẻ em trên toàn quốc.
Đấy là những con số làm đau lòng nhiều người. Đi bất cứ đâu, đến bất cứ chỗ nào, khách du lịch cũng bị một bầy trẻ em bao quanh làm phiền, quấy nhiễu mà không nhẽ chối từ? Có ai đã gặp những cảnh đó chưa? Nhưng chính quyền hiện này cũng phủi tay.
Và theo phúc trình của Liên Hiệp Quốc vào năm 1987, Việt Nam là một trong 12 nước dốt và lạc hậu nhất thế giới.
Nhìn cây thì thấy rừng, nhìn trẻ em Việt Nam ngày hôm nay để sẽ thấy được cái bảng chỉ đường đất nước đi về đâu? Hỏi là đã trả lời.
-
Bùi Bảo Trúc Bạn ta, Hôm đi mua sách cũ với người bạn mấy tuần trước, tôi mua được bức poster The Old Guitarist của Picasso đóng khung rất đ...
-
Tích ngã vị sinh thì. Minh minh vô sở tri. Thiên công hốt sinh ngã. Sinh ngã phục hà vi. Vô y sử ngã hàn. Vô phàn sử ngã ky. Hoàn nhĩ công s...
-
Bill Hayton (Đinh Từ Thức dịch) Lời người dịch: Bill Hayton là ký giả thường trú của BBC tại Việt Nam vào năm 2006-7. Trong khoảng thời gia...